Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quan hệ trung quốc và mỹ trong giải quyết xung đột trên biển đông (2012 – 2020)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

QUAN HỆ TRUNG QUỐC VÀ MỸ
TRONG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT TRÊN
BIỂN ĐÔNG (2012 – 2020)

Sinh viên thực hiện: LÊ VĂN TUÂN
Chuyên ngành: Cử nhân Sƣ phạm Lịch sử
Lớp: 17SLS
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN SANG

Đà Nẵng, 01/2021
1


LỜI CẢM ƠN CỦA TÁC GIẢ
Để hồn thành khóa luận..
Với tình cảm chân thành, trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy
Nguyễn Văn Sang – giảng viên Khoa Lịch sử - trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN bởi
thầy là người định hướng đề tài, trong q trình thực hiện thầy đã góp ý, chỉnh sửa nội
dung và hình thức khóa luận sao cho tiến tới tính hồn thiện nhất.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cơ trong và ngồi Khoa Lịch sử - trường
ĐHSP – ĐHĐN đã truyền thụ những kiến thức, kĩ năng cần thiết để con có cơ sở thực
hiện đề tài nay. Mình xin cảm ơn bạn bè đã giúp đỡ, hỗ trợ trong quá trình học tập của
mình!
Xin chân thành cảm ơn các quý vị!



2


MỤC LỤC
- Lời cảm ơn của tác giả

2

- Mục lục

3

- Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

6

- Danh mục các hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ

7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

8

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

9


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

13

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

13

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

14

6. Đóng góp của Khóa luận

14

7. Bố cục của Khóa luận

14

NỘI DUNG
Chƣơng 1: Vấn đề xung đột trên biển Đông và sự xuất hiện của vấn đề biển Đông
trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ

16

1.1. Khái quát về vấn đề xung đột trên biển Đông

16


1.1.1. Khu vực và phạm vi xung đột

16

1.1.1.1. Vị trí chiến lược của biển Đông

16

1.1.1.2. Hệ thống xung đột trên biển Đông

17

1.1.1.3. Yêu sách của các bên ở biển Đông

22

1.1.2. Lịch sử xung đột trên biển Đông

27

1.2. Nguồn gốc xuất hiện vấn đề biển Đơng trong quan hệ Trung Quốc – Mỹ 29
1.2.1. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc
3

29


1.2.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ

38


1.2.3. Lợi ích của Trung Quốc và Mỹ trên biển Đơng

42

1.2.3.1. Lợi ích của Mỹ

42

1.2.3.1. Lợi ích của Trung Quốc

45

1.2.4. Lịch sử quan hệ Trung Quốc và Mỹ

47

Chƣơng 2: Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết xung đột trên biển
Đơng (2012 – 2020)

51

2.1. Chính sách của Trung Quốc và Mỹ đối với vấn đề biển Đông

51

2.1.1. Trung Quốc

51


2.1.2. Mỹ

53

2.2. Q trình giải quyết xung đột biển Đơng trong quan hệ Trung Quốc - Mỹ
2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao

56

2.2.1.1. Những phát ngôn ngoại giao và cơng hàm phản đối mang tính đối kháng 56
2.2.1.2. Lơi kéo đồng minh, các đối tác, cùng các bên có lợi ích đứng về phía quan
điểm của mình trong giải quyết vấn đề xung đột.

63

2.2.2. Trên lĩnh vực quân sự

67

2.2.2.1. Thực hiện tự do hàng hải trên biển Đông

67

2.2.2.2. Tập trận quân sự trên biển Đông

69

2.2.3. Trên lĩnh vực kinh tế

73


2.2.3.1. Trừng phạt các cá nhân, tổ chức góp phần gây gia tăng xung đột trên biển
Đông

73

2.2.3.2. Tăng cường hợp tác kinh tế với các nước có tranh chấp trên biển Đông

74

2.3. Tác động của quan hệ Trung Quốc và Mỹ về vấn đề biển Đông

76

2.3.1. Tác động đến thế giới

76
4


2.3.2. Tác động đến khu vực Đông Nam Á

77

2.3.3. Tác động đến quan hệ Trung – Mỹ - Việt

78

2.3.4. Tác động đến Việt Nam


81

2.4. Một số kịch bản của mối quan hệ Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết vấn đề
xung đột trên biển Đơng.

82

KẾT LUẬN

86

Chú thích

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

5


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: The Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia Đơng
Nam Á)
CHND Trung Hoa: Cộng hịa Nhân Trung Hoa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
GDP: Gross domestic product (Tổng sản phẩm quốc nội)
Bắc Kinh: ám chỉ chính quyền Trung Quốc
Washington: ám chỉ chính quyền Mỹ

Hà Nội: Ám chỉ chính quyền Việt Nam
Châu Á – TBD: Châu Á – Thái Bình Dương
CHDCND Triều Tiên: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
USD: United States dollar (đô la Mỹ)

6


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐÕ, SƠ ĐỒ

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển Đông là một khu vưc có ví trí địa chính trí, địa qn sự, địa kinh tế quan
trọng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chính vì thế nơi đây ln diễn ra những
hoặt động xung đột về mặt lợi ích không chỉ của các quốc gia xung quanh bờ biển
Đông mà vấn đề biển Đơng vốn dĩ có tính quốc tế ngay từ lúc phát sinh. Là một quốc
gia ở phía Tây Biển Đơng nên Biển Đơng có một ví trí quan trọng trong an ninh quốc
phịng cũng như phát triển kinh tế đối với Việt Nam, đặc biệt là trên biển Đơng vốn dĩ
có 2 quần đảo Hồng Sa và Trường Sa mà Việt Nam có những chứng cứ lịch sử khẳng
định chủ quyền đối với 2 quần đảo này
Tranh chấp Biển đông từ giữa thế kỉ XX, đặc biệt là từ đầu thập kỉ thứ 2 của thế
kỉ XX là một vấn đề diễn ra ngày càng nóng cả về mặt quân sự, ngoại giao và luật pháp
quốc tế giữa các nước có lợi ích trên biển Đơng vì thế biển Đơng bây giờ tiềm ẩn nhiều
nguy cơ gây mất ổn định của khu vực và thế giới. Vấn đề Biển Đơng bây giờ khơng
cịn là vấn đề song phương hay đa phương mà đã trở thành vấn đề quốc tế. Ngày càng
nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu vấn đề biển Đông.
Trong khi nhiều nước lớn trên thế giới cùng có những lợi ích gắn với Biển Đơng

và muốn lợi ích của mình được thực hiện thì Trung Quốc là muốn biến Biển Đơng trở
thành một vùng biển “độc chiếm” của mình. Trung Quốc từ đầu thập kỉ thứ 2 của thế kỉ
XXI ngày càng hung hăng hành động nhằm biến âm mưu đó thành hiện thực, đặc biệt
là với con bài “đường lưỡi bò” của mình đã khiến tình trạng chồng lấn về chủ quyền và
mâu thuẫn lợi ích của các quốc gia trên biển Đông ngày càng căng thẳng. Mỹ là một
quốc gia được xem là lớn mạnh toàn diện nhất thế giới hiện nay cũng có những lợi ích
của mình gắn với biển Đơng chính vì thế khó có thể làm ngơ trước những hành động
của Trung Quốc trên biển Đông đồng thời như một “anh lớn” đứng về phía những đồng
minh của mình quanh biển Đơng. Quan hệ Mỹ - Trung từ đầu thế kỉ XXI đang tồi tệ
hơn bao giờ hết khi mà ảnh hưởng của chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ
đang diễn ra trên tồn cầu thì vấn đề quan hệ Trung – Mỹ trong giải quyết xung đột
trên biển Đơng lại làm cho tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa 2 nước ngày càng
8


tăng. Việc giải quyết xung đột trên biển Đông của 2 quốc gia này ảnh hưởng nhiều cục
diện biển Đông cũng như hành động của các quốc gia khác có lợi ích trên biển Đơng,
trong đó có Việt Nam. Vì vậy, vân đề quan hệ Mỹ - Trung trong giải quyết xung đột
trên biển Đông từ 2012 đến này là một vấn đề đáng để quan tâm, nghiên cứu.
Việc nghiên cứu vấn đề quan hệ Mỹ - Trung trong giải quyết xung đột trên biển
Đông từ năm 2012 đến nay vừa góp phần làm rõ những xung đột trên biển Đơng hiện
nay đồng thời góp phần vào cơng tác nghiên cứu mối quan hệ Mỹ - Trung cũng như
quan hệ quốc tế từ đầu thế kỉ XXI. Bên cạnh đó, kết quả của bài nghiên cứu hy vọng sẽ
đóng góp vào việc định hình cục diện tranh chấp Biển Đơng hiện nay và tạo nên những
cơ sở để Việt Nam hoạch định chính sách ngoại giao đúng đắn trong việc bảo vệ lợi
ích, chủ quyền của mình trên Biển Đơng. Cũng hy vọng bản thân sẽ có những nền tảng
quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học và dạy học sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu trong nƣớc
Quan hệ Mỹ - Trung và quan hệ Mỹ - Trung trong giải quyết xung đột trên Biển

Đông được rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm:
Năm 2001, trong bản thảo “Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay” – Lê
Vinh Quốc (chủ biên), tác giả đã khái quát lịch sử quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ thăng
trầm trong 3 giai đoạn: 1949 – 1971, 1971 – 1975, 1976 trở về sau. Vấn đề Đài Loan
được xem là trung tâm của quan hệ Trung – Mỹ.
Năm 2003, cuốn sách “Quan hệ quốc tế” của Học viện Chính trị quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh đã đánh giá những nhân tố chi phối chính sách đối ngoại của
các nước lớn thời kì sau Chiến tranh lạnh. Đối với Mỹ, dù ở vị thế siêu cường thế giới
duy nhất, trước mắt Mỹ không gặp phải thách thức quân sự từ bất kỳ nước lớn nào,
nhưng Mỹ lại đang đứng trước những đe dọa an ninh mới. Quyển sách đã cung cấp
những điều chỉnh trong chiến lược đối ngoại qua 3 đời Tổng thống sau Chiến tranh
lạnh để đối phó với những đe dọa mới. Đối với Trung Quốc, các tác giả trình bày
những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhằm thực hiện
9


mục tiêu cụ thể là: sớm đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc khu vực và thế giới
trong một thế giới đa cực, đa trung tâm; phải đóng vai trị lãnh đạo ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương và trên thế giới trong tương lai không xa.
Năm 2003, với tiêu đề “Quan hệ Mỹ – Trung: đối tác chiến lược hay đối thủ
chiến lược?”, nghiên cứu của thạc sĩ Phạm Cao Phong đã đề cập đến việc xác định
thực chất của quan hệ Trung – Mỹ qua việc tìm hiểu vị trí của Trung Quốc và Mỹ trong
chính sách đối ngoại của mỗi nước. Hai nước xác dịnh nhau là bạn hay là thù, từ đó sẽ
xác định những nhân tố thuận và không thuận chi phối quan hệ Trung – Mỹ: lợi ích chi
phối quan hệ Trung – Mỹ, trong các lợi ích đó, lợi ích nào là lâu dài, lợi ích nào là ngắn
hạn; đặc điểm quan hệ hai nước là gì, quan hệ hai nước có thể có những hợp tác về
chiến lược như trong thập kỷ 1970 và 1980 hay không, nếu không thì hai nước có thể
hợp tác với nhau đến mức độ nào, nếu hai nước cạnh tranh nhau thì mức độ nghiêm
trọng sẽ đến đâu.
Một trong những vấn đề trong quan hệ Trung –Mỹ được các nhà nghiên cứu

quan tâm đó chính là cả hai quốc gia cùng bắt tay tham gia giải quyết các vấn đề an
ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Năm 2004, bài viết “Chu kì hịa dịu mới
trong quan hệ Mỹ – Trung sau sự kiện 11-9: cơ sở và triển vọng” của Thạc sĩ Lê Linh
Lan đăng trong tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 55 đã bàn về sự điều chỉnh sách lược từ
cả hai phía Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện 11- 9. Điều đặt ra là quan hệ Trung – Mỹ:
cải thiện lâu dài hay nhất thời? Theo tác giả, xét từ góc độ cạnh tranh chiến lược, khi
cuộc đấu tranh chống khủng bố lắng xuống thì Trung Quốc vẫn là đối thủ chủ yếu của
Mỹ ở khu vực. Sự thỏa hiệp chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn là một viễn cảnh
xa vời. Hiện nay, trong khi Mỹ đang bận rộn với chiến dịch chống khủng bố, Trung
Quốc đang tập trung sức lực cho phát triển kinh tế và hiện đại hóa qn đội thì quan hệ
hai nước tạm thời ở trong một tình trạng ổn định tương đối. Cũng đồng quan điểm,
trong bài “Những nét chính trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc sau đại hội
16” tác giả Nguyễn Trung Hiếu – nghiên cứu viên Ban Đông Bắc Á, Học viện Quan hệ
quốc tế cũng đã nêu về sự thay đổi các ưu tiên chiến lược đối ngoại của Trung Quốc.
Một trong những ưu tiên đó là tranh thủ sự hợp tác với bên ngoài. Song song với thu
10


hút đầu vào, Trung Quốc cũng tích cực đẩy mạnh “đưa vốn ra bên ngồi, trong đó ưu
tiên hợp tác với các nước phát triển, đặc biệt là với Mỹ”. Phương châm trong việc xử
lý quan hệ với Mỹ sẽ vẫn là “đối đầu nhưng khơng đối kháng”, “đấu trí nhưng không
đấu khẩu” nhằm tránh đẩy quan hệ Trung – Mỹ đi đến chỗ đổ vỡ hoặc ở mức quá xấu,
bất lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế.
Những năm gần đây, các Hội thảo quốc gia và quốc tế về Biển Đông được tổ
chức, quy tụ nhiều nhà nghiên cứu về Biển Đông nổi tiếng trong khu vực và thế giới.
Đông thời, Học viện Ngoại giao Việt Nam kết hợp với NXB Thế giới đã xuất bản cuốn
“Kỷ yếu hội thảo quốc tế” tập hợp các cơng trình nghiên cứu về Biển Đơng như: Đặng
Đình Q (chủ biên) (2010): Hợp tác về an ninh và phát triển trong khu vực; Đặng
Đình Q (cb) (2011)Tranh chấp Biển Đơng Luật pháp, Địa chính trị và hợp tác quốc
tế; Đặng Đình Q và Nguyễn Minh Ngọc (đồng chủ biên) (2013), Biển Đông: Quản

lý tranh chấp và định hướng giải pháp; Đặng Đình Quý và Nguyễn Minh Ngọc (đồng
chủ biên) (2013), Biển Đông: Địa chính trị, lợi ích, chính sách và hành động của các
biên liên quan.
Cuốn “Hợp tác ở Biển Đông – từ góc nhìn quan hệ quốc tế” của tác giả Trần
Nam Tiến (NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2014), nhấn mạnh tới các quốc gia có liên quan
và vai trị của một số thể chế quốc tế, những lực lượng có khả năng hạn chế xung đột
thúc đẩy hợp tác ở Biển Dơng đề cùng nhau duy trì lợi ích.
Đặc biệt cuốn sách “Xung đột trên Biển Đơng khơng cịn là nguy cơ tiềm ẩn”
của tác giả Lê Hồng Thọ, do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2012, đã phân tích
khá sâu sắc quan điểm của các bên liên quan tại Biển Đơng, đặc biệt là lợi ích của các
nước lớn tại khu vực này, từ đó đưa ra các nhận xét, bình luận một cách khách quan
cho trạng thái xung đột tại Biển Đông.
2.2. Nghiên cứu nước ngoài
Các nghiên cứu đi sâu vào mối quan hệ của Mỹ và Trung quốc liên quan tới vấn
đề trên biển Đông cũng rất đa chiều.

11


Trong cuốn sách “Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn
trong thế kỷ XXI” của Bruce W. Jentleson, ấn hành năm 2000 đã đi sâu phân tích một
số nội dung cơ bản của q trình hoạch định chính sách mới, cũng như những lựa chọn
và thách thức đang đặt ra cho chính sách đối ngoại Mỹ trong thế kỷ XXI; qua đó làm rõ
mục tiêu và động cơ lưạ chọn, những thay đổi và điều chỉnh trong chính sách đối ngoại
Mỹ trước diễn biến mới của tình hình. Trong đó quan hệ với Trung Quốc trên nhiều
lĩnh vực được đặt ra, cân nhắc với những lựa chọn quyền lực, hịa bình, thịnh vượng
hay các ngun tắc nhằm đạt được lợi ích quốc gia của Mỹ.
Cuốn sách “Các cường quốc và đại chiến lược – Ván bài mới trên Biển Đông”
(Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South China Sea), do tác giả
Anders Corr làm chủ biên, xuất bản năm 2018 bởi Nhà xuất bản Học viện Hải quân

(Naval Institute Presss), Maryland, Mỹ đã tập hợp các bài viết của nhiều học giả nổi
tiếng thế giới về cách mà các cường quốc trên thế giới nhìn nhận và hoạch định, và
thực hiện chính sách Biển Đơng của mình. Cuốn sách gồm 10 chương, 327 trang, mơ tả
tồn diện về ván cờ mới trên Biển Đơng với nhân tố chính là chiến lược Biển Đơng của
các cường quốc Trung Quốc, ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga và EU, qua đó thể
hiện rất rõ mức độ nghiêm trọng và bản chất quốc tế của vấn đề Biển Đơng, đồng thời
cho thấy chính sách với Biển Đơng của các cường quốc vượt qua các tính tốn về kinh
tế mà hướng tới các mục tiêu sâu xa hơn về mặt chiến lược với nhân tố quan trọng là
Trung Quốc.
Tháng 5 năm 2018, Viện Luật Quốc tế và Luật so sánh của Anh (BIICL) công
bố Báo cáo dài 147 trang với tiêu đề: “Sử dụng vũ lực liên quan đến tranh chấp chủ
quyền đối với lãnh thổ đất liền” (The Use of Force in relation to Sovereignty Disputes
over Land Territory). Báo cáo là kết quả nghiên cứu của dự án luật quốc tế của nhóm
chuyên gia do TS. Constantinos Yiallourides chủ trì và hội thảo quốc tế cùng chủ đề
được tổ chức tại London ngày 27/3/2018. Báo cáo phân tích các quy tắc điều chỉnh
hành vi và thực tiễn sử dụng vũ lực giữa các quốc gia trong các tranh chấp lãnh thổ,
trong đó có nhiều liên hệ tới tranh chấp Biển Đông.

12


Cuốn sách "Đảo đá trên biển Đông: Sau Phán quyết của Tòa La-Hay" (Islands
and rocks in the South China Sea: Post-Hague ruling) do nhà báo tự do và nghiên cứu
viên cao cấp của Viện Mỹ-Châu Á tại Washington James Borto chủ biên đã được xuất
bản tháng 5/2017. Cuốn sách được phát triển dựa trên 21 bài tham luận của các tác giả
đến từ nhiều quốc gia trên thế giới được trình bày trong khn khổ Hội thảo quốc tế do
Đại học Nha Trang và Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức. Hội thảo này được tổ chức
một tháng sau khi Tịa Trọng tài cơng bố Phán quyết cuối cùng về vụ kiện Biển Đông
giữa Philippines và Trung Quốc tháng 7/2016.
Cuốn “ Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific” của

tác giả Robert Haddick. Tác giả Robert Haddick đã sử dụng 30 năm kinh nghiệm
nghiên cứu về xu hướng an ninh ở châu Á để phân tích sự trỗi dậy về quân sự của
Trung Quốc và chiến lược ứng phó của Mỹ và chỉ ra rằng chiến lược của Mỹ hiện
khơng hiệu quả và có thể là một trong những nguyên nhân tiềm tàng gây xung đột tại
khu vực.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Quan hệ Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết xung đột trên biển Đông (2012 –
2020)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: 2012 – 2020
Không gian: Biển Đông và các nước có lợi ích trên biển Đơng
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Khái quát được những hành động của Mỹ và Trung Quốc trong giải quyết xung
đột trên biển Đơng qua đó làm rõ được quan hệ Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết
xung đột trên biển Đông trong giai đoạn 2012 – 2020
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
13


- Phân tích nguồn gốc của vấn đề biển Đơng trong quan hệ Trung Quốc và Mỹ.
- Phân tích quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết xung đột trên biển
Đông trên các lĩnh vực.
- Đánh giá tác động của quan hệ Trung – Mỹ trong giải quyết xung đột trên biển
Đông đến khu vực, thế giới và Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu bài khóa luận sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp chuyên ngành lịch sử: Phương pháp lịch sử và lôgic.

- Phương pháp khác: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân
tích pháp lý.
6. Đóng góp của Khóa luận
Khóa luận góp phần làm rõ mối quan hệ Trung Quốc và Mỹ từ góc nhìn giải
quyết xung đột trên biển Đông của 2 quốc gia này. Những diễn biến trong giải quyết
xung đột trên biển Đông của 2 quốc gia sẽ được phân tích, so sánh, đánh giá để xem
Trung Quốc và Mỹ đã góp phần giải quyết xung đột trên biển Đông như thế nào?
Thông qua đây, dưới những hành động và tác động của Mỹ và Trung Quốc trong giải
quyết xung đột trên biển Đông để từ đó Việt Nam có góc nhìn chi tiết hơn để hoạch
định đường lối đối ngoại trong việc bảo vệ lợi ích, chủ quyền của mình trên biển Đơng
Những nội dung của khóa luận sẽ góp phần tạo thêm một kênh tham khảo trong
việc nghiên cứu mối quan hệ Mỹ - Trung cũng như vấn đề Biển Đông.
7. Cấu trúc của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
khố luận gồm có chương:
-

Chương 1: Vấn đề xung đột trên biển Đông và sự xuất hiện của vấn đề biển
Đông trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ
14


-

Chương 2: Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trong giải quyết xung đột trên biển
Đông (2012 – 2020)

15



NỘI DUNG
Chƣơng 1: Vấn đề xung đột trên biển Đông và sự xuất hiện của vấn đề biển
Đông trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ
1.1. Khái quát về vấn đề xung đột trên biển Đông
1.1.1. Khu vực và phạm vi xung đột
1.1.1.1. Vị trí chiến lược của biển Đơng
Biển Đơng là một biển nửa kín, rìa Tây Thái Bình Dương có diện tích khoảng 3,5
triệu km2 trải dài từ Singapore đến eo biển Đài Loan, từ vĩ độ 3” đến 26‟‟ Bắc và từ
kinh độ 100” đến 121” Đông. Ngồi Việt Nam, biển Đơng được bao bọc bởi Trung
Quốc lục địa, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singaporre, Thái
Lan và Campuchia. Với hệ thống các đảo và quần đảo1, biển Đông được nối thông với
biển Hoa Đông của Trung Quốc và biển Nhật Bản (qua eo biển Đài Loan), thơng với
Thái Bình Dương qua các biển đảo của Philippines và thông với Ấn Độ Dương qua eo
biển Malacca. Xung quanh biển Đơng có rất nhiều vịnh quan trọng như vịnh Bắc Bộ,
vịnh Thái Lan, vịnh Subic, vịnh Manila với nhiều cảng nước sâu vv…
Chính vì vậy biển Đơng trở thành nơi xuyên qua của các luồng thương mại hàng
hải và hàng không quốc tế, nối liên các nước Đông Bắc Á với Đông Nam Á và là
đường hàng hải ngắn nhất nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Trong số 10 tuyến
đường hàng hải chính trên thế giới thì 5 tuyến đi qua khu vực Biển Đơng. Hơn 90%
thương mại quốc tế được vận chuyển bằng đường biển, trong đó 45% đi qua biển
Đơng2. Có khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc, 60% của Nhật Bản
và 66% của Hàn Quốc đi qua biển Đơng; Có tới 42% hàng xuất khẩu của Nhật Bản,
55% hàng xuất khẩu của các nước Đông Nam Á, 26% hàng xuất khẩu của các nước
công nghiệp mới và 40% hàng của Australia cũng đi qua vùng biển này. Đối với Việt
Nam, hơn 95% hàng xuất khẩu thơng qua đường biển. Có thể nói, biển Đơng đã trở
thành “van điều tiết” dịng chảy thương mại, đặc biệt là vận chuyển dầu hỏa giữa các
nước Trung Đông và châu Phi và các nền kinh tế ở Đơng Á3. Chính có những lợi thế
trên, biển Đơng thường được ví như “Địa Trung Hải châu Á”4.
16



Khơng những thế, biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, giàu có, nhất là dầu khí và sinh vật biển. Theo đánh giá khu vực này chứa
khoảng 130 tỷ thùng dầu mỏ và 900 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên, trong đó đã có
khoảng 7 tỷ thùng dầu đã được kiểm chứng với khả năng sản xuất 2,5 triệu
thùng/ngày5. Hơn nữa, vùng biển Đơng cịn có một lượng khí đóng băng lớn, tương
đương với lượng dự trữ dầu khí trên. Ngồi ra, dưới đáy biển cịn có khá nhiều kim loại
q hiếm như Coban, Mangan. Về hải sản, có trên 100 lồi cá có giá trị kinh tế cao và
có khả năng khai thác với số lượng lớn. Hiện nay, sản lượng đánh bắt cá tại vùng biển
này chiếm khoảng 7-8% của cả thế giới.
Trong khu vực biển Đơng thì quần đảo Trường Sa khơng chỉ có diện tích lớn nhất
(trên 1,3 triệu km2, chiếm 38% tổng diện tích biển Đơng), chứa đựng nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhất, đặc biệt là dầu khí, mà cịn là nơi có vị trí chiến lược về giao
thơng hàng hải và phịng thủ chiến lược. Nếu quần đảo này có căn cứ qn sự hiện đại
thì có thể kiểm sốt được một địa bàn rộng, gần như tồn bộ Đơng Nam Á và Đơng
Nam của Trung Quốc. Chính những lợi ích to lớn trên đã kích thích thêm tham vọng
địa chính trị của nhiều nước , làm cho biển Đơng trở nên nổi sóng trong nhiều thập kỷ
qua.
1.1.1.2. Hệ thống xung đột trên biển Đông
Tranh chấp hay xung đột đều có bản chất là mâu thuẫn. Tình hình xung đột ở Biển
Đơng phức tạp khơng chỉ do sự tồn tại đồng thời của nhiều mâu thuẫn và mức độ gay
gắt của chúng mà còn bởi sự giằng chéo giữa các mâu thuẫn này. Việc xác định các
mâu thuẫn này với đối tượng tranh chấp, chủ thể tham gia và mức độ đối kháng là rất
quan trọng đối với việc tìm cách thức giải quyết tranh chấp.
Các mâu thuẫn này sẽ được xem xét lần lượt dựa trên đối tượng tranh chấp. Các đối
tượng tranh chấp chính ở Biển Đông là lãnh thổ, an ninh và kinh tế. Trong mỗi đối
tượng, có những chủ thể tham gia không như nhau. Mức độ mâu thuẫn cũng khác nhau
khi đối tượng tranh chấp càng quan trọng, mâu thuẫn khả năng càng sâu sắc. Hơn nữa,
mỗi loại đối tượng tranh chấp đều có những đặc thù riêng nên cũng địi hỏi những cách
thức và cơ chế giải quyết khác nhau. Lẽ dĩ nhiên, sự phân chia như vậy chỉ là tương đối

17


do ba đối tượng này đều liên quan chặt chẽ với nhau. Chính sự liên quan này khiến cho
các mâu thuẫn giằng chéo với nhau. Điều này làm nên tính hệ thống của các mâu thuẫn
ở Biển Đông. Dưới đây là các mâu thuẫn đó:
- Mâu thuẫn về lãnh thổ: Trong hệ thống xung đột quốc tế ở Biển Đông, đây là mâu
thuẫn phức tạp và khó giải quyết nhất bởi đối tượng tranh chấp khá đa dạng khi bao
gồm cả lãnh hải, đảo, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trong đó, tranh chấp
lãnh hải và đảo thì khó giải quyết hơn nhiều so với vùng đặc quyền kinh tế bởi chúng
gắn liền với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Vấn đề chủ quyền quốc gia vốn là thứ rất
khó nhân nhượng và thỏa hiệp, đặc biệt ở Đơng Á – nơi vốn có chủ nghĩa dân tộc và ý
thức chủ quyền mạnh mẽ. Hơn nữa, lãnh hải và đảo hiện đều thuộc quyền kiểm soát
thực tế của bên nào đó nên càng khó nhân nhượng. Từ bỏ cái trong túi mình bao giờ
cũng khó hơn từ bỏ cái trong túi người khác. Mâu thuẫn lãnh thổ ở Biển Đơng trở nên
khó giải quyết hơn là vì vậy.
Mâu thuẫn lãnh thổ ở Biển Đơng càng phức tạp và khó giải quyết hơn khi xét về
chủ thể tham gia. Mâu thuẫn này liên quan đến hầu hết các nước ven bờ Biển Đơng. Có
mâu thuẫn song phương, có mâu thuẫn đa phương
Có thể phân chia các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đơng thành hai nhóm chính. Nhóm
đầu tiên là những tranh chấp lãnh thổ liên quan đến Trung Quốc. Nhóm thứ hai là tranh
chấp giữa các nước ASEAN. Đây là sự phân chia dựa theo chủ thể nhưng cũng gắn liền
với quy mô đối tượng tranh chấp và mức độ phức tạp của mâu thuẫn.
Trong nhóm đầu tiên, mâu thuẫn lớn nhất, phức tạp nhất và cũng thuộc loại khó
giải quyết nhất là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Vùng lãnh thổ tranh chấp giữa hai
nước này khơng chỉ rộng nhất về diện tích mà gồm cả lãnh hải, đảo (bao gồm toàn bộ
Hoàng Sa và Trường Sa), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngoài vùng đặc
quyền kinh tế. Tranh chấp trên biển giữa hai nước còn bị phức tạp thêm bởi nhiều vấn
đề song phương khác. Mâu thuẫn thứ hai cũng căng thẳng nhưng đỡ phức tạp hơn là
giữa Philippines với Trung Quốc. Đối tượng lãnh thổ tranh chấp nhỏ hơn và được giới

hạn ở một phần quần đảo Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Mâu
18


thuẫn thứ ba là nhóm các mâu thuẫn lãnh thổ có mức độ thấp hơn giữa Maylaysia và
Brunei với Trung Quốc trong việc đòi chủ quyền ở một phần nhỏ Trường Sa.
Trong nhóm thứ hai, mức độ mâu thuẫn cũng liên quan đến quy mơ lãnh thổ tranh
chấp. Diện tích tranh chấp nhiều nhất là giữa Philippines với Việt Nam. Tiếp đó là
Malaysia và Brunei với hai nước trên. Ngồi ra là các tranh chấp khác về thềm lục địa
hay vùng đặc quyền kinh tế xảy ra với tất cả các nước ven bờ. Nhìn chung, các tranh
chấp liên quan đến Trung Quốc thường diễn ra trong tình trạng phức tạp và căng thẳng,
nhất là hai mâu thuẫn đầu. Trong khi đó, nhiều tranh chấp giữa các nước ASEAN đã và
đang được giải quyết hoặc ít nhất cũng khơng dẫn đến sự căng thẳng trong quan hệ.
- Mâu thuẫn về an ninh: Đây cũng là mâu thuẫn lớn và phức tạp trong hệ thống
xung đột quốc tế ở Biển Đông. Trong mâu thuẫn này, đối tượng tranh chấp khá khác
nhau, bao gồm cả yếu tố hữu hình và vơ hình.
Đối tượng đầu tiên là an ninh lãnh thổ đối với các quốc gia ven bờ Biển Đông.
Tranh chấp lãnh thổ ln được coi là sự xâm phạm tồn vẹn lãnh thổ và độc lập chủ
quyền. Từ đó là sự đe dọa an ninh đất nước. Đây là đối tượng xuất phát từ bản chất của
xung đột lãnh thổ. Đối tượng thứ hai là quyền lực. Việc chiếm giữ được các vị trí chiến
lược trên Biển Đơng và các nguồn tài nguyên ở đó có thể đem lại ưu thế sức mạnh cho
quốc gia nào đó. Từ đó, cán cân so sánh quyền lực trong khu vực có thể thay đổi theo
hướng có lợi cho quốc gia này mà khơng có lợi cho các quốc gia khác. Đối tượng thứ
ba là sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế khu vực và nguy cơ xung đột tăng lên do tình
hình tranh chấp không được giải quyết ở Biển Đông. Điều này đe dọa môi trường ổn
định cho phát triển, đe dọa an ninh hàng hải cũng như làm hại tới sự hợp tác giữa các
nước liên quan. Đối tượng thứ tư là về các vấn đề an ninh phi truyền thống. Sự chia rẽ
trên vùng khơng gian Biển Đơng cịn đe dọa tới an ninh môi trường và an ninh con
người của cư dân ven bờ,…
Bức tranh xung đột an ninh còn phức tạp hơn bởi chủ thể tham gia. Trong mâu

thuẫn đầu tiên, sự đe dọa an ninh lãnh thổ có thể xảy ra với tất cả các bên tranh chấp.
Tuy nhiên, mức độ bị đe dọa là khác nhau. Trung Quốc với tiềm lực mạnh hơn hẳn các
nước ASEAN nên khả năng bị đe dọa an ninh lãnh thổ là rất thấp. Ngược lại, mức độ
19


bị đe dọa từ bên ngoài đối với các nước ASEAN là khá cao. Đây là mối lo lắng an ninh
lớn nhất của các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đơng. Trong khi đó, mức độ lo lắng
từ sự xung đột giữa các nước ASEAN là rất thấp do khả năng kiểm sốt và giải quyết
xung đột một cách hịa bình giữa các chủ thể này khá cao.
Trong mâu thuẫn thứ hai, đó là sự lo ngại trước sức mạnh ngày càng tăng của
Trung Quốc. Ưu thế quyền lực của Trung Quốc được coi là có khả năng kiểm sốt
Biển Đông. Với đà phát triển của Trung Quốc hiện nay, cán cân quyền lực khu vực có
xu hướng tiếp tục nghiêng về Trung Quốc và sự mất cân bằng quyền lực trong khu vực
đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, khác với các nước ASEAN, Trung Quốc mưu tìm
quyền lực ở Biển Đơng khơng chỉ từ lợi ích khu vực mà cịn cả lợi ích tồn cầu. Xu
hướng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc được coi là sự đe dọa cả lợi ích của các
cường quốc khác bên ngồi Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Australia, ấn Độ, Nga và
EU trong tự do hàng hải. Vì thế, trong mâu thuẫn này, đã có sự mở rộng thêm về chủ
thể. Đây là những chủ thể mà trong mâu thuẫn lãnh thổ không xuất hiện. Sự tham gia
vào mâu thuẫn quyền lực của các cường quốc trên tạo ra hai xu hướng có phần ngược
nhau. Xu hướng đầu là cố gắng gia tăng quyền lực khu vực của Trung Quốc trước nguy
cơ bị cạnh tranh và điều này khiến cuộc ganh đua quyền lực trong khu vực trở nên gay
gắt hơn, ảnh hưởng đến các nước nhỏ nhiều hơn. Xu hướng kia là có thêm khả năng
quốc tế hóa giải quyết hịa bình các xung đột ở Biển Đơng.
Trong mâu thuẫn thứ ba, đối tượng và khách thể bị tác động tiêu cực bởi xung đột
Biển Đơng cịn lớn hơn nhiều. Chúng bao gồm không chỉ các nước trong khu vực, các
cường quốc kể trên mà còn cả các đối tác trên thế giới có quan hệ làm ăn với các nước
ở Biển Đông. Tất cả các chủ thể này đều không muốn xung đột ở Biển Đông leo thang
sẽ đe dọa tới lợi ích đa dạng và mối quan hệ có lợi của chúng ở trong khu vực, nhất là

trong vấn đề an ninh hàng hải vốn liên quan nhiều đến lợi ích của các nước lớn ngồi
khu vực cả về phương diện an ninh lẫn kinh tế. Tất nhiên, những nước ASEAN có
tranh chấp với Trung Quốc là người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi Trung Quốc có khả
năng gây sức ép khá đa dạng.

20


Trong mâu thuẫn thứ tư, khách thể bị tác động bởi các vấn đề an ninh phi truyền
thống cũng có quy mô như trong mâu thuẫn thứ ba. Tuy nhiên, sự trái ngược lợi ích ở
đây khơng sâu sắc bằng do các lợi ích này chưa được coi là cơ bản. Nhưng cũng chính
vì điều đó mà dù có khách thể rộng nhưng sự tham gia của các nước bên ngồi vào
mâu thuẫn thứ tư khơng rõ rệt như mâu thuẫn thứ hai và ba.
Các mâu thuẫn trên đều ảnh hưởng lớn tới an ninh của mọi quốc gia ven bờ Biển
Đông tuy không giống nhau. Hai mâu thuẫn đầu thuộc về an ninh truyền thống đều
đang tạo ra đe dọa và lo ngại rất lớn. Hai mâu thuẫn này có vẻ cịn lâu mới giảm bớt.
Xét về mức độ, hai mâu thuẫn này cũng sâu sắc hơn nhiều so với mâu thuẫn thứ ba và
thứ tư. Hai mâu thuẫn đầu khơng chỉ khó giải quyết mà cịn có xu hướng làm tăng xung
đột ở đây. Trong khi đó, hai mâu thuẫn sau ít sâu sắc hơn và có tác động đồng thời
nhưng xu hướng thúc đẩy hợp tác nhiều hơn xung đột. Hơn nữa, để tránh sự can dự của
các nước lớn ngoài khu vực vào vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng cố gắng kiềm
chế không để mâu thuẫn thứ hai trở thành công khai và mâu thuẫn thứ ba trở nên căng
thẳng.
- Mâu thuẫn về kinh tế: So với hai mâu thuẫn trên, mâu thuẫn kinh tế ít sâu sắc hơn
nhưng vẫn phức tạp và khó giải quyết do bị gắn với tranh chấp lãnh thổ. Mâu thuẫn này
có đối tượng tranh chấp chủ yếu là những tài nguyên biển như các nguồn lợi thủy hải
sản và dầu mỏ. Nhưng thứ tài nguyên khiến cho mâu thuẫn ở đây trở nên căng thẳng và
khó giải quyết hơn chính là dầu mỏ. Càng phát triển, nhu cầu đối với tài nguyên chiến
lược này càng cao, mâu thuẫn về lợi ích dầu mỏ sẽ ngày càng lớn. Đây là đối tượng
tranh chấp chủ yếu trong mâu thuẫn về kinh tế của các bên tranh chấp. Chính vấn đề

dầu mỏ đang làm quy mô không gian tranh chấp được mở rộng ra không chỉ trên vùng
đặc quyền kinh tế mà cịn cả trong thềm lục địa ngồi vùng đặc quyền kinh tế. Đáng
chú ý, trong lúc mâu thuẫn lãnh thổ đang bế tắc, mâu thuẫn an ninh đang còn phải chờ
xem thì mâu thuẫn kinh tế đang được đẩy lên trước trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông.
Việc đẩy các tranh chấp kinh tế lên trước không chỉ bị thúc đẩy bởi các lợi ích kinh tế
mà cịn như sự dẫn dắt cho các đòi hỏi về lãnh thổ và an ninh. Như vậy, những lợi ích

21


kinh tế, đặc biệt là dầu mỏ đang làm cho việc tranh chấp chủ quyền lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa ở Biển Đông càng thêm phức tạp và khó giải quyết.
Xét về mức độ, mâu thuẫn về dầu mỏ gay gắt hơn nhiều so với mâu thuẫn về đánh
bắt hải sản. Sự gay gắt này được quy định bởi tính chất chiến lược của dầu mỏ cũng
như nhu cầu đối với nguồn năng lượng này là lớn và quan trọng hơn rất nhiều so với
hải sản. Khu vực tranh chấp nào có tiềm năng dầu mỏ thì mâu thuẫn càng sâu sắc và
trở nên khó giải quyết hơn. Tiềm năng dầu mỏ càng lớn, nguy cơ xung đột càng gay
gắt và khó giải quyết. Thậm chí, đã có ý kiến cho rằng “việc tìm thấy dầu khí có thể tạo
ra một tình huống rất nguy hiểm”6.
Mâu thuẫn này được thể hiện trong sự tranh chấp quyền khai thác các tài nguyên
trên những vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Vì thế, cũng giống như trên, hầu hết các
nước ven bờ Biển Đơng có tranh chấp lãnh thổ đều là chủ thể tham gia vào mâu thuẫn
này. Trong số đó, mâu thuẫn đầu tiên về các nguồn lợi kinh tế và dầu mỏ phức tạp nhất
và căng thẳng nhất cũng lại rơi vào quan hệ Việt Nam-Trung Quốc với địa bàn tranh
chấp rộng, có cả lãnh hải và đảo nằm trong. Đó là một nơi tiềm năng dầu mỏ ngồi
khơi Biển Đơng đã được chứng tỏ, cịn một nơi thì đang trong “cơn khát dầu” ngày
càng tăng cùng đà phát triển. Nhóm mâu thuẫn thứ hai là trong quan hệ tay ba giữa
Trung Quốc, Philippines và Việt Nam liên quan đến một phần quần đảo Trường Sa và
vùng đặc quyền kinh tế gần đó mà Philippines địi hỏi. Mâu thuẫn này cũng tương đối
căng thẳng nhưng mức độ khơng bằng mâu thuẫn trên, ít nhất cũng đã tồn tại cố gắng

hợp tác trong nhóm này dù cịn nhỏ nhoi. Nhóm mâu thuẫn thứ ba là giữa Trung Quốc
với các nước tranh chấp khác. Nhóm mâu thuẫn này ít căng thẳng hơn bởi có quy mơ
nhỏ hơn, ít quan trọng hơn và lại được nấp đằng sau sự tranh chấp Việt Nam-Trung
Quốc. Nhóm mâu thuẫn thứ tư là giữa các nước ASEAN có tranh chấp với nhau, ngoại
trừ tranh chấp Việt Nam-Philippines mà trên đã đề cập. Trong nhóm này, phần lớn
tranh chấp giữa các nước đó hoặc đã được giải quyết hoặc ít có khả năng tạo sự căng
thẳng trong quan hệ.
1.1.1.3. Yêu sách của các bên ở biển Đông
a. Yêu sách của Trung Quốc (bao gồm của Đài Loan)
22


- Về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Trung Quốc yêu sách về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
chủ yếu dựa trên một số lập luận về phát hiện, chiếm hữu, quan hệ “thiên triều, chư
hầu” trong lịch sử. Trung Quốc cho rằng Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát hiện và
chiếm hữu hai quần đảo từ xa xưa. Họ còn cho rằng, ngay cả khi các quốc gia khác
chứng minh được chủ quyền của mình đối với quần đảo Hồng Sa và Trường Sa thì lúc
đó các nước này cũng hành động dưới danh nghĩa của hoàng đế Trung Hoa theo quan
hệ “thiên triều-chư hầu”, do đó các lãnh thổ mới này cũng thuộc về Trung Quốc7 mặc
dù quan hệ này chưa bao giờ đúng trên thực tế mà chỉ là danh nghĩa.
Trung Quốc cũng đưa ra lập luận về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của
Trung Quốc và khơng có quyền thay đổi theo ngun tắc estoppel. Lập luận này dựa
vào việc vào năm 1958, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư tuyên bố tán thành
Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc, trong đó có việc áp dụng cho hai quần đảo
Hồng Sa và Trường Sa8. Việt Nam cho đây là một sự xuyên tạc bởi câu chữ của bức
thư chỉ thông báo việc tôn trọng và tán thành „hải phận” 12 hải lý của Trung Quốc,
khơng có từ nào chỉ việc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (VNDCCH) cơng nhận chủ
quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Về “đường lưỡi bị”

Ngồi vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa, Trung Quốc
cịn cho lưu hành bản đồ có yêu sách Đường lưỡi bò, khởi thủy do một cá nhân vẽ vào
những năm 1930 và được chính quyền Quốc dân Đảng cho ban hành vào năm 1948,
lúc đầu là 11 đoạn nhưng Chu Ân Lai cho bỏ đi hai đoạn vào năm 1953. Tuy trên các
bản đồ của Trung Quốc đều cho vẽ Đường lưỡi bị nhưng Trung Quốc khơng tun bố
chính thức nêu yêu sách và cơ sở pháp lý của đường này. Đa số học giả Trung Quốc
cho rằng chính quyền Đài Loan đã lưu hành bản đồ vẽ Đường lưỡi bị từ năm 1948 mà
khơng có phản đối nào từ các quốc gia xung quanh. Do đó Trung Quốc có danh nghĩa
lịch sử nhất định đối với Đường lưỡi bò, khơng phải chủ quyền tồn bộ mà có một số
quyền lịch sử như đánh bắt cá, khai thác tài nguyên9.
23


Năm 2009, Trung Quốc lần đầu tiên công khai bản đồ có Đường lưỡi bị trong
Cơng hàm gửi Liên hợp quốc phản đối báo cáo ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt
Nam và Malaysia10. Gần như sau đó, Trung Quốc áp dụng luật biển hiện đại bổ sung
lập luận về cơ sở pháp lý của đường này theo hướng Trung Quốc có chủ quyền đối với
các quần đảo tại Biển Đơng và các quần đảo này có đời sống kinh tế riêng nên tạo ra
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tương đương như Đường lưỡi bò.
Do “bản đồ” này trên danh nghĩa cá nhân vẽ nên khơng có tọa độ rõ ràng; được vẽ
một cách tùy tiện, trước là đường liền nét, sau đứt đoạn; ban đầu là 11 đoạn, nay cịn 9
đoạn, có khi lại 10 đoạn; ngồi ra, đây là một đường vịng cung chứ không phải là
đường gấp khúc nối các tọa độ như tất cả các biên giới khác trên thế giới. Nội bộ Trung
Quốc có nhiều ý kiến khác nhau về tính chất pháp lý của Đường lưỡi bị. Luồng quan
điểm thứ nhất cho rằng Đường lưỡi bò là đường chỉ “vùng nước lịch sử” mà Trung
Quốc có chủ quyền như nội thủy (hoặc như lãnh hải). Quan điểm thứ hai cho rằng đây
là đường chỉ vùng nước mà Trung Quốc có một số quyền lịch sử - như quyền đánh cá,
hay vùng quản lý truyền thống. Quan điểm thứ ba cho rằng đây là đường quy thuộc các
đảo. Quan điểm thứ tư coi đường này là đường ranh giới ngoài của vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa tính từ các đảo ngoài cùng của quần đảo Hoàng Sa và Trường

Sa11.
b. Yêu sách của Việt Nam
Yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
dựa trên những bằng chứng lịch sử và pháp lý.
Về lịch sử, các tài liệu chép sử của triều đình nhà Nguyễn đã mơ tả một cách thống
nhất rằng từ thế kỷ XVII các đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải đã được chúa Nguyễn cử ra
Hoàng Sa và Trường Sa khai thác các sản vật trong vòng sáu tháng trong một năm. Sau
khi trở về sẽ phải nộp thuế cho các điểm thu thuế của triều đình. Các hoạt động này
được tiến hành liên tục cho đến khi Pháp xâm chiếm Việt Nam. Thậm chí một số tài
liệu nước ngồi cịn mơ tả dưới triều vua Gia Long vào năm 1816, Việt Nam đã tuyên
bố việc chiếm hữu bằng một nghi lễ chính thức và kéo cờ tại quần đảo Hồng Sa12.
Qua đó, việc khai thác và chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa là những hoạt động mang
24


danh nghĩa nhà nước, đã được thực hiện một cách liên tục và có hiệu quả. Những hoạt
động theo các quy định của pháp luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ có thể tạo lập danh
nghĩa chủ quyền cho Việt Nam13.
Dưới thời Pháp thuộc, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới sự quản lý
trực tiếp của họ. Vào năm 1933, Pháp đã ra tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo
này theo đúng trình tự về chiếm hữu lãnh thổ của luật quốc tế. Pháp cũng đã duy trì sự
chiếm đóng và xác lập địa giới hành chính cho Hồng Sa và Trường Sa và sáp nhập
vào lãnh thổ Việt Nam, với tư cách là chính quyền bảo hộ cho Việt Nam thời kỳ này.
Điều này chứng minh rằng Pháp đã thực hiện việc chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa
cho Việt Nam với tư cách là chính quyền bảo hộ của Việt Nam. Sau khi rút khỏi Việt
Nam, Pháp đã chuyển giao việc kiểm sốt hai quần đảo này cho chính quyền Việt
Nam. Nói cách khác, chủ quyền đã được Pháp xác lập hợp pháp tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được Việt Nam Cộng hịa kế thừa.
Chính quyền Sài Gịn đã tiếp tục duy trì sự kiểm sốt hiệu quả đối với hai quần đảo
Hồng Sa và Trường Sa thơng qua các hoạt động chiếm đóng, quản lý liên tục cho tới

khi chuyển giao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.
Năm 1976 khi Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam sáp nhập với
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thành nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam (CHXHCNVN), nước Việt Nam thống nhất đã kế thừa chủ quyền của Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường
Sa.
c. Yêu sách của Phillippin
Philippines đưa ra yêu sách chủ quyền là dựa vào tính kế cận về mặt địa lý giữa các
đảo của khu vực Kalayaan (phần lớn quần đảo Trường Sa) và lãnh thổ Philippines, dựa
vào sự phát hiện và kiểm soát hữu hiệu và tầm quan trọng về an ninh và kinh tế của
Kalayaan đối với Philippines14.
Tính kế cận về mặt địa lý đã từng được một số quốc gia sử dụng để đưa ra yêu sách
chủ quyền đối với một số đảo trong thế kỷ XIX. Lập luận thường được sử dụng là nếu
25


×