ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
========***========
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
THAM NHŨNG VÀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
DƯỚI THỜI LÊ - TRỊNH (1599 - 1786)
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương Hồng
Chuyên ngành
: Sư phạm Lịch sử
Lớp
: 17SLS
Người hướng dẫn
: TS. Lê Thị Thu Hiền
Đà Nẵng, tháng 1 năm 2021.
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy, Cô
khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã nhiệt tình giảng dạy,
gợi mở cho em nhiều kiến thức trong quá trình học tập và thực hiện đề tài khoá
luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất của mình tới Cơ giáo - TS. Lê
Thị Thu Hiền người đã hết lòng tận tình hướng dẫn, định hướng chun mơn, quan
tâm giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp em hồn thành đề tài khố
luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình,
bạn bè đã động viên, giúp đỡ em trong suốt q trình học tập và hồn thành đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong q Thầy Cơ và các bạn đọc đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2020.
Tác giả
1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................9
3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................9
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................9
4.1. Mục đích nghiên cứu .....................................................................................9
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................9
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................10
5.1. Nguồn tư liệu ...............................................................................................10
5.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................10
6. Đóng góp của đề tài ...........................................................................................11
7. Cấu trúc của đề tài .............................................................................................11
NỘI DUNG ..............................................................................................................13
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỜI LÊ - TRỊNH VÀ HIỆN TƯỢNG
THAM NHŨNG TRƯỚC THỜI LÊ - TRỊNH ....................................................13
1.1. Tổng quan về thời Lê - Trịnh..........................................................................13
1.1.1. Tình hình chính trị ....................................................................................13
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội..........................................................................16
1.1.3. Tình hình văn hố - tư tưởng ....................................................................20
1.2. Khái niệm tham nhũng....................................................................................23
1.3. Khái quát về hiện tượng tham nhũng và phòng chống tham nhũng trước thời
Lê - Trịnh ...............................................................................................................26
2
1.3.1. Thời Lý - Trần - Hồ ..................................................................................26
1.3.2. Thời Lê sơ - Mạc ......................................................................................30
CHƯƠNG II: HIỆN TƯỢNG THAM NHŨNG DƯỚI THỜI LÊ - TRỊNH
(1599 - 1786) .............................................................................................................34
2.1. Biểu hiện của tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh .............................................34
2.1.1. Trên phương diện chính trị.......................................................................34
2.1.1.1. Trong tuyển lính, quản lý quân đội .......................................................34
2.1.1.2. Trong tuyển dụng quan lại ....................................................................34
2.1.1.3. Trong quản lý địa phương .....................................................................37
2.1.2. Trên phương diện kinh tế .........................................................................39
2.1.2.1. Tham nhũng trong thu thuế ...................................................................39
2.1.2.2. Chiếm đoạt ruộng đất công ...................................................................41
2.1.2.3. Ẩn lậu ruộng đất ....................................................................................42
2.1.3. Trên phương diện giáo dục ......................................................................43
2.1.3.1. Ức hiếp sĩ tử lấy tiền bạc .......................................................................43
2.1.3.2. Lấy tiền chấm đỗ, lấy đỗ bừa bãi ..........................................................43
2.1.3.3. Nhận tiền cho người làm bài thay .........................................................46
2.2. Hệ quả của nạn tham nhũng thời Lê - Trịnh ...................................................47
2.3. Nhận xét chung ...............................................................................................51
CHƯƠNG III: CHÍNH QUYỀN LÊ - TRỊNH VỚI VIỆC PHỊNG CHỐNG
THAM NHŨNG (1599 -1786) ................................................................................54
3.1. Các biện pháp phịng chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh ......................54
3.1.1. Trừng trị các hành vi tham nhũng ............................................................54
3.1.2. Giáo dục phẩm chất đạo đức cho quan lại theo tư tưởng Nho giáo ........63
3.1.3. Ban hành các điều lệ ................................................................................66
3.1.4. Biểu dương và hậu thưởng cho những quan lại thanh liêm .....................70
3
3.1.5. Chính sách tuyển bổ, sử dụng, đãi ngộ quan lại rõ ràng, hợp lý .............75
3.1.6. Tăng cường hoạt động của cơ quan giám sát thời Lê - Trịnh .................79
3.2. Một số nhận xét ..............................................................................................82
3.3. Bài học kinh nghiệm .......................................................................................83
KẾT LUẬN ..............................................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................89
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bất kì một thời đại nào, từ phong kiến cho đến xã hội hiện đại ngày nay,
tham nhũng được coi là vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là một trong
những nguyên nhân khiến cho bộ máy quyền lực nhà nước bị tha hoá, đời sống kinh
tế - xã hội bị suy thoái, tạo nên sự phản kháng của người dân. Chống tham nhũng
được xem là một trong những tiêu chí hàng đầu để duy trì, củng cố, tăng cường sức
mạnh quốc gia.
Thời kỳ Lê - Trịnh là một thời kỳ có rất nhiều biến cố lịch sử sơi nổi, phức tạp
và thể chế nhà nước cũng có nhiều nét đặc thù. Thời Lê - Trịnh được gọi là thời kỳ
“Lưỡng đầu chế” bởi nó tồn tại song song hai hệ thống chính quyền cùng điều khiển
đất nước: Một bên là triều đình của vua Lê và bên kia là vương phủ của chúa Trịnh.
Hai thế lực phong kiến này vừa phải dựa vào nhau để trị nước quản dân vừa mâu
thuẫn với nhau về quyền lực và quyền lợi. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại của
mình (1599 - 1786), thời Lê - Trịnh không chỉ vấp phải những khó khăn về chính
trị, kinh tế mà những hiện tượng về tham nhũng cũng nổi lên trong bộ máy nhà
nước dưới thời Lê - Trịnh và trở thành một vấn đề nổi cộm trong xã hội lúc bấy giờ.
Chính những hiện tượng tham nhũng trong bộ máy nhà nước đã tác động xấu đến
tình hình xã hội, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước thời bấy giờ. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề này đóng một vai trò rất quan trọng, đây là cơ sở để chúng
ta nhận thức một cách đúng đắn, khách quan về tình hình quan lại thời Lê - Trịnh
nói riêng và thời phong kiến nói chung, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm
làm nền tảng cho việc phát triển đạo đức và năng lực cho người cán bộ trong tình
hình hiện nay một cách đúng hướng và có hiệu quả.
Khơng những vậy, trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, phát triển đạo đức
và năng lực cho người cán bộ ln thực sự cần thiết, do đó, những hiện tượng tham
nhũng trong bộ máy cán bộ công chức là vấn đề luôn được lưu tâm. Đảng và Nhà
nước ta cũng đã đề ra hàng loạt các chủ trương và chính sách để khắc phục tình
trạng tham nhũng trong bộ máy cán bộ công chức. Trong Khoảng 2, Điều 20 của
Luật phịng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn
5
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được làm những việc như nhũng nhiễu trong
giải quyết công việc; tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước
và ngồi nước về cơng việc liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật cơng tác, cơng
việc thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc tham gia giải quyết;...”. Bên cạnh đó, Luật
phịng, chống tham nhũng năm 2018 cũng khuyến khích mọi người cần tố cáo các
trường hợp vi phạm nhằm phòng và chống hiện tượng tham nhũng trong bộ máy
cán bộ công chức các cấp. Tuy vậy, những hiện tượng tham nhũng vẫn chưa có
chiều hướng thuyên giảm và đang trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội,
giống như một khối u di căn cần phải cắt bỏ.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, hiện tượng tham nhũng trong bộ máy
Nhà nước đã gây ra trong dư luận rất nhiều phản ứng trái chiều. Ở một số địa
phương như Quảng Nam, Đà Nẵng, Hà Nội, Thanh Hoá,... nhiều cán bộ đã có
những sai phạm trong cơng việc, cậy quyền, nhũng nhiễu,... Chẳng hạn, vụ Trịnh
Xuân Thanh và Đinh La Thăng về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và tham ô tài sản xảy ra tại Tập đồn Dầu khí
Việt Nam (PVN); vụ Phan Văn Anh Vũ vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài
sản Nhà nước gây thất thốt, lãng phí và vi phạm các quy định đề quản lý đất đai...
Chính điều đó đã gây ra sự bất bình trong xã hội, đặt ra một câu hỏi lớn cho việc
quản lý nước nhà về tiêu cực tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và những giải
pháp để phòng chống tham nhũng. Đứng trước thực trạng này, việc nghiên cứu
tham nhũng và phòng chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh mang lại ý nghĩa thực
tiễn rất lớn.
Với những lí do đó, tác giả chọn đề tài “Tham nhũng và phòng chống tham
nhũng dưới thời Lê - Trịnh (1599 - 1786)” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay có khá nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu về tham nhũng ở
Việt Nam nói chung và thời Lê - Trịnh nói riêng. Có thể chia thành các nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu về tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay như: “Cán bộ, cơng chức với vấn đề cải cách hành chính, chống tham nhũng,
lãng phí” của Khải Nguyên (chủ biên), “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
6
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của Phan Xuân Sơn, Phạm Thế
Lực (chủ biên); “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống
các tội tham nhũng” của Trần Công Phàn; “Tham nhũng ở nước ta hiện nay và các
biện pháp khắc phục” của Lê Văn Cương; “Tham nhũng - tệ nạn của mọi tệ nạn”
của Nguyễn Y Na... Các nghiên cứu đã góp phần nhận diện tham nhũng rõ ràng
hơn, phân tích về khái niệm, đặc điểm của tham nhũng, thực trạng và giải pháp
phòng chống tham nhũng. Đặc biệt, cuốn sách “Bàn về giải pháp phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của Trương Giang Long là sự tổng kết bước đầu
về thực tiễn phòng chống tham nhũng trên nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Trên cơ sở
đó và cùng với việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề tham nhũng, thực
tiễn, phòng chống tham nhũng ở nhiều quốc gia, các tác giả đề xuất một số giải
pháp phòng, chống tham nhũng rất đáng lưu tâm trong điều kiện Việt Nam hiện
nay.
Thứ hai, nhóm cơng trình nghiên cứu thời Lê - Trịnh: Tác phẩm “Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam từ nguyên thuỷ - 1858” của Phan Huy Lê và tác phẩm
“Lịch sử Việt Nam (Tập 4 - Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII)” của Trần Thị Vinh,
“Đại cương lịch sử Việt Nam” của Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), các tác phẩm đã
khái quát những đặc điểm nổi bật về tình hình chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội
dưới thời Lê - Trịnh. Ngồi ra, cuốn “Lê triều quan chế” của Viện sử học đã đề cấp
đến việc quy định lại các chức tước, phẩm trật cho từng loại quan chức, văn cũng
như võ dưới thời Lê - Trịnh. Đặc biệt, trong cuốn:“Lịch triều hiến chương loại chí”
của Phan Huy Chú, ở mục “Quan chức chí” đã ghi chép việc chia đặt quan chức, đề
cập các chức vụ khác nhau của các quan, tước ấm và đường xuất thân khác nhau
của các cấp bậc các tước, lệ ban ân tuất cho các quan một cách rõ ràng qua từng đời
vua dưới thời Lê - Trịnh.
Đề cập đến giáo dục dưới thời Lê - Trịnh, cịn có một số khố luận cử nhân
“Chính quyền Lê - Trịnh với các kỳ thi Hương và Hội thế kỷ XVII - XVIII” của
Nguyễn Bảo Trang, “Văn Miếu - Quốc Tử Giám và chế độ học hành thời Hậu Lê
(1428 -1788)” của Đinh Ngọc Triền,... đã đề cập những nét chung, nổi bật của chế
độ học hành, khoa cử của thời Lê - Trịnh.
7
Thứ ba, những cơng trình nghiên cứu tham nhũng thời Lê - Trịnh: có bài
viết “Về nhân cách của người nho sĩ - quan liêu thời Lê - Trịnh” của tác giả
Nguyễn Thừa Hỷ đã phân tích về bản chất giới nho sĩ thời Lê - Trịnh mang trong
mình nhân cách hai mặt, lưỡng phân nghịch lý, đó là một con người với hai nhân
cách ẩn mờ, đó có thể là nhân cách tri thức khai sáng hoặc là quan liêu nơ bộc. Hay
nói cách khác trong xã hội thời Lê - Trịnh ngồi những vị quan trí thức cương trực,
liêm khiết, khơng chạy theo các lợi trước mắt cịn có những tên tham quan cực độ,
chỉ biết vơ vét đầy túi riêng khiến nhân dân lầm than. Điều đó phần nào phản ánh
được nạn tham nhũng trong bộ máy quan lại dưới thời Lê - Trịnh. Ngồi ra cịn có
cơng trình nghiên cứu khoa học “Chính sách chống tiêu cực trong thi hội dưới thời
Lê - Trịnh (1599 - 1787)” của tác giả Nguyễn Văn Sang cũng đề cập đến một số
hiện tượng tham nhũng của quan lại trong thi hội dưới thời Lê - Trịnh và đề tài
“Tiêu cực trong thời Lê - Trịnh” của sinh viên Trần Thị Lành nghiên cứu sâu hơn
các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy quan lại thời Lê - Trịnh trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, giáo dục từ khu vực Đàng Ngồi (từ sơng Gianh, tỉnh Quảng Bình trở
ra Bắc), tuy nhiên tác giả chỉ đề cập tham nhũng như là một phần khía cạnh nhỏ của
đề tài, nội dung chính mà tác giả nghiên cứu trong đề tài là cả một phạm vi rộng lớn
liên quan đến các vấn đề tiêu cực chung trong bộ máy quan lại như trong chính trị
gồm nội bộ triều đình tranh chấp, không ổn định; tuyển chọn quan lại; luật lệ hà
khắc, xử phạt nặng, không công bằng. Ở lĩnh vực kinh tế gồm chiếm đoạt, ẩn lậu
ruộng đất; thuế khoá nặng nề và đặt ra các loại thế vơ lý. Cịn ở lĩnh vực giáo dục,
tác giả đề cập đến các hiện tượng tiêu cực trong thi cử gồm quan trường tham nhũng
và vi phạm của sĩ tử.
Cho đến ngày nay, hầu như chưa có cơng trình, tài liệu nào nghiên cứu một
cách hệ thống và chi tiết về tham nhũng và các biện pháp phòng chống tham nhũng
dưới thời Lê - Trịnh. Tuy nhiên, những cơng trình nói trên là nguồn tài liệu tham
khảo quan trọng, có giá trị để chúng tơi hồn thiện đề tài khố luận tốt nghiệp của
mình.
8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là các hiện tượng tham nhũng và
các biện pháp phòng chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu về thực trạng tham nhũng và các biện pháp
phòng chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh bắt đầu từ năm 1599 đến năm 1786.
Phạm vi khơng gian: Tìm hiểu về tham nhũng và phòng chống tham nhũng
trên phạm vi cả nước.
Phạm vi nội dung: Trên cơ sở khái qt tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội thời Lê - Trịnh, đề tài đi sâu nghiên cứu về thực trạng tham nhũng thời Lê Trịnh và các giải pháp phòng chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh. Từ đó, rút ra
nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm cho cơng cuộc phịng chống tham nhũng
ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần khơi phục bức tranh về thực trạng tham nhũng dưới thời Lê Trịnh.
- Tổng hợp và phân tích các hiện tượng tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh.
- Tìm hiểu những biện pháp phịng chống tham nhũng của chính quyền Lê Trịnh, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để tham khảo cho công cuộc
phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục đích nói trên, đề tài cần thực hiện và hoàn
thành những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu bối cảnh lịch sử thời Lê - Trịnh trên các mặt chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa.
9
- Khái quát về hiện tượng tham nhũng trước thời Lê - Trịnh.
- Tìm hiểu những hiện tượng tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh, cụ thể là tìm
hiểu về những biểu hiện, nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng tham nhũng.
- Tìm hiểu những biện pháp xử phạt đối với những hiện tượng tham nhũng
dưới thời Lê - Trịnh.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Đề tài dựa vào các nguồn tư liệu chính sau:
- Các tài liệu biên niên sử như: Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử ký tục
biên của Quốc sử quán triều Lê, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của
Quốc sử quán triều Nguyễn. Nguồn tư liệu quốc sử hầu hết đều ghi chép về các sự
kiện chính trị, qn sự, thậm chí có những sự kiện vụn vặt như sao chổi xuất hiện,
mưa đá... trong đó có ghi chép lại các hiện tượng tham nhũng và biện pháp đối với
những hiện tượng tham nhũng đó.
- Các tài liệu của sử gia tư nhân như: Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú, Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, Kiến văn tiểu lục của Lê Q
Đơn, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ...
Ngồi ra, đề tài cịn có sự tham khảo, đối chiếu với các cơng trình nghiên
cứu khoa học lịch sử, khóa luận, luận văn, các bài viết trên báo, tạp chí, bài viết trên
các website,...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tơi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể,
đó là sự kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Lịch sử như
phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp logic để xem xét các sự vật hiện tượng
kết hợp với các phương pháp khác như thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu. Để
vận dụng các phương pháp đó, trong q trình nghiên cứu chúng tôi thực hiện qua
các bước:
10
+ Thứ nhất: Tìm kiếm, sưu tầm, tập hợp tư liệu cần thiết phù hợp với nội
dung nghiên cứu của đề tài. Tôi đã sử dụng các tài liệu liên quan như sách, báo, tạp
chí, có đề cập đến những tham nhũng và phòng chống tham nhũng dưới thời Lê Trịnh. Ngồi ra, tơi cịn sử dụng các nguồn tư liệu đang được lưu trữ tại các thư
viện như: Thư viên khoa học tổng hợp Đà Nẵng, thư viện Đại học Sư phạm Đà
Nẵng, phòng học liệu khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng… tơi tự tìm
kiếm tài liệu qua thầy cô, giáo viên hướng dẫn, bạn bè…
+ Thứ hai: Sau khi đã thu thập, tìm kiếm đủ tư liệu, tơi tiến hành phân tích,
thống kê các hiện tượng tham nhũng và những biện pháp nhằm khắc phục, trừng trị
những quan lại vi phạm dưới thời Lê - Trịnh. Từ đó, sẽ đối sánh với các triều đại
khác về hiện tượng và biện pháp nhằm phòng chống tham nhũng. Không những
vậy, việc đối chiếu các tư liệu sẽ giúp tìm ra được tính tồn vẹn, phát hiện được các
mối liên hệ giữa các vấn đề liên quan, từ đó rút ra kết luận cần thiết liên quan đến
nội dung đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần khơi phục lại bức tranh tổng thể về những hiện tượng tham
nhũng dưới thời Lê - Trịnh, đồng thời chỉ ra nguyên nhân, hệ quả của những hiện
tượng tham nhũng đó đối với xã hội, đất nước, cũng như các biện pháp phòng
chống tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tiền đề, cơ sở cho các cấp quản lý
nhà nước tham khảo, rút kinh nghiệm trong việc xây dựng, ban hành những chính
sách hợp lí trong quản lý, tuyển dụng và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức ngày
nay.
Không những vậy, kết quả của đề tài cịn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc giảng dạy và cho những ai quan tâm về lĩnh vực quản lý hành chính
dưới thời Lê - Trịnh.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 3 chương:
11
Chương 1: Tổng quan về thời Lê - Trịnh và hiện tượng tham nhũng trước
thời Lê - Trịnh.
Chương 2: Hiện tượng tham nhũng dưới thời Lê - Trịnh (1599 - 1786).
Chương 3: Chính quyền Lê - Trịnh với việc phịng chống tham nhũng (1599
- 1786).
12
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỜI LÊ - TRỊNH VÀ HIỆN TƯỢNG
THAM NHŨNG TRƯỚC THỜI LÊ - TRỊNH
1.1. Tổng quan về thời Lê - Trịnh
1.1.1. Tình hình chính trị
Sau giai đoạn phát triển cực thịnh dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 1497), sang thế kỷ XVI, triều Lê ngày càng suy thối và dần mất đi vai trị lịch sử,
các cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn phong kiến nhằm mục đích tranh giành quyền
lực lẫn nhau, đã gây nên những cuộc nội chiến kéo dài, đất nước bị phân chia thành
những tập đoàn phong kiến khác nhau. Cuộc đấu tranh giành quyền lực của 3 dòng
họ Mạc - Trịnh - Nguyễn đã đẩy Việt Nam vào một giai đoạn lịch sử rất phức tạp và
hỗn loạn.
Năm 1592, sau khi củng cố lực lượng quân Nam triều đã mở cuộc tấn công
quyết định vào Thăng Long và giành thắng lợi. Triều Mạc sụp đổ. Cục diện Nam Bắc triều về cơ bản đã chấm dứt. Nước Đại Việt đã hình thành cục diện một chế độ
hai chính quyền và một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong chế độ phong kiến Việt Nam
với cơ chế “Vua ngồi ngai vàng, chúa nắm thực quyền”. Lịch sử gọi là “thời kỳ Lê Trịnh”.
Sau khi dẹp xong cuộc phản kháng của tàn dư họ Mạc, uy quyền ngày càng
cao, Trịnh Tùng ép vua Lê phải phong cho mình làm Đơ Ngun sối Tổng quốc
chính Thượng phụ Bình An vương vào năm Ất Mùi (1599), tức là người nắm giữ
mọi quyền hành trong nước [23, tr.222]. Với chức tước được phong, Trịnh Tùng
ngày càng có nhiều cơ hội để thâu tóm mọi quyền hành, Trịnh Tùng được phép
thành lập vương phủ, đặt các chức tham tụng, bồi tụng... để giúp mình cai trị đất
nước. Mặc dù triều đình vẫn có vua và các bộ, viện nhưng vua Lê Thế Tông đã ủy
quyền cho chúa Trịnh trong việc cai quản đất nước bằng việc ban cho chúa Trịnh
những vật tượng trưng cho uy quyền tối cao như chén ngọc, cờ lông, bút vàng, của
cải, thuế má, nhân dân, được quyền tuyển bổ quan lại và được hưởng tước vương
cha truyền con nối. Cho nên, vua chỉ là bù nhìn và quyền hành ngày càng bị rút bớt,
13
mọi chi tiêu đều dựa vào bổng lộc do chúa định.Và như vậy, họ Trịnh bắt đầu thế
tập tước vương, hình thành chế độ vua Lê - chúa Trịnh, đất nước danh nghĩa có hai
người đứng đầu nhưng thực chất do chúa Trịnh cai quản. Trong Lịch triều hiến
chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết: “Nhà Lê từ thời trung hưng về sau, chúa
Trịnh chuyên nắm giữ chính sự, quyền hành về hết phủ Chúa, nhà vua chỉ mang hư
danh ở trên, gọi là cịn phân vị chỉ có khác ở màu áo mặc và nghi vệ mà thôi” [2,
tr.706].
Chính quyền trung ương của triều Lê - Trịnh vẫn dựa theo triều Lê sơ trước
đó, cụ thể là thời Hồng Đức với 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng). Ở mỗi bộ đều
có một thượng thư cùng hai viên Tả hữu thị lang chịu trách nhiệm chung và một cơ
quan thường trực gọi là Vụ tư sảnh. Tuy nhiên, tuỳ vào mức độ công việc ở từng bộ,
mỗi bộ sẽ có một hoặc vài cơ quan chuyên trách riêng, cơ quan giám sát như Lục khoa
sẽ làm nhiệm vụ kiểm sốt cơng việc của từng bộ theo chun mơn cịn Ngự sử đài
giữa nhiệm vụ kiểm sốt tất cả các cơ quan và các quan về nhiệm vụ chung. Sau đó,
khi được phép lập phủ Chúa, họ Trịnh bắt đầu đặt ra một hệ thống tổ chức chính quyền
ở phủ Chúa tương ứng với chính quyền sẵn có bên cung vua. Trước tiên, để bàn việc
chính sự ở phủ Chúa, năm 1600, Trịnh Tùng đã đặt ra chức Tham tụng đảm đương
công việc của Tể tướng. Về phẩm thứ tuy chưa quy định, nhưng quyền lực của Tham
tụng lại rất lớn, đều do chúa Trịnh tự tiến cử từ những viên Thượng thư hoặc Thị lang
vào làm. “Từ đấy về sau, chính sự thuộc về phủ chúa” [23, tr.218]. Ngoài ra, chúa
Trịnh cho đặt thêm chức Bồi tụng cũng là chức vụ quan trọng được làm việc trong phủ
chúa, còn lập ra sáu phiên ở phủ Chúa (Lại, Lễ, Hình, Cơng, Binh, Hộ) tương ứng với
sáu bộ bên triều đình. Với vai trị, Lục phiên sẽ đảm trách hầu hết các công việc của
Lục bộ. Lục bộ chỉ có vai trị phối hợp Lục phiên để thực thi những cơng việc trước
đây của mình. Và như vậy, tất cả mọi quyền hành quản lý đất nước thuộc về chúa
Trịnh, vua Lê cùng tồn bộ triều đình chỉ có tính chất tượng trưng và hư danh. Cái
thế đơi bên Hoàng gia - Vương phủ dựa vào nhau cùng tồn tại trở thành “cái thế bất
dịch rồi” và “thời kỳ Lê trung hưng thực chất chỉ là thời kỳ chuyên quyền của họ
Trịnh, ngai vàng vua Lê chỉ là một nhãn hiệu bên ngoài, một con cờ trong tay chúa
Trịnh” [11, tr.56].
14
Tuy nhiên, sự tồn tại đó đã tạo ra nhiều mâu thuẫn, nổi bật nhất vẫn là mâu
thuẫn giữa những người đứng đầu hai hệ thống chính quyền: vua Lê và chúa Trịnh.
Bởi lẽ, chúa Trịnh muốn tập trung quyền lực vào tay của mình và dần dần xây dựng
cho mình một hệ thống chính quyền phục vụ cho quyền lợi của tập đồn phong kiến
của mình, khống chế và kiểm sốt bộ máy triều đình của vua Lê. Thực chất, thành
lập được một cơ quan đầu não do Chúa đứng đầu đã xuất hiện và hoạt động biệt lập
với triều đình vua Lê, đó là Vương phủ (phủ Chúa).
Xét cho cùng, các chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự, Quyền phủ sự bên
ngạch võ gọi là quan Ngũ phủ. Các chức Tham tụng và Bồi tụng bên ngạch văn gọi
là quan Phủ liêu. Quan Ngũ phủ và Phủ liêu đã họp thành một cơ quan của Nhà
nước quân chủ trung ương gọi là Ngũ phủ quan liêu - một chính phủ tối cao đặt
dưới sự điều khiển của chúa Trịnh. Tuy vậy, những viên quan giữ chức vụ trong
Ngũ phủ phủ liêu như các quan Chưởng phủ, Thự phủ ở Ngũ phủ và Tham tụng ở
quan liêu đều làm nhiệm vụ uốn nắn lòng Vua, bàn phép trị dân, chọn lựa quan lại,
thẩm xét hình cơ, chế định tài chính, định lệ kiện tụng, hội kê đinh điền, làm đúng
thưởng phạt, giữ đúng pháp lệnh.
Trong quá trình lập ra Ngũ phủ phủ liêu cùng các cơ quan giúp việc (từ Tam
phiên đến Lục phiên) là cả một quá trình thâu tóm quyền hành của họ Trịnh từ phía
Cung Vua về phía Phủ Chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn lại một vài chức
quan hư hàm làm nhiệm vụ nghi thức. Chúa Trịnh trên danh nghĩa chỉ được xưng
vương tước và đứng đầu Ngũ phủ phủ liêu, nhưng thực tế chúa Trịnh đã nắm hết
mọi quyền hành trong chính quyền nhà nước lúc bấy giờ. Suy cho cùng những thay
đổi về một số chức quan trong hàng văn võ đại thành hình thành nên Ngũ phủ phủ
liêu cùng với việc lập ra Lục phiên thời chúa Trịnh, điều này đã làm cho bộ máy
chính quyền Nhà nước thời kỳ này cồng kềnh và phức tạp.
Không những vậy, bộ máy chính quyền nhà nước từ trung ương tới địa
phương địi hỏi phải có một đội ngũ quan chức đơng đảo. Nhưng vì bộ máy nhà
nước có phần cồng kềnh và phức tạp nên số lượng quan lại cũng được giảm bớt.
Mặc dù tinh giản về số lượng quan chức, nhưng bộ máy chính quyền Nhà nước đặt
ra cồng kềnh (gồm nhiều phiên hiệu) làm cho số quan lại hư hàm (có đủ phẩm tước,
15
bổng lộc nhưng không hoạt động) tăng lên nhiều. Điều đó, đã làm cho bộ máy quan
chức thời kỳ này mang nặng tính quan liêu sâu mọt. Với hậu quả đó, để tăng cường
và bổ sung đội ngũ quan lại vào bộ máy chính quyền Nhà nước, nhà nước Lê Trịnh đã cho mở rộng khoa cử, đặc biệt từ khi trở về Thăng Long (1593), khoa cử
được duy trì đều đặn, những người đỗ đạt vào làm quan nhiều hơn. Hơn thế nữa, do
thiếu hụt ngân sách trong chiến tranh ở thời kỳ này có tình trạng mở rộng việc mua
bán quan tước. Trịnh Cương có lệnh cho quân dân trong nước ai dâng thóc thì cho
quan tước. Nhìn chung, ở thời kỳ này, thi cử vẫn được coi trọng và quy chế thi cử
vẫn như trước, góp phần cung cấp quan lại chủ yếu và tin cậy cho chính quyền.
Việc phục hồi, xây dựng đất nước,quản lý xã hội đòi hỏi vai trò của các quan lại
xuất thân từ “cửa Khổng sân Trình”. Nhu cầu về quan lại trong thời bình và sau thời
chiến là một nhân tố tác động tích cực đến thi cử thời Lê - Trịnh, do đó thi cử thời
này được Nhà nước quan tâm, tăng cường.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Gần như suốt hơn một thế kỷ, nhân dân Đàng Ngoài luôn luôn phải sống
trong cảnh chiến tranh, loạn lạc. Nông nghiệp bị tàn phá nghiêm trọng, thêm vào đó,
bọn cường hào địa chủ địa phương tìm cách chiếm đoạt ruộng công, ruộng của nông
dân. Qua tờ khải của Bùi Sĩ Tiêm, chúng ta được biết công điền ở các làng xã sau
khi cấp cho binh lính thì ruộng thừa để quân cấp cho nông dân không được bao
nhiêu, đã vậy cịn bị kẻ giàu có chiếm hầu hết đám ruộng màu mỡ, dân nghèo chỉ
được những mảnh cằn cỗi, đầu thừa đuôi thẹo, nặng về thuế má, lai dịch. Xã trưởng,
thôn hào kết thành bè đảng, lấy tiền công ăn tiêu, lúc thiếu thì trưng thu, quấy nhiễu
dân. Trước tình hình đó, năm 1664, nhà Lê - Trịnh đặt phép “Bình lệ” lập sổ thuế
một lần rồi cứ theo đó mà thu, “sinh thêm khơng tính, chết đi khơng trừ”. Bọn
cường hào địa chủ địa phương lại nhân đó hạch sách dân thường. Kết quả là năm
1711, phủ chúa phải ban hành lại phép quân điền, theo đó làng xã phải thu hồi hết
ruộng công cầm số, những người đã có ruộng lộc, ruộng tư (của vợ hay chồng) đủ
mức đều không được cấp ruộng công, việc phân cấp phải thực hiện theo quy chế
chung. Thơng qua chính sách qn điền, nhà nước Lê - Trịnh có thể để nắm chắc
ruộng đất cơng làng xã, giải quyết tình trạng nơng dân khơng có ruộng đất cày cấy,
16
nhưng sự thực như nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: “nước ta duy có trấn Sơn
Nam có rất nhiều ruộng cơng và đất bãi cơng cịn các nơi khác, các hạng ruộng
cơng khơng có mấy...” [3, tr.127]. Điều đó, đã làm cho chính sách qn điền khơng
cịn tác dụng nữa. Tuy nhiên, tình trạng ruộng cơng bị biến thành ruộng tư tự phát
ngày càng phổ biến và nằm ngồi quyền kiểm sốt của Nhà nước. Ruộng tư đã phát
triển tới mức, năm 1723, Trịnh Cương phải cho ban hành luật thuế mới, trong đó đã
đánh thuế ruộng tư, ruộng làng xã.
Do hậu quả của chiến tranh và sự phát triển của chế độ tư hữu về ruộng đất,
mặc dù chính quyền Lê - Trịnh đã cố gắng chăm lo đến tình hình nơng nghiệp song
sự quan tâm của nhà nước khơng cịn đạt được những kết quả như ở thế kỷ XV. Nhà
nước khơng cịn quan tâm đến cơng tác phịng chống lụt hạn như trước, trong lúc
một số quan lại được giao trách nhiệm thuê mướn nhân dân đắp đê, đào mương... lại
tìm cách xẻo xén tiền thóc. Mùa nước lớn, đê điều vỡ lở, lụt lội liên tiếp xảy ra, tính
từ năm 1680 đến năm 1740 đã xảy ra 24 lần thiên tai, lũ lụt, vỡ đê [43, tr.179]. Bù
lại những mất mát do thiên nhiên gây ra, người nơng dân tích cực lao động “khơng
bỏ hoang ruộng đất” nhưng cuộc sống người nông dân không thể vực dậy được, bởi
lẽ họ luôn luôn bị đe doạ bởi hàng loạt mối lo như thuế khoá ngày càng nhiều, binh
dịch, chiến tranh, sự nhũng nhiễu của quan lại, cường hào,... Điều này đã làm cho
cuộc sống người nơng dân gặp nhiều khó khăn, họ chọn cách rời làng đi phiêu tán,
tha phương cầu thực khắp nơi.
Cũng như ở các triều đại trước, bộ phận thủ công nghiệp nhà nước thời Lê Trịnh giữ một vai trò quan trọng. Bên cạnh các xưởng thủ công đúc tiền, rèn vũ khí,
đóng thuyền, may áo mũ cho vua, quan, làm hàng thủ công phục vụ cung vua, phủ
chúa,... xuất hiện các xưởng đúc súng lớn, nhỏ. Thợ thủ công giỏi trong nước được
mộ vào đây làm việc theo nghĩa vụ binh dịch. Ngoài ra, sự xuất hiện của nhiều nghề
khác nhau đã tạo ra sự phát triển lớn, số lượng sản phẩm tăng lên so với trước, đồng
thời chất lượng kỹ thuật và trình độ chun mơn hố cũng có được bước tiến đáng
kể. Chẳng hạn: dệt the lụa ở La Khê, La Cả, La Nội (Hà Tây), làm đồ gốm ở Hương
Canh, Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), đúc và làm đồ đồng ở Đại Bái, Đê Cầu,
Đường Mai (Bắc Ninh), khắc bản in ở Liễu Tràng, Liễu Lục (Hải Dương), làm nón
17
ở Phương Trung (Hà Tây)... Do vậy, giữa các làng thủ cơng có điều kiện kết hợp
với nhau trong lao động sản xuất, trao đổi về nguyên liệu và kinh nghiệm sản xuất
như cụm làng gốm Bát Tràng - Thổ Hà - Phù Lãng, cụm các làng đúc và làm đồ
đồng Đại Bái - Đê Cầu - Đơng Mai...
Nhìn chung, thủ công nghiệp trong thời kỳ này phát triển rộng rãi hơn trước,
vừa đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân trong nước, vừa tạo ra được những mặt
hàng quan trọng để trao đổi với các thương nhân nước ngồi, tạo điều kiện phát
triển nghề thủ cơng. Khơng những vậy, một số nghề mới cũng ra đời, đóng góp
đáng kể vào bước tiến lên của kỹ thuật. Đây là thời điểm các tài nguyên thiên nhên
được khai thác một cách đồng loạt để phục vụ cho nhu cầu kinh tế và đời sống,
ngành khai mỏ đã đạt được chuyển biến lớn mạnh, tập trung chủ yếu ở các nơi như
Hà Tuyên, Thái Nguyên, Lạng Sơn... Đồng thời, nghề khai mỏ cũng đã manh nha
với những yếu tố của chủ nghĩa tư bản. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan
Huy Chú nhận định: “Việc chi dùng của nhà nước sở dĩ được dồi dào, là do thuế ở
các mỏ nộp đầy đủ” [3, tr.141].
Do nhu cầu phát triển của kinh tế hàng hoá trong nước và tác động của luồng
quan hệ mậu dịch quốc tế, thương nghiệp ở thế kỷ XVII - XVIII đã có bước phát
triển đáng kể, biểu hiện bằng sự mở rộng của mạng lưới chợ địa phương, sự phong
phú của lượng hàng hoá trao đổi và đặc biệt sự tăng trưởng đột biến của hoạt động
ngoại thương, góp phần nói lên bước phát triển mới của nền kinh tế ở các thế kỷ
XVII - XVIII. Chợ búa mọc lên khắp nơi. Mỗi huyện có khoảng từ 14 - 22 chợ
làng, chợ chùa, chợ huyện. Bên cạnh các chợ làng nổi tiếng như chợ Lim, chợ
Nành, Châu Cầu, Bình Vọng, Gia Hội, An Cựu, Đại Lộc, Vực, Cày... hình thành
một số trung tâm bn bán có tính khu vực như Vị Hồng (Nam Định), Tỉnh
(Thanh Hố), Nơng Nại (Biên Hồ), Bến Nghé (Gia Định)... Ngồi chợ với thị
trường địa phương hạn chế của nó, ở Đàng Ngồi cịn có sự hình thành của các làng
bn như Đa Ngưu (Hưng Yên), Báo Đáp (Nam Định)... Cũng như các làng nghề
thủ công, ở các làng buôn, cư dân sẽ vừa làm nghề nơng vừa lợi dụng vị trí thuận
tiện trong giao lưu để làm việc mua bán khi mùa màng xong xuôi. Lâu dần, việc
buôn bán trở thành một nghề, góp một phần thu nhập thường xuyên quan trọng.
18
Không những vậy, ở thế kỷ XVII - XVIII, việc bn bán hàng hố với các
thương nhân nước ngồi rất nhộn nhịp. Bên cạnh những bạn hàng truyền thống:
Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm, Mã Lai... trong thời kỳ này ngoại thương Đàng
Ngồi bắt đầu tiếp xúc với các thuyền bn đến từ phương Tây: Hà Lan, Bồ Đào
Nha, Anh, Pháp. Sự xuất hiện các chợ bến rồi dần dần tiến sâu vào trong nội địa và
lái bn nước ngồi từ thế kỷ XVII đã được buôn bán ở cả trong kinh thành. Hầu
hết các lái nước ngoài đều xin vua chúa Đàng Ngoài cho lập thương điếm để tiện
cho việc mua bán: người Hoa tập trung ở phố Hiến, Vân Đồn, Đơng Triều, trú ngụ ở
làng Khuyến Lương, Thanhh Trì (Thăng Long); người Nhật lập phố ở xã Phục Lễ
(Nghệ An), Phố Hiến; Pháp mở thương điếm ở Hưng Yên; Hà Lan và Anh đều có
thương điếm ở Hưng Yên, Kẻ Chợ. Đầu thế kỷ XVIII, do nhiều nguyên nhân: nội
tình các nước, làm ăn thua lỗ... các thương điếm đều đóng cửa, thỉnh thoảng cần gì
thì thương nhân nước ngoài cho thuyền đến mua hàng chở đi.
Tuy nhiên, sự phát triển của nền thương nghiệp đã gây ra nhiều biến đổi
trong đời sống xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII. Cả xã hội đổ xô vào buôn bán,
làm giàu vì bn bán dễ sinh lời: từ dân đến quan cho đến cả chúa. Một hệ quả kéo
theo sự phát triển đó là đồng tiền ngày càng được tiêu dùng rộng rãi và chi phối các
hoạt động xã hội văn hoá, hiện tượng phổ biến lúc bấy giờ là người giàu thường
dùng tiền để mua chức quan, không phải mua lén lút mà do nhà nước công khai bán.
Ở cuối thời Trần và thời Lê sơ mới có lệ nộp thóc để được thưởng quan tước. Sang
thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của quan hệ tiền tệ lại càng mạnh hơn. Đạo đức
của các quan lại suy thối vì tiền, học hành thi cử suy thối vì tiền. Do vậy, vua Lê
chúa Trịnh ngồi việc dâng thóc thì cịn cho nộp tiền để nhận chức tước và thăng
lên chức cao hơn. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, Phan
Huy Chú có dẫn ra 5 lần chúa Trịnh cho phép các hạng quân dân nộp tiền thóc để
được ban chức tước (các năm 1721, 1740, 1742, 1748, 1760). Thực trạng đó khiến
khơng ít các sĩ phu đương thời và sau này bất bình. Phan Huy Chú đã có nhận xét
mang tính phê phán khi viết về lệ nộp tiền thóc để được bổ dụng ở thời Lê - Trịnh:
“Chức phẩm là trọng, không thể mua bán được. Thế mà đem vật quý của nhà
nước để làm mối lợi, vốn không phải là việc nên có ở đời thịnh trị. Song đời Quang
19
Thuận, quan phẩm trao cho người dâng thóc cịn là chức tản quan bực thấp, chưa
là hại lắm. Đến đời Vĩnh Hựu, Cảnh Hưng trở về sau, các chức phủ huyện nhiều
việc đều đặt ra thành giá. Những chức mà sĩ phu phải vất vả nhiều năm và nhiều
trường thi mới được, nay dân thường đều có thể lấy tiền thóc mà đổi được ngay.
Thế là việc chọn người bổ quan thành ra quá lạm, mà nẩy ra thói xấu thích hơi
đồng” [2, tr.687].
Do đó, việc mua bán quan tước trong bộ máy Nhà nước đã gây ra hệ quả rất
lớn. Sự hình thành đội ngũ quan lại kém chất lượng thông qua việc dùng tiền để
mua chức tước, chứ không phải dựa vào thực tài của bản thân. Không những vậy,
việc mua bán quan tước đã gây ảnh hưởng lớn đến thi cử trong thời kỳ này, bởi lẽ
học và thi vừa tốn thời gian vừa hao công tốn sức mà kết quả cũng chỉ là nhận được
một chức quan. Những người dùng tiền mua chức khi nhập vào chốn quan trường sẽ
tác động đến các lĩnh vực khác nhau của xã hội, trong đó có giáo dục, thi cử (tham
gia vào việc dạy dỗ, khảo hạch, coi thi, chấm thi) và gây ra những ảnh hưởng xấu.
Nhìn chung, sự suy thoái của hệ tư tưởng Nho giáo và sự sa đọa của hệ thống
quan lại là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các cuộc đấu tranh
giai cấp gay gắt giữa và cuối thế kỷ XVII, điển hình như khởi nghĩa của Phạm Cơng
Chất, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương... Không những thế, sự gia tăng khối
lượng tiền tệ và vai trò của quan hệ tiền tệ cùng với sự phát triển của kinh tế hàng
hoá nói chung trong bối cảnh của những thế kỷ XVII - XVIII đã làm nảy sinh
những mầm mống của phương thức sản xuất mới: kinh doanh dưới hình thức thuê
mướn nhân công, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác mỏ.
1.1.3. Tình hình văn hố - tư tưởng
Những thay đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội đã kéo theo những
biến đổi trong tư tưởng, văn hóa Đàng Ngồi.
Giống với các thời kỳ trước, các triều vua ở thế kỷ XVI - XVIII ra sức đề cao
Nho giáo, phổ cập các giáo lí của nhà nho về tơn ty, trật tự trong gia đình, xã hội.
Tuy nhiên, hệ tư tưởng Nho giáo thời kỳ này, chủ yếu là tư tưởng tam cương với
trọng tâm là mối quan hệ quân - thần đang đứng trước thử thách nghiêm trọng. Thời
kỳ này danh phận không rõ ràng, vua không ra vua, tôi không ra tôi, lời chúa trọng
20
hơn mệnh vua khiến đạo lý cương thường đảo ngược. Chúng ta có thể thấy rõ điều
đó qua câu trả lời của quan Đông các hiệu thư Phạm Công Thế khi triều thần trách
ông là người khoa giáp sao lại đi theo bọn phản nghịch (tức Lê Duy Mật): “Danh
phận khơng sáng tỏ đã lâu rồi, cịn phân biệt thế nào là thuận nghịch được nữa?”
[23, tr.501]. Vì vậy, năm 1663, chúa Trịnh cho mở rộng 24 huấn điều của vua Lê
Thánh Tơng thành 47 điều giáo hố, ban hành rộng rãi cho các làng xã nhằm phổ
cập các nghi lễ, nếp sống trong nhân dân. Không những vậy, sự sa sút của nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền nên Nho giáo cũng suy dần. Cuộc sống tinh thần
của nhân dân được nâng cao, lễ giáo Nho gia không còn là những quy tắc “bất khả
xâm phạm” nữa. Hàng loạt thơ ca dân gian đã được sáng tác nhằm đả kích kịch liệt
những giáo lí khắc nghiệt của đạo Nho đó. Cùng với sự suy thối của Nho giáo, các
chùa chiền Phật giáo lại được sửa chữa, xây dựng. Vua chúa, phi tần, quan lại đua
nhau theo Phật, góp tiền cúng ruộng cho các chùa, tham gia sửa chữa xây dựng chùa
như chùa Tây Phương (Hà Nội), chùa Phúc Long (Bắc Ninh), chùa Tây Thiên (Vĩnh
Phúc), chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), chùa Sùng Nghiêm (Hải Dương)...
Đối với Đạo giáo thời kỳ này cũng nhanh chóng hịa nhập với tín ngưỡng
dân gian phát triển hơn trước, xuất hiện nhiều đạo quán ở các nơi, đặc biệt là sự ra
đời một trường phái Đại giáo Việt Nam có quy mơ rất lớn gọi là Nội Đạo dưới thời
Lê Thần Tông. Năm 1533, đạo Thiên Chúa bắt đầu du nhập vào Đàng Ngoài, các
giáo sĩ bắt đầu truyền đạo với tư tưởng “mọi người đều bình đẳng trước chúa”,
“chúa yêu thương và cứu giúp mọi người, đến với mọi người không phân biệt đẳng
cấp”, đã sớm lôi cuốn nhiều người dân làm cho số giáo dân ngày càng tăng lên. Tuy
nhiên, những quan niệm về Thiên chúa Giáo đã luôn vấp phải sự phản kháng của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn sùng các thần linh cứu nước, ý thức dân tộc, các
sắc lệnh cấm đạo của chúa Trịnh... Ngoài ra, các lễ hội làng, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, thờ những người có cơng với nước, với làng được tổ chức đều đặn, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của người dân trước sự khủng hoảng của xã hội thời Lê - Trịnh.
Trên lĩnh vực giáo dục, tiếp tục phương thức của thời Lê sơ, ở các thế kỷ
XVI - XVIII, các nhà nước thống trị vẫn lấy Nho học làm phương thức chủ yếu đào
tạo quan lại và nâng cao dân trí. Thời Lê - Trịnh, đã mở trường ở các trấn, phủ, tổ
21
chức các khoa thi Hương, Hội hoặc thư, toán. Tuy nhiên, trước ảnh hưởng của quan
hệ hàng hoá - tiền tệ và sự sa đoạ của hàng ngũ quan lại, giáo dục thi cử ngày càng
suy thoái. Tuy vậy, nhân dân ta vốn có truyền thống hiếu học, các làng thường mời
những người có học về dạy cho con em mình, dành một số ruộng đất cơng của làng
làm học điền để khuyến khích mọi người học tập.
Văn học thời Lê - Trịnh là dịng văn học chữ Hán, khơng những làm thơ chữ
hán mà cịn làm thơ Nơm, với những cái tên nổi bật như Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan... và thơ ca dân gian như truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa, Phạm
Công - Cúc Hoa, Quan âm thị Kính, Tống Trân, Thạch Sanh, Hồng Trừu... Điều
này thể hiện tinh thần phản kháng thực trạng đương thời của nhân dân ta trên mặt
trận văn chương, nâng cao ý thức dân tộc, tơ đẹp thêm đời sống văn hóa của người
dân thường. Thời kỳ này, cịn có những thể truyện viết bằng văn xuôi được sáng tác
nhiều, như tác phẩm“Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nội dung tác phẩm được
tác giả bộc lộ rõ nét về sinh hoạt đời thường của nhân dân ở thế kỷ XVI xem vào đó
là ý thức cá nhân, nổi đau khổ của người phụ nữ, tình u đơi lứa.
Về mặt nghệ thuật, ngành kiến trúc phát triển thêm một bước với việc xây
dựng các phủ chúa, các chùa phật và đặc biệt là các ngơi đình làng. Để đề cao vị trí
của làng mình, nhân dân nhiều làng đã góp của, góp sức xây dựng và trang trí các
ngơi đình, bấy giờ nổi lên hai ngơi đình đó là đình Rồng và đình Vàng (ở hai làng
Đình Bảng và Cổ Trai). Bên cạnh đó, cịn có nhiều tượng Phật Quan âm nghìn mắt,
nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) hoặc 18 tượng La Hán ở chùa Tây Phương
(Hà Tây). Ngoài kiến trúc, điêu khắc dân gian cũng phát triển, được điêu khắc trên
các vì kèo lớn ở những ngơi đình trang nghiêm của Thổ Tang, Chu Quyến, Cam
Đà... Các tác phẩm được các nghệ nhân ghi lại thể hiện hình ảnh cuộc sống đời
thường của nhân dân: cày bừa, cấy lúa, đánh vật...
Bên cạnh nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc, nghệ thuật sân khấu đã có bước
phát triển, dần dần đi vào đời sống của nhân dân. Nhiều làng có phường hát riêng
chuyên đi biểu diễn. Điển hình như tuồng, chèo, dân ca với thể loại quan họ, hát
giậm, ca huế, trống quân..., điều này đã thể hiện cuộc sống đa dạng, phong phú của
người dân địa phương. Nhìn chung, sự phát triển của nghệ thuật dân gian tuy không
22
góp phần nâng cao trình độ tay nghề và tài năng của người nghệ nhân nhưng thực
sự phản ánh sự vùng lên về mặt tinh thần của người dân lao động, ý thức về quyền
làm chủ cuộc sống của họ.
Về mặt sử học thời kỳ này, đạt được khá nhiều thành tựu với nhiều thể loại
và tác giả khác nhau. Có các bộ chính sử như Trung hưng thực lục, Đại Việt sử ký
toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên..., lại có các bộ sử tư nhân như Ơ châu cận lục
(Dương Văn An), Vịnh sử thi tập (Đỗ Nhân), Hỗ trướng khu cơ (Đào Duy Từ), Đại
Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn), Công dư tiệp ký
(Vũ Phương Đề), Việt sử tiêu án (Ngơ Thì Sĩ), Lịch triều tạp kỷ (Ngơ Cao Lãng),
Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)... Những tác phẩm lịch sử nói trên đã phản ánh
khá chính xác nhiều mặt của xã hội thời Lê - Trịnh, là nguồn tư liệu quý giá cho
công việc nghiên cứu lịch sử dân tộc của các nhà sử học sau này.
Nhìn chung, đến thế kỷ XVII - XVIII, Đại Việt đã có những bước chuyển
biến mới trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Những thay đổi đó đã
có tác động ít nhiều đến bộ máy quan lại dưới thời Lê - Trịnh biến đổi.
1.2. Khái niệm tham nhũng
Ngày nay trên thế giới, nạn tham nhũng không còn là vấn đề riêng của mỗi
quốc gia mà đã trở thành vấn đề tồn cầu. Nó đã và đang phá hoại sự phát triển ổn
định, bền vững của mỗi quốc gia. Một khi tham nhũng trở thành nguy cơ và hiểm
hoạ lớn, các quốc gia trên thế giới thì tất cả các quốc gia sẽ cùng nhau thực hiện các
biện pháp mạnh để phòng ngừa và đấu tranh chống tệ nạn này. Tuy nhiên, để đấu
tranh chống tệ nạn này là một việc rất khó và phức tạp. Để cuộc đấu tranh chống
tham nhũng đạt hiệu quả thì cơng việc đầu tiên được đặt ra là phải nhận diện được
hành vi tham nhũng, nhận thức đúng hành vi tham nhũng. Nói một cách khác là cần
phải có khái niệm tham nhũng thống nhất để dựa vào đó mỗi quốc gia có những quy
định cụ thể về các hành vi tham nhũng, tội phạm về tham nhũng và thực hiện các
biện pháp phòng chống tham nhũng. Sự tương đồng trong nhận thức về hành vi
tham nhũng còn cho phép các nước hợp tác có hiệu quả trong việc đấu tranh chống
tham nhũng mà khơng làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia.
23
Cho tới hiện nay, khi nói đến tham nhũng thì đã có đến hàng trăm các định
nghĩa, cách hiểu khác nhau của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đã đề cập
tới mức độ rộng và hẹp khác nhau của tham nhũng, khi nhắc đến tham nhũng, trước
hết người ta thường nghĩ đến người có chức quyền hoặc người làm công tác quản lý
liên quan đến tiền và tài sản công trong cơ quan nhà nước. Trên thế giới đã có nhiều
hội nghị, hội thảo quốc tế lớn bàn về đấu tranh chống tham nhũng như Hội nghị
quốc tế lần thứ nhất về chống tham nhũng diễn ra tại Washington (Mỹ) năm 1983;
Hội nghị quốc tế bàn về các biện pháp đấu tranh chống tham nhũng tại Bắc Kinh
(Trung Quốc) năm 1995. Trong các hội nghị này, khái niệm tham nhũng là vấn đề
được đưa ra bàn thảo nhiều nhất.
Theo Ngân hàng Thế Giới (World Bank): “Tham nhũng là việc lợi dụng
quyền lực cơng cộng nhằm lợi ích cá nhân” [35, tr.27]. Tổ chức Minh bạch Quốc tế
(Transparency International - TI) cho rằng, tham nhũng là hành vi của người lạm
dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân.
[35, tr.27].
Tài liệu hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng cho rằng :
“Tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng”, bao hàm: hối lộ
là việc trao một lợi ích để tác động một cách không đúng đắn đến một hành vi hay
một quyết định, hối lộ là hành vi tham nhũng phổ biến nhất mà chúng ta được biết;
tham ô, trộm cắp và lừa đảo; tống tiền; lạm dụng quyền quyết định; chủ nghĩa thiên
vị, nhất thân nhì quen; tạo nên hoặc khai thác các lợi ích xung đột nhau; đóng góp
chính trị khơng đúng đắn [35, tr.18].
Cịn ở Việt Nam, theo cách hiểu của người Việt xưa, tham quan ô lại, ăn hối
lộ, đục khoét của công, vơ vét tiền của dân, cậy quyền sách nhiễu nhân dân... được
dùng để chỉ những kẻ có chức, quyền và lợi dụng chức quyền đó, bằng những thủ
đoạn, cách thức khác nhau để mưu lợi cho riêng mình. Những hành vi này xâm hại
đến trật tự kinh tế của xã hội phong kiến, phá loại kỉ cương phép nước, khiến dân
chúng lầm than, cực khổ và sinh lịng ốn thán triều đình. Tham nhũng trong từ điển
Hán Việt bao gồm hai thành tố: tham và nhũng. “Tham” có nghĩa là ham tiền, ham
muốn [1, tr.763]; “nhũng” là rối rang, lộn xộn, gian dối, thừa ra, lôi thôi [1, tr.547].
24