Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Phong trào công nhân đà nẵng trong kháng chiến chống mỹ cứu nước (1955 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN ĐÀ NẴNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1955-1975)

Sinh viên thực hiện: Phạm Văn Sự
Lớp

: 17CLS

Chuyên ngành

: Lịch sử (Quan hệ Quốc tế)

GVHD

: TS. Nguyễn Minh Phương

Đà Nẵng, ngày 6 tháng 5 năm 2021


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Đà Nẵng - Đại học Sư
Phạm, Khoa Lịch Sử đã quan tâm, tạo điều kiện để chúng tơi được tham gia và hồn


thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn thầy, cô Khoa Lịch sử, đã quan tâm và tạo điều kiện giúp
tơi hồn thành khóa luận. Đặc biệt tơi xin được bày tỏ sự kính trọng, biết ơn sâu sắc
TS. Nguyễn Minh Phương là người thầy đã tận tụy giúp đỡ, hướng dẫn tôi trên bước
đường học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã ln động viên giúp đỡ
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để tơi hồn thành khóa luận này.
Đà Nẵng, ngày 6 tháng 5 năm 2021
Sinh viên

Phạm Văn Sự


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .............................................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .........................................................2
2.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2
2.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................................2
3.1. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................................2
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................3
4.1. Nguồn tài liệu .......................................................................................................3
4.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3
5. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN ............................................................................3
6. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN ..................................................................................4
NỘI DUNG .....................................................................................................................5

CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở ĐÀ NẴNG THỜI KỲ 1955-1960 5
1.1. Khái quát về tình hình miền nam Việt Nam 1955-1960 ..................................5
1.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm đối với cơng nhân ở Đà
Nẵng 1955-1960 ..........................................................................................................7
1.2.1. Về tư tưởng - chính trị ....................................................................................7
1.2.2. Về kinh tế ........................................................................................................9
1.2.3. Về văn hóa-xã hội .........................................................................................10
1.3. Đời sống của công nhân Đà Nẵng 1955-1960..................................................11
1.3.1. Thời gian và điều kiện lao động ...................................................................11
1.3.2. Tình trạng thất nghiệp ...................................................................................12
1.3.3. Lương công nhân ..........................................................................................14
1.4. Diễn biến phong trào đấu tranh của công nhân Đà Nẵng 1955-1960 ..........15
1.4.1. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu chính trị ..................................................15
1.4.2. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân chủ, dân sinh ...................................19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1..............................................................................................21


CHƯƠNG 2: PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở ĐÀ NẴNG THỜI KÌ 1960-1975
.......................................................................................................................................21
2.1. Khái qt về tình hình miền Nam Việt Nam 1960-1975................................22
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gịn đối với cơng nhân ở Đà Nẵng
1960-1975 ..................................................................................................................24
2.2.1. Về tư tưởng-chính trị ....................................................................................24
2.2.2. Về kinh tế ......................................................................................................26
2.2.3. Về văn hóa-xã hội .........................................................................................27
2.3. Đời sống cơng nhân ở Đà Nẵng 1960-1975 .....................................................29
2.3.1. Thời gian và điều kiện lao động ...................................................................29
2.3.2. Tình trạng thất nghiệp ...................................................................................30
2.3.3. Lương cơng nhân ..........................................................................................31
2.4. Diễn biến phong trào đấu tranh của công nhân Đà Nẵng 1965-1975 ..........32

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2..............................................................................................48
CHƯƠNG 3: TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA PHONG
TRÀO CÔNG NHÂN Ở ĐÀ NẴNG 1950-1975 ........................................................50
3.1. Tính chất của phong trào .................................................................................50
3.1.1. Tính chất dân tộc ..........................................................................................50
3.1.2. Tính chất dân chủ và dân sinh ......................................................................52
3.2. Đặc điểm của phong trào ..................................................................................54
3.2.1. Quy mô rộng lớn, sự liên tục và quyết liệt của phong trào ..........................54
3.2.2. Hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt .........................55
3.2.3. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa công nhân ở Đà Nẵng với công nhân các
ngành ở các tỉnh khác .............................................................................................57
3.3. Ý nghĩa của phong trào ....................................................................................59
3.4. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ hạn chế của phong trào ....................59
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.............................................................................................60
KẾT LUẬN ..................................................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................62
PHỤ LỤC.....................................................................................................................65


DANH MỤC NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT

CQNĐD

Chính quyền Ngơ Đình Diệm

CQSG

Chính quyền Sài Gịn

ĐTMN


Đơ thị miền Nam

VNCH

Việt Nam Cộng hịa


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phong trào công nhân trên cả
nước nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng là bộ phận của phong trào đấu tranh chống đế
quốc Mỹ xâm lược và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Phong trào công nhân ở Đà Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975 diễn ra liên tục, sôi
nổi và quyết liệt, thu hút hầu hết công nhân các ngành tham gia như công nhân hỏa xa,
công nhân thủy điện, công nhân bến tàu, công nhân ngành dệt, công nhân taxi, công
nhân xăng dầu, công nhân Savon, công nhân vô tuyến viễn thơng,...
Mặc dầu, bị Mỹ và chính quyền Sài Gịn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để kìm
kẹp, khủng bố và đàn áp quyết liệt nhưng phong trào công nhân ở Đà Nẵng vẫn luôn
được giữ vững và tiếp tục phát triển theo hướng đi lên của cách mạng miền Nam.
Phong trào công nhân ở Đà Nẵng là một trong những nét đặc sắc của tiến trình lịch sử
đấu tranh giữ nước của dân tộc ta, ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện
đại. Phong trào đã chứng minh tinh thần yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam.
Phong trào còn biểu thị sự thống nhất hành động giữa giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác ở thành thị, trong đó cơng nhân ln là lực lượng
nịng cốt, dẫn đầu và có tác dụng cổ vũ đồng bào đô thị cũng như nông thôn trong
cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng
với phong trào của các tầng lớp nhân dân, phong trào công nhân ở Đà Nẵng đã giáng
những địn mạnh mẽ vào hậu cứ an tồn của Mỹ, và Chính quyền sài gịn. Sự tiến cơng

ở thành thị, nịng cốt là phong trào cơng nhân, có tác dụng từng bước phá lỏng thế kìm
kẹp của địch ở đơ thị, cơ lập địch về chính trị, làm cho hậu phương của địch trở nên
rối loạn, đẩy Mỹ và Chính quyền sài gịn từng bước rơi vào tình trạng khủng khoảng
nghiêm trọng. Phong trào công nhân ở Đà Nẵng góp phần tạo nên một thế trận mới,
biến các đô thị bị địch tạm chiếm thành tiền phương của phong trào cách mạng miền
Nam, thuận lợi cho việc xây dựng lực lượng cách mạng ở nội đô, tạo điều kiện tiến
đến giải phóng các đơ thị, giải phóng hồn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, cho tới nay, ngồi phong trào cơng nhân miền Nam đã được nghiên
cứu khá đầy đủ, có tính hệ thống, phong trào cơng nhân ở Đà Nẵng vẫn cịn là một
mảng trống.Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu phong trào công nhân ở Đà Nẵng
1


(1955-1975), trước hết là giai đoạn từ năm 1955 đến thời điểm cuộc “Chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ bị phá sản ở miền Nam (6-1965) sau đến khi giải phóng hồn tồn miền
Nam (4-1975) là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Với
lý do đó, tơi chọn đề tài: “Phong trào cơng nhân Đà Nẵng trong kháng chiến chống
Mỹ từ năm 1955 đến năm 1975” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của khóa luận là phong trào công nhân ở Đà Nẵng trong kháng chiến
chống Mỹ từ năm 1955 đến năm 1975, trong đó tập trung nghiên cứu mục tiêu, diễn
biến, hình thức, biện pháp, kết quả các cuộc đấu tranh của công nhân ở Đà Nẵng cũng
như làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của phong trào công nhân ở Đà Nẵng từ năm
1955 đến năm 1975. Để làm rõ những nội dung này, khóa luận chú ý đến việc trình
bày, phân tích cơ cấu, đội ngũ, đời sống công nhân ở Đà Nẵng dưới chế độ Mỹ và
Chính quyền Sài Gịn.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về khơng gian, khóa luận nghiên cứu phong trào công nhân ở Đà Nẵng (thuộc
địa bàn thành phố Đà Nẵng ngày nay).

Về thời gian, giới hạn khóa luận từ năm 1955 đến năm 1975.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là tái hiện bức tranh lịch sử về phong trào công nhân
ở Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1955 đến năm 1975 một cách có hệ
thống. Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần cung cấp những luận cứ cho các
nhà chính trị - xã hội trong việc hoạch định chính sách đối với cơng nhân hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ những chính sách của Mỹ và CQSG, đời sống cơng nhân ở Đà
Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975, từ đó lý giải nguồn gốc của phong trào.
Hai là, trình bày và phân tích những chủ trương của Đảng các cấp đối với cơng
nhân ở Đà Nẵng. Q trình đấu tranh, mục tiêu, hình thức và biện pháp của phong trào
công nhân ở Đà Nẵng qua các giai đoạn: 1955-1960, 1960-1975.
2


Ba là, phân tích, làm rõ một số tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của phong
trào công nhân ở Đà Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tài liệu
Đề tài chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các nguồn tài liệu sau đây:
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tác phẩm của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam viết về cách mạng giải phóng dân tộc, về
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, về công nhân và phong trào công nhân.
Những tài liệu này cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận để thực hiện luận án.
- Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Viện
Sử học, Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử quân sự và các chuyên khảo của tập thể các
nhà nghiên cứu hoặc riêng từng nhà nghiên cứu.
- Các tài liệu lưu trữ liên quan tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
phong trào công nhân miền Nam hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ.

- Khóa luận cũng chú ý tham khảo các cơng trình luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc
sĩ và những bài viết trên các tạp chí có nội dung liên quan đến đề tài.
- Bên cạnh đó, khóa luận cịn sử dụng một số tư liệu thu thập được từ việc khảo
sát thực địa và phỏng vấn nhân chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, khóa luận sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp logic là chủ yếu. Bên cạnh đó, khóa luận cịn sử dụng các phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích trên cơ sở khảo cứu các nguồn tài liệu văn bản.
Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp khảo sát thực địa và phỏng vấn nhân chứng.
5. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN
Một là, khóa luận là một cơng trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về phong
trào cơng nhân ở Đà Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975, góp phần bổ sung tư liệu cùng
một số luận điểm nhằm làm rõ hơn về lịch sử phong trào cơng nhân nói riêng và lịch
sử Việt Nam cùng khung thời gian.
Hai là, khóa luận làm rõ chính sách của Mỹ và CQSG đối với cơng nhân ở Đà
Nẵng, để từ đó giải thích cho sự nảy sinh phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
3


ở Đà Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975. Hiểu được tính dân tộc và đặc điểm phong
trào cơng nhân ở các ĐTMN - một phong trào diễn ra trong điều kiện chiến tranh giải
phóng dân tộc, thơng qua đó thấy được tính đa dạng, phong phú về hình thức và biện
pháp đấu tranh của phong trào.
Ba là, khóa luận chỉ rõ những mục tiêu đấu tranh của công nhân ở Đà Nẵng và
kết quả đạt được của phong trào trên các lĩnh vực dân sinh, dân chủ,... Hiểu hơn về sự
đồn kết đấu tranh của phong trào cơng nhân ở từng ngành, công nhân các ngành,
công nhân ở Đà Nẵng với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động trên
tồn miền.
Bốn là, khóa luận nêu bật tính chất, đặc điểm cùng những đóng góp của phong
trào công nhân ở Đà Nẵng trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,

chỉ rõ phong trào công nhân ở Đà Nẵng là một bộ phận của phong trào giải phóng dân
tộc dưới sự lãnh đạo Đảng.
6. BỐ CỤC CỦA KHĨA LUẬN
Chương 1: Phong trào cơng nhân ở Đà Nẵng thời kì 1955-1960
Chương 2: Phong trào cơng nhân ở Đà Nẵng thời kì 1960-1975
Chương 3: Tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của phong trào công nhân ở Đà
Nẵng từ năm 1955 đến năm 1975

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở ĐÀ NẴNG THỜI KỲ 1955-1960
1.1. Khái quát về tình hình miền Nam 1955-1960
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã kết thúc thắng lợi, hịa bình
được lập lại song mục tiêu thống nhất, độc lập của nhân dân ta chưa được thực hiện
trọn vẹn. Theo qui định của Hiệp định Giơnevơ ngày 21 tháng 7 năm 1954, đất nước ta
phải tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, miền Bắc được hồn
tồn giải phóng miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát, chờ 2 năm sau sẽ tổ
chức hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Tuy vậy, ngay khi Hội nghị Giơnevơ đang họp, ngày 7 tháng 7 năm 1954, Mỹ đã
đưa Ngơ Đình Diệm lên làm thủ tướng thay Bửu Lộc. Ngày 8 tháng 8 năm 1954, Hội
đồng An ninh quốc gia Mỹ do Tổng thống Atxenhao chủ trì chính thức quyết định chủ
trương thay chân Pháp, nhảy vào miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Thơng qua hình thức viện trợ cho chính
quyền Sài Gịn, Mỹ nắm mạch máu của nền kinh tế. Đẩy nên công thương nghiệp
miền Nam đi vào quỹ đạo của nền công thương nghiệp thuộc địa do Mỹ chi phối. Song
để phục vụ chiến tranh của Mỹ, một số ngành công nghiệp thương mại và dịch vụ
cũng phát triển. Đội ngũ công nhân lao động đông hơn và phát triển nhanh hơn trước
[1; tr.68].

Trước nguy cơ thất bại của Pháp, Mỹ ngày càng can thiệp sâu hơn vào cuộc
chiến tranh Đông Dương. Ngày 7-5-1954, Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, Mỹ tăng
cường thế lực thay chân Pháp ở Đông Dương. Nhân vật Mỹ chọn làm Thủ tướng
“Quốc gia Việt Nam” là Ngơ Đình Diệm.
Thực hiện chủ trương của Mỹ, sau khi nắm lấy chính quyền ở miền Nam (7-71954), một mặt, CQNĐD từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, từ chối việc tái lập quan
hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc; tổ chức tuyển cử riêng rẽ, bầu cử Quốc hội
Lập hiến (4-3-1956), ban hành Hiến pháp (26-10-1956), lập đảng Cần Lao nhân vị,
phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới,… Mặt khác,
CQNĐD ra sức khủng bố những người tán thành hịa bình, những người tham gia
kháng chiến và những người đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève. Dưới chiêu bài
5


“tố Cộng”, CQNĐD đã kiện toàn bộ máy đàn áp. Tháng 3-1955, Tổng ủy “Công dân
vụ” được thành lập, hoạt động của tổ chức này là chuyên theo dõi, phát hiện và đàn áp
các tổ chức chính trị đối lập, đặc biệt là đối với những người thuộc lực lượng kháng
chiến. Các luật lệ phát - xít được ban hành, trong đó có Dụ số 6 (11-1-1956) về việc
lập lại các trại tập trung để giam giữ những người gọi là “nguy hiểm cho quốc phịng
và an ninh”. Chính sách khủng bố điên cuồng của Mỹ và CQNĐD đã gây cho cách
mạng miền Nam nhiều tổn thất nghiêm trọng. Tính đến cuối năm 1958, trên toàn miền
Nam, Mỹ và CQNĐD đã giết hại khoảng 68.800 cán bộ, đảng viên, bắt giam 466.000
người và tra tấn thành thương tật 680.000 người.
Song song với chiến dịch “tố Cộng” và luật lệ hà khắc, ngày 6-5-1959, Ngơ Đình
Diệm ban hành Luật 10/59. Tới ngày 3-7-1959, Ngơ Đình Diệm tun bố “đặt cộng
sản ra ngồi vịng pháp luật” và thành lập các tịa án qn sự đặc biệt ở Sài Gịn, Bn
Ma Thuột, Huế. Chỉ trong một thời gian ngắn cuối năm 1959, tòa án quân sự đặc biệt
Sài Gòn đã lưu động trong 9 tỉnh Nam Bộ và tuyên bố 20 án tử hình, 27 án khổ sai
chung thân. Cùng với những chính sách trên là các chương trình “Khu dinh điền”,
“Khu trù mật”. Tất cả những chính sách này về thực chất là chống lại khát vọng hịa
bình, độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân miền Nam. Đó là những nguyên nhân

sâu xa dẫn đến phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam.
Tháng 8-1954, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, các đại
biểu trí thức và lao động thành phố cho ra đời tổ chức “Phong trào Hịa bình Sài Gịn Chợ Lớn”. Tơn chỉ mục đích của phong trào là đấu tranh cho hịa bình ở Đơng Dương
được củng cố, quyền tự do dân chủ được bảo đảm, nước Việt Nam được thống nhất
bằng tuyển cử tự do trong cả nước. Từ Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào lan rộng ra một
số đô thị như Huế, Đà Nẵng. Phong trào Hịa bình tổ chức nhiều cuộc mít tinh, hội họp
đưa yêu cầu đòi CQNĐD thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Genève. Trong lúc Mỹ và
chính quyền Ngơ Đình Diệm tập trung tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định Genève, phá
hoại đường lối thống nhất bằng phương pháp tuyển cử thì Phong trào Hịa Bình là
tiếng nói chính nghĩa, cơng khai bênh vực Hiệp định Genève, bênh vực đường lối
thống nhất đất nước thông qua hiệp thương tổng tuyển cử. Bằng những hoạt động văn
hóa xã hội, Phong trào Hịa bình đã tập hợp đơng đảo các tầng lớp nhân dân hướng đến
cuộc đấu tranh chống chiến tranh, đòi hòa bình, chống chia cắt đất nước.
6


Tiếp theo, trong những năm 1956-1958, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân diễn
ra trên khắp các thành phố, thị xã miền Nam, nhất là vào dịp kỷ niệm ngày Quốc tế
Lao động 1-5 hằng năm. Nổi bật, ngày 1-5-1958, gần 50 vạn cơng nhân Sài Gịn
xuống đường biểu tình với những khẩu hiệu đấu tranh phù hợp với quyền lợi của mọi
tầng lớp nhân dân, như đòi tăng lương, giải quyết nạn thất nghiệp, hạn chế nhập Cảng
những hàng hóa mà trong nước sản xuất được, triệt để giảm tô đúng mức, thực hiện
đầy đủ khẩu hiệu “người cày có ruộng, thống nhất đất nước”.
Cuối năm 1959 đầu năm 1960, phong trào “Đồng khởi” diễn ra. Từ Bến Tre,
phong trào “Đồng khởi” lan ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi miền Trung
Trung Bộ. “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam,
chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đưa đến sự ra đời của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20-12-1960. Mặt trận chủ trương đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống Mỹ và CQNĐD, thành lập chính quyền liên minh
dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hịa bình, thi hành chính sách trung

lập, tiến tới hịa bình, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” ảnh
hưởng lớn trong đồng bào đô thị và làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của
chủ nghĩa thực dân mới. Mâu thuẫn nội bộ CQNĐD ngày càng gia tăng. Ngày 11-111960, cuộc đảo chính lật đổ CQNĐD do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ đồn
dù cầm đầu tuy khơng thành nhưng đã “đánh một đòn mạnh mẽ vào quyền uy của Mỹ Diệm”.
1.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm đối với công nhân ở Đà
Nẵng 1955-1960
1.2.1. Về tư tưởng - chính trị
Đầu năm 1955, chính quyền Ngơ Đình Diệm công khai phát động chiến dịch “tố
cộng”, “diệt cộng”, khủng bố nhân dân, trả thù những người tham gia kháng chiến
thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của công nhân lao động.
Về tổ chức nghiệp đoàn, Diệm - Nhu đề ra “nghiệp đoàn đa nguyên”, bề ngoài
các nghiệp đoàn này (như Tổng Cơng đồn lao động, Tổng liên đồn lao động có vẻ tự
do dân chủ nhưng thực chất nhằm “chống cộng” và chia rẽ lực lượng công nhân. Nằm
trong quỹ đạo của quốc sách “chống cộng”, “tố cộng”, chúng mở những chiến dịch

7


Trương Tấn Bửu, Thoại Ngọc Hàu... chĩa mũi nhọn đánh phá phong trào cơng nhân,
giải tán các nghiệp đồn bênh vực quyền lợi công nhân [2; tr. 72].
Đối với nghiệp đồn cơng nhân khn vác cảng Đà Nẵng được thành lập từ thời
kháng Pháp, chủ trương loại trừ những người lãnh đạo có tư tưởng tiến bộ và đưa tên
Tư Nơ cùng những bọn theo đóm ăn tàn như Dương Vị, Ngơ Văn Em vào nắm các
nghiệp đồn để chúng dễ bề sai khiến. Núp dưới chiêu bài dân chủ cùng với hành động
khủng bố trắng nhằm khống chế đàn áp cơng nhân cảng, chúng cho thành lập Nghiệp
đồn cơng nhân khuân vác thương cảng Đà Nẵng “để cho công nhân sinh hoạt có tổ
chức và đấu tranh can thiệp với chủ giành quyền lợi cho công nhân, phản ánh nguyện
vọng của công nhân” [3; tr. 72]. Thực chất chúng nắm một số tên chóp bu để khống
chế cơng nhân tìm cách phá hoại phong trào từ bên trong. Nhưng lợi dụng tổ chức này
với trò dân chủ giả hiệu của chúng, công nhân ta đã tổ chức những cuộc đấu tranh

giành quyền lợi cho mình. Năm 1973, chúng chấp nhận cho sự ra đời của nghiệp đoàn
tự do Hoàng Đức Nhà gồm những kẻ thất nghiệp và phá phách hịng tranh chấp với
phong trào cơng nhân Cảng. Bọn này đã gây ra những xung đột gay gắt trong công
nhân để tìm cách phát hiện, loại trừ những cơng nhân tích cực ở cảng.
Sử dụng thủ đoạn trấn áp cơng khai hoặc xoa dịu như lập các nghiệp đoàn chưa
đủ, chúng tăng cường tổ chức lực lượng kiểm soát và công an mật vụ để trà trộn, theo
dõi, khám phá phong trào công nhân Cảng. Ngay từ khi mới tiếp quản chúng đã đưa
lực lượng cảnh sát tới Cảng. Năm 1954, có 25 tên cảnh sát để giữ gìn trật tự, “khám
phá những tổ chức ăn cắp hàng”, nhưng thực chất là theo dõi áp chế công nhân. Năm
1962 ở Cảng có 30 tên cảnh sát với 3 khẩu tiểu liên, chia làm 3 toán luân phiên nhau
canh gác. Năm 1965, chúng tăng cường thành 1 chi cảnh sát trực thuộc ty cảnh sát Gia
Long. Bề ngoài là tổ chức bảo vệ các hoạt động của tàu bè, nhưng bên trong cầm nắm
hồ sơ cá nhân, phát giấy ra vào Cảng, canh phịng những hoạt động mà chúng nghi
ngờ, tìm cách phân loại cơng nhân để ứng phó kịp thời. Khi tình hình trở nên căng
thẳng do sự phối hợp chặt chẽ của công nhân Cảng với các lực lượng bên ngoài, chúng
thành lập Cục cảnh sát quốc gia với một mạng lưới tình báo dày đặc giăng bẫy khắp
mọi nơi trên Cảng. Lúc cần chúng còn điều động biệt đoàn 163/GC với nhiều phương
tiện hiện đại như đèn pha, máy ra đa, máy truyền tin trợ giúp [4; tr. 73].

8


Diệm-Nhu tung ra một màn lưới tình báo, mật vụ len lỏi trong công nhân nhằm
ngăn chặn, đánh phá phong trào công nhân từ bên trong, làm gián đoạn sự liên lạc với
bên ngoài và với lãnh đạo cấp trên. Vì vậy, một số cơ sở của ta bị phát hiện và bị bắt
như các đồng chí Trần Bạn, Trần Dưỡng, Huỳnh Nhung...
Chúng còn cho lực lượng quân đội bên ngồi ngang nhiên vào Cảng bắt cơng
nhân đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng để giảm bớt lực lượng nam công nhân, lực
lượng mà chúng lo sợ nhất [5; tr.74].
Tuy vậy, các âm mưu, thủ đoạn của chính quyền Ngơ Đình Diệm khơng che giấu

được bản chất bán nước của chúng. Với bản chất cách mạng của mình. cơng nhân cảng
Đà Nẵng nói riêng và cơng nhân miền Nam nói chung vẫn giữ vững lập trường giai
cấp và cách mạng vững vàng bước vào cuộc đấu tranh quyết liệt với Mỹ-Diệm trên cơ
sở pháp lý Hiệp định Giơnevơ, chống trả thủ, bảo vệ quyền lợi và tài sản của nhân dân.
1.2.2. Về kinh tế
Ngoài viện trợ quân sự, Mỹ cịn viện trợ kinh tế cho chế độ Ngơ Đình Diệm. Vì
vậy, nền cơng nghiệp miền Nam Việt Nam trong giai đoạn này có bước phát triển mới
so với thời thực dân Pháp. Dưới thời Pháp, công nghiệp Nam Bộ chỉ có một số cơ sở
sản xuất thuốc lá, bia, nước ngọt, đường, cao su, cơ khí, một số nhà máy xay xát, dệt,
thủy tinh, chế biến thực phẩm,... chủ yếu là của người Hoa. Còn tư sản người Việt chỉ
có một số cơ sở sản xuất nhỏ làm gốm, sứ, nước chấm, bánh kẹo, xà phòng,... Từ năm
1955, CQNĐD mua lại một số cơ sở công nghiệp của Pháp, từ đó xây dựng một số nhà
máy mới có kỹ thuật tương đối hiện đại của Mỹ như Dệt Khánh Hội, Vinatexco1,
Vimytex2, Dacotex, giấy Cogido, bột giấy Cobogido, giấy viết Nagico, Cogimeko, ắc
quy Vabco, hóa chất Vicaco, xi măng Hà Tiên, điện lực.
Cùng với sự phát triển công nghiệp, đội ngũ cơng nhân ở các ĐTMN tăng lên
nhanh chóng, chủ yếu là ở các ngành công nghiệp nhẹ (dệt, thực phẩm) hoặc xây
dựng, vận tải được kích thích bởi những đơn đặt hàng của các cơ quan hậu cần Mỹ và
CQNĐD.

1

Là cơng ty sợi dệt lớn nhất miền Nam có vốn của tư bản Mỹ, thông qua Cơ quan “viện trợ” Mỹ và
“trung tâm khuyếch trương kỹ nghệ” của chính quyền tay sai ở Sài Gịn.
2
Là một cơng ty dệt tư bản ở miền Nam thành lập do sự cấu kết giữa tư bản Mỹ, Tưởng Giới Thạch
và gia đình Ngơ Đình Diệm.

9



Khách quan mà thừa nhận rằng, dưới chế độ Mỹ và CQNĐD, nền công nghiệp
bước đầu phát triển và được áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến. Do vậy, cường độ lao
động của công nhân tăng lên nhiều so với thời Pháp. Tuy cường độ lao động tăng
nhưng lương công nhân không được tăng tương ứng, đời sống của công nhân và người
lao động vẫn không được cải thiện, trái lại càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn.
1.2.3. Về văn hóa-xã hội
Nhằm cuốn hút nhân dân miền Nam, nhân dân các đơ thị, trong đó có cơng nhân,
về mặt văn hóa, dưới chế độ Mỹ và CQSG, phim nước ngoài nhập vào miền Nam ngày
càng nhiều, đặc biệt là phim Mỹ. Riêng năm 1958, trong số 500 bộ phim chiếu ở miền
Nam thì đã có tới 211 bộ phim là của Mỹ, 192 bộ phim của Đài Loan. Các phim nhập
từ nước ngoài, đặc biệt là phim Mỹ mang tính gợi dục, những quảng cáo giật gân
khơng phù hợp với văn hóa Việt Nam, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của công
nhân đặc biệt là giới công nhân trẻ, làm nảy sinh ở họ tâm lý hưởng thụ và vọng ngoại,
có phần xao lãng ý thức đấu tranh chống áp bức bất công.
Mục tiêu của chính sách văn hóa của Mỹ và CQNĐD là tạo ra mặt “tích cực” để
lơi kéo cơng nhân vào guồng quay của một nền văn hóa mới-nền văn hóa Mỹ, từ đó
biến cơng nhân ở các ĐTMN thành cơng cụ thực hiện chính sách thực dân mới của Mỹ
ở Việt Nam.
Trên lĩnh vực xã hội, CQNĐD cho rằng, chính quyền rất quan tâm các chính sách
xã hội nhằm nâng cao đời sống cho công nhân như thực hiện quỹ bù trừ, chính sách
đối với nữ cơng nhân khi sinh nở, phụ cấp thôi việc cho công nhân, chế độ lương hưu
đối với cơng nhân hết tuổi lao động, tìm việc làm cho công nhân thất nghiệp,... Tuy
nhiên, sự quan tâm đó nhiều khi chỉ là trên giấy tờ, cịn trong thực tế thì khác xa.
Những chính sách của CQNĐD cịn được thể hiện rõ trong đời sống của cơng
nhân Đà Nẵng ở phần dưới đây.

10



1.3. Đời sống của công nhân Đà Nẵng 1955-1960
1.3.1. Thời gian và điều kiện lao động
Thời gian lao động, Luật lao động của CQNĐD quy định công nhân ngày làm 8
giờ, tuần làm 48 giờ, mỗi năm được nghỉ 6 ngày có lương hồn tồn và 12 ngày hưởng
nửa lương trung bình. Nhưng trên thực tế, những quy định này khơng được thực hiện.
Để bóc lột cơng nhân lao động, giới chủ thường kéo dài thời gian làm việc đến mức
phải báo động. Điều này được khẳng định trong bản kiến nghị ngày 27-7-1956 của
công nhân hãng Société Générale de Surveillance: “Bọn chủ nhơn ông (các hãng
chuyên vận tải vùng Khánh Hội, Sài Gịn) tham cơng cướp việc kẻ làm công. Làm
nhiều giờ mà không trả tiền giờ trễ. Theo luật lao động, làm việc hằng ngày: ban mai,
từ 7 giờ 30 đến 11 giờ 30, chiều từ 14 giờ 30 đến 17 giờ 30 nhưng bọn chủ nhơn ông
hàng vận tải thì: Ban mai: 7 giờ đến 12 giờ hoặc 13 giờ, chiều 14 giờ đến 18 giờ hoặc
18 giờ 30”. Chính Báo Cách mạng quốc gia (Sài Gịn), ngày 25-5-1959 phải thú nhận:
“Công nhân bị bắt làm việc trung bình 11 giờ một ngày, Chủ Nhật khơng được nghỉ và
quanh năm cũng khơng có ngày nghỉ lễ, làm việc với thời gian hết sức khắc nghiệt”.
Tại cảng Đà Nẵng, tuy chính quyền Diệm qui định ngày làm việc 8 giờ nhưng
trên thực tế bọn chủ kéo dài thời gian làm việc của công nhân, công nhân cảng Đà
Nẵng phải làm việc tới 13 - 14 giờ một ngày không được nghỉ chủ nhật và ngày lễ.
Không chỉ bị bóc lột bởi thời gian lao động mà cơng nhân trong q trình lao động,
cơng nhân cịn bị bọn đốc cơng đối xử tàn tệ. Họ phải cịng lưng vác những kiện hàng
nặng hàng trăm ký giữa trời nắng chang chang, phải trầm thân giữa những hầm tối,
nóng bức bụi bặm. Có những sản phụ mới sinh chưa đầy tháng, mặt mũi còn xanh xao
đã phải lê những bước chân run run đi cõng giữa tiếng quát của bọn đốc cơng. Việc
phịng hộ lao động rất kém nên tai nạn lao động xảy ra thường xun, đe dọa tính
mạng cơng nhân lao động. Nhiều trường hợp công nhân cảng Đà Nẵng bị rơi từ trên
cao xuống chết ngay tại chỗ hoặc bị thương, tật nguyền suốt đời. Năm 1954 có 12 vụ.
Năm 1960 có 22 vụ đến năm 1964 số vụ tai nạn đã tăng lên 38 vụ. Khi bị tai nạn, chủ
khơng chịu trả viện phí vì vậy việc chăm sóc khơng chu đáo, bị coi khinh, “sống chết
mặc bay". Còn điều kiện làm việc hết sức khốn khổ, trong thời gian chờ tàu tới, họ
khơng có nơi nghỉ ngơi, phải nằm ngồi dọc bờ kè, bờ sông dưới mưa nắng [6; tr.71].


11


1.3.2. Tình trạng thất nghiệp
Điều dễ nhận thấy ở các đơ thị miền Nam sau ngày đình chiến là nạn thất nghiệp
diễn ra khá phổ biến trong các xí nghiệp, nhà máy. Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng
thất nghiệp của cơng nhân miền Nam, chính Tờ trình của Bộ Xã hội và Y tế (Sài Gòn)
ngày 16-7-1955 gửi Tổng thống VNCH đã chỉ rõ:
“- Thứ nhất là do việc giải ngũ một phần quân đội Quốc gia Việt Nam và các lực
lượng bổ túc như Bảo Chính Đồn, Địa phương quân, trừ những người công chức bị
động viên nay trở lại sở cũ của họ, đại đa số anh em binh sĩ giải ngũ đều thiếu việc
làm.
- Thứ hai, do công nhân miền Bắc di cư vào Nam. Các người này không thể đi về
các nơi định cư để làm ruộng hay khai thác lâm sản. Họ đành ở lại Sài Gịn - Chợ Lớn
để kiếm cơng việc làm.
- Thứ ba, việc hồi hương một phần lớn quân đội viễn chinh Pháp cũng đã ảnh
hưởng nhiều đến thị trường lao công ở đây. Không kể đến những ảnh hưởng gián tiếp
gây nên bởi sự ra đi của một số người tiêu thụ, việc binh gia Pháp sa thải công nhân
người Việt Nam trong các cơ sở của họ cũng đã gây ra nhiều sự xáo trộn ở đây và
tăng cường đạo binh thất nghiệp quá nhiều.
- Thứ tư, vì sự biến chuyển của tình hình chính trị, một số quan trọng trong các
xí nghiệp kỹ nghệ hay thương mại của người Pháp ở đây đã và sẽ đóng cửa. Ngoài ra
chắc chắn rằng các xưởng xưa nay vẫn làm việc cho quân đội Pháp sẽ thải dần một số
lớn của họ.
Thêm vào các nguyên nhân đặc biệt và rõ rệt ấy còn phải kể những nguyên nhân
thường trực của nạn thất nghiệp như: thiếu một chính sách tận dụng nhân công, thiếu
tổ chức hướng nghiệp, thiếu sự kiểm tra chính xác và tường tận về cung cầu của thị
trường lao công, những sự biến đổi của kinh tế, kỹ thuật, thời thượng” [7, tr.41].
Một sự thật mà CQNĐD không cơng bố nhưng là ngun nhân trực tiếp dẫn đến

tình trạng thất nghiệp đó là chính sách “viện trợ Mỹ”. Với chính sách này nhiều ngành
sản xuất hàng hóa ở miền Nam bị đình đốn dẫn đến cơng nhân thất nghiệp ngày càng
tăng, chiếm một tỉ lệ hiếm có. Riêng năm 1958, vì vải “viện trợ” tràn vào quá nhiều, ứ
đọng đến 5,6 triệu thước trong kho, nên ngành dệt miền Nam lâm vào tình trạng bế
12


tắc. Vì thế, hơn 80% cơng nhân tồn ngành dệt đã bị sa thải. Còn các ngành sản xuất
khác như ngành gốm, gạch, ngói, xi măng, do chính sách chèn ép, độc quyền kinh tế
của CQNĐD, nên cũng bị phá sản. Trong các ngành này, có từ 50% đến 70% công
nhân bị mất việc làm.
Trong phiên họp ngày 28-3-1955 của Ủy ban Liên bộ (Sài Gòn), đại diện Bộ Lao
động đã thống kê tổng số công nhân thất nghiệp được báo cáo từ các Tổng Liên đồn
Sài Gịn: “Tổng Liên đồn Lao động: 17.362; Tổng Liên đồn Lao cơng: 20.000; Tổng
Liên đồn lực lượng thợ thuyền: 10.000”.
Riêng số cơng nhân mà nhà binh Pháp sa thải có thể lên tới 23.000. Như vậy con
số thất nghiệp ước chừng khoảng 70.000 người và dự kiến có thể tăng lên nữa. Riêng
Sài Gịn - Chợ Lớn, tính đến tháng 8-1955 có đến 56.000 người thất nghiệp. Ở Huế,
trong phiên họp ngày 10-11-1955, Khu trưởng hỏa xa Trung Việt đã tuyên bố sa thải
một phần ba nhân viên. Về nạn thất nghiệp của công nhân ở các đô thị miền Nam, Chỉ
thị của Xứ ủy Nam Bộ ngày 25-8-1955 chỉ rõ: “Từ chiến tranh chuyển sang hịa bình,
cơng nhân và viên chức làm trong các binh công xưởng hoặc các cơ sở phục vụ cho
chiến tranh bị sa thải nhiều”. Sang năm 1956, tình trạng thất nghiệp vẫn cịn tiếp diễn.
Tại Sài Gịn đã có 25.000 cơng nhân các xí nghiệp nhà binh Pháp và hơn 80% công
nhân ngành dệt bị sa thải, có tới 40%-70% cơng nhân các ngành khác mất việc làm.
Trong kiến nghị ngày 1-7-1956 gởi CQNĐD, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nêu
rõ tình trạng bi đát này: “Nạn thất nghiệp ngày càng đông, chủ nhân lợi dụng cơ hội
khan hiếm nguyên liệu cần thiết và việc ít người đông, sa thải công nhân, con số công
nhân thất nghiệp do đó tăng thêm”.
Tại Đà Nẵng, đầu năm 1956, Nha công tác quân sự Đà Nẵng cùng một lúc sa thải

500 cơng nhân mà khơng có khoản tiền bồi thường nào. Ngồi ra, ở nhiều nơi, việc sa
thải cơng nhân với bất cứ lý do gì cũng thường xuyên xảy ra, đe dọa trực tiếp đến đời
sống của công nhân.
Sau khi bị mất việc làm, hàng vạn công nhân phải tìm kiếm cơng việc ở các xí
nghiệp khác. Lợi dụng tình trạng đó, các chủ xí nghiệp đã tìm cách sa thải số công
nhân đang làm việc lấy người thất nghiệp vào thay thế để trả lương hạ hơn, hay tăng
cường độ lao động. Do đó, các cơng ty hỗn hợp của Mỹ hay CQNĐD và chủ các xí
13


nghiệp đã thu được món lợi nhuận kếch xù. Tóm lại, nạn thất nghiệp phổ biến nghiêm
trọng và kéo dài đã gây cho cuộc sống của công nhân ở các ĐTMN nói chung và Đà
Nẵng nói riêng ngày càng túng quẫn.
1.3.3. Lương công nhân
Dưới chế độ Mỹ và CQNĐD, khi nói đến vấn đề tiền lương thì cần phải phân biệt
giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Mức độ của tiền lương danh nghĩa
hồn tồn khơng thể phản ánh được mức thu nhập về tiền lương thực tế của công nhân
được nhận. Thu nhập từ tiền lương không theo kịp giá cả thực phẩm và hàng tiêu dùng
hàng ngày. Chính sách khai thác và bóc lột của Mỹ - Ngụy đã khiến đời sống công
nhân cảng Đà Nẵng bị bần cùng hóa. Mặc dù năm 1956, chính quyền Ngơ Đình Diệm
qui định mức lương tối thiểu của công nhân là 41 đồng/ngày cho lao động nam, 36
đồng/ngày cho lao động nữ và 18 đồng/ngày cho lao động dưới 18 tuổi, song trên thực
tế bọn chủ không khi nào trả đúng theo qui định. Họ hưởng theo phương thức có hàng
có tiền. Lúc có tàu đến thì có chút thu nhập, lúc vắng tàu hay mùa mưa bão thì nằm
nhà nhịn đói. Khơng những thế, họ cịn bị bọn cai ký bớt xén, ăn quịt [8; tr.70].
Nguyên nhân quan trọng thứ hai làm cho tiền lương thực tế của công nhân Đà
Nẵng giảm sút một cách nghiêm trọng là người cơng nhân cịn phải đóng nhiều thứ
thuế và phạt vạ rất nặng nề. Thuế phản ánh một cách khá đúng bản chất của một chế
độ Nhà nước. Bên cạnh thuế trực thu (thuế đất, thuế nóc nhà, thuế phụ thu Đô Thành,
thuế giá thu nhà hàng tháng, thuế cống, thuế rác) là thuế gián thu (đánh vào các thứ

hàng hóa bán ra hoặc gộp thêm vào các thứ như vé xe, tàu điện). Hai loại thuế này đã
giảm bớt rất nhiều tiền lương và thu nhập thực tế của cơng nhân. Cùng với đồng lương
chết đói, vật giá ngày càng leo thang, nạn thất nghiệp, sa thải diễn ra thường xuyên
cộng với thuế má các loại như đã đề cập ở trên là nguyên nhân trực tiếp khiến đời sống
cơng nhân ở Đà Nẵng rơi vào tình trạng túng quẫn.
Một dẫn chứng khác, để thấy rõ tiền lương thực tế của công nhân Đà Nẵng bị
giảm sút đến mức độ nào, trước hết, cần nhìn qua tình hình giá sinh hoạt ở miền Nam.
Từ tháng 7-1954, giá sinh hoạt trên thị trường miền Nam không ngừng tăng vọt. Năm
1955, giá sinh hoạt ở thành thị tăng từ 150% đến 200% so với trước khi đình chiến [9;
tr.43]. Tại Đà Nẵng, giá gạo từ 3,8 đồng/kg năm 1955 lên 10 đồng/kg năm 1956, tức là
tăng gần 3 lần.
14


Năm 1958, các thứ hàng thiết yếu khơng có xu hướng giảm mà còn tăng cao hơn.
Đặc biệt là giá gạo tăng từ 380 đồng/tạ năm 1956 lên 540 đồng/tạ năm 1958. Ở Đà
Nẵng, giá gạo cũng tăng 54 đồng/kg. Đã thế, gạo lại khan hiếm, mỗi ngày trung bình
cần tiêu thụ vài nghìn bao gạo nhưng nguồn cung chỉ được vài trăm bao. Do đó, nạn
tích trữ, đầu cơ đã diễn ra làm cho giá gạo lại tiếp tục tăng lên. Sang năm 1960, giá cả
vẫn tiếp tục tăng mạnh.
Như vậy, việc thực hiện chính sách trên các mặt tư tưởng - chính trị, kinh tế, văn
hóa - xã hội của Mỹ và CQNĐD cùng với chính sách can thiệp Mỹ ở miền Nam Việt
Nam làm cho đời sống công nhân ở các ĐTMN cũng như Đà Nẵng gặp nhiều khó
khăn, túng quẫn khi cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần đều bị giới hạn, độc lập
dân tộc cũng như quyền lợi giai cấp đã bị xâm phạm. Vì vậy, sự bùng nổ các cuộc đấu
tranh của cơng nhân ở Đà Nẵng vì mục tiêu dân sinh, dân chủ và chống lại các chính
sách của Mỹ và CQNĐD như là một tất yếu.
1.4. Diễn biến phong trào đấu tranh của công nhân Đà Nẵng 1955-1960
1.4.1. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu chính trị
Ngày 1 tháng 8 năm 1954, mở đầu phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố

Đà Nẵng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là cuộc đấu tranh rầm rộ của ngư dân Sông
Đà với sự phối hợp của công nhân khuân vác cảng Đà Nẵng, nhà đèn, hỏa xa và công
nhân lao động thuộc các ngành nghề khác, cùng chị em tiểu thương thành phố và các
vùng phụ cận. Đây là cuộc biểu dương lực lượng của công nhân và nhân dân Đà Nẵng
mừng hịa bình được lập lại, chiến tranh chấm dứt và đòi thả số thanh niên bị địch bắt
lính. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng ngư dân là Ban cán sự Đảng bộ Sông Đà. Khi cuộc
đấu tranh nổ ra, các đồng chí Đồn Tiềm và Trương Trọng Cảnh, Thành ủy viên tham
gia chỉ đạo. Các đồng chí Huỳnh Thị Lai, Huỳnh Tương, Nguyễn Y làm nòng cốt cho
lực lượng công nhân cảng Đà Nẵng và nhân dân Khu Nam tham gia cuộc đấu tranh
này. Từ tờ mờ sáng hôm ấy, hàng ngàn công nhân lao động, phần lớn là phụ nữ tập
trung trước đồn Võ Tánh là nơi có khá đơng thanh niên bị bắt vào lính, đòi xin gặp
người nhà. Một số chị em tràn vào đồn. Hai chị Phùng Thị Tương và Đặng Thị Trợ
tiến đến cột cờ ở giữa sân đồn, hạ cờ tam tài xuống và kéo cờ đỏ sao vàng lên. Bọn
địch từ trong đồn bắn ra. Chị Phùng Thị Tương hy sinh tại chỗ và chị Đặng Thị Trợ bị
15


thương nặng. Công nhân lao động và nhân dân châm lửa đốt phá các kho tàng, xe quân
sự và giải thốt số thanh niên bị địch bắt lính đang bị giam giữ tại đây. Thi hài chị
Phùng Thị Tương được bà con đưa về Cẩm Lệ mai táng. Chị Đặng Thị Trợ được đưa
vào bệnh viện Việt Nam cứu chữa. Suốt 2 ngày 1 và 2-8-1954 công nhân Cảng cùng
nhân dân Đà Nẵng tổ chức đình cơng, bãi thị, ủng hộ các cuộc biểu tình. Ngày 3 tháng
8 năm 1954, chị Đặng Thị Trợ hy sinh vì vết thương quá nặng. Sáng 4 tháng 8 năm
1954, đám tang của chị được tổ chức trọng thể. Chị Đặng Thị Trợ được đưa về mai
táng tại Cồn Bồi, quê hương Sông Đà của chị [10; tr. 75, 76].
Cũng trong ngày (1-8-1954), tại Đà Nẵng, phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp
định Genève của công nhân hỏa xa diễn ra sôi nổi. Công nhân hỏa xa đã ký vào bản
kiến nghị hoan nghênh Hiệp định Genève đã đem lại hịa bình cho đất nước và yêu cầu
các bên phải nghiêm chỉnh thi hành. Chỉ trong một ngày, phong trào đã thu hút 1.000
chữ ký của công nhân hỏa xa và quần chúng nhân dân ký vào bản kiến nghị gởi lên

Tòa thị chính và Ủy hội quốc tế Đà Nẵng. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn trong
thành phố lúc bấy giờ [11; tr. 21].
Bước sang năm 1955, theo Hiệp định Giơnevơ, chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa nhiều lần ra tun bố và gởi cơng hàm kêu gọi chính quyền Sài Gòn ngồi
vào bàn hội đàm hiệp thương hai miền, tiến tới tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất
nước nhà. Ngơ Đình Diệm đã từ chối khơng chịu hiệp thương. Trong tình hình đó,
hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và nhà nước ta, công nhân cảng Đà Nẵng cùng công
nhân lao động Đà Nẵng tổ chức liên tiếp các cuộc đấu tranh đòi hiệp thương tổng
tuyển cử.
Ngày 1 tháng 5 năm 1955, nhân kỷ niệm ngày quốc tế lao động, công nhân cảng
Đà Nẵng cùng công nhân lao động ở tất cả 28 khu phố trong thành phố đều tổ chức mít
tinh, biểu tình, nêu cao các khẩu hiệu địi chính quyền Sài Gịn phải cải thiện đời sống,
chấm dứt những hành động khủng bố, trả thù, thi hành Hiệp định Giơnevơ, hiệp
thương thống nhất nước nhà.
Cùng năm 1955, phong trào đấu tranh của công nhân hỏa xa vẫn tiếp tục diễn ra.
Ngày 24-7-1955, công nhân hỏa xa Đà Nẵng tiếp tục tranh đấu. Đây là cuộc đấu tranh
lớn, có sự liên kết với cơng nhân hỏa xa Sài Gòn, Tháp Chàm, Nha Trang... tạo thành
16


làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của cơng nhân tồn ngành hỏa xa miền Nam. Cơng nhân
địi Nha Hỏa xa giải quyết nhiều yêu sách như giảm giờ làm việc trong tuần, được lĩnh
tiền phụ trội. Trong cuộc đấu tranh này, công nhân hỏa xa Đà Nẵng cũng như công
nhân hỏa xa các nơi khác đã dựa vào tổ chức nghiệp đồn để đấu tranh. Cùng ngày
(24-7-1955), Đại diện cơng nhân hỏa xa Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Tháp Chàm, Sài
Gòn... đã họp đại hội bất thường tỏ rõ quyết tâm đấu tranh đến cùng. Sự đồn kết nhất
trí của cơng nhân hỏa xa tồn miền Nam tạo thành áp lực mạnh mẽ khiến Nha Hỏa xa
phải giải quyết yêu sách của công nhân: “Được nghỉ chiều thứ bảy và anh em thuộc bộ
phận xa-vu, óc-lộ được lãnh thêm tiền phụ trội nếu số giờ làm việc vượt quá số giờ qui
định” [12; tr.92].

Cuộc đấu tranh của 300 công nhân khuân vác bến tàu Đà Nẵng và công nhân
hãng SAPTO ngày 13-11-1956. Vào ngày này, có 9 chiếc xà lan chở xi măng cập cảng
Đà Nẵng. Do trời mưa, công nhân không thể bốc hàng lên bến, 3 công nhân của hãng
phải ở lại trên xà lan để trông hàng. 22 giờ hơm đó, viên đốc cơng hãng SAPTO đi
kiểm tra và tuyên bố đuổi việc ngay lập tức 3 cơng nhân vì cho rằng họ khơng chịu
bốc hàng. Sáng hơm sau, 16 cơng nhân SAPTO đình cơng, cơng nhân khn vác bến
tàu Đà Nẵng đã đồng loạt đình cơng hưởng ứng, khơng chịu bốc vác hàng hóa. Mặc dù
bọn chủ dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để công nhân trở lại làm việc song họ vẫn quyết
tâm giữ vững yêu sách của mình. Trước tình hình ấy, chủ hãng SAPTO ở Đà Nẵng
buộc phải thỏa mãn toàn bộ yêu sách của công nhân, chấp nhận để 3 công nhân trở lại
làm việc [13; tr. 68, 69].
Bên cạnh cuộc đấu tranh của công nhân hãng SAPTO và công nhân bến tàu,
trong năm 1956 còn nhiều cuộc đấu tranh khác như cuộc đấu tranh của 44 cơng nhân
hãng Shell địi áp dụng luật bồi thường theo Dụ số 9; cuộc đấu tranh của công nhân
nhà đèn chống sa thải 6 công nhân, đòi nghỉ chiều thứ 7 hàng tuần và hưởng lương
những ngày nghỉ do bệnh tật, đau ốm; cuộc đấu tranh của công nhân nhà hàng Morin
Đà Nẵng làm đơn kiến nghị trả tiền thâm niên...
Ngày 21 tháng 8 năm 1955, hàng ngàn công nhân lao động ở cảng Đà Nẵng và
nhà máy đèn, hỏa xa, ngư dân sông Đà cùng bà con tiểu thương ở các chợ tổ chức đấu
tranh. Vào ngày này, áp phích và truyền đơn được dán và rải khắp nơi trên địa bàn
thành phố, tại các nhà máy, cơng sở, xí nghiệp, bến đị, chợ, trường học... nhiều khẩu
17


hiệu đấu tranh của công nhân lao động được kẽ trên tường, trên sà lan... với các nội
dung như đòi địch phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử,
thống nhất đất nước, đòi bãi bỏ lệnh giới nghiêm để công nhân tự do đi lại làm ăn...
[14; tr.77].
Tiếp theo, ngày 16-7-1958, diễn ra cuộc đấu tranh của công nhân nhà đèn Đà
Nẵng. Nguyên nhân là bọn chủ buộc công nhân phải làm việc từ 12 tiếng đồng hồ mà

không được hưởng phụ cấp theo luật định; khi đau ốm, công nhân cũng không được
nghỉ; nhằm trả lương thấp hơn, bọn chủ thường xuyên sa thải công nhân cũ, nhận cơng
nhân mới. Vì vậy, cơng nhân đã nhiều lần đấu tranh địi chúng khơng được sa thải
cơng nhân, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc nhưng không được chấp nhận.
Ngày 16 7-1958, hàng trăm công nhân nhà đèn bãi công đưa kiến nghị lên giới chủ,
đồng thời để gây áp lực, công nhân nhà đèn đã kêu gọi sự ủng hộ của cơng nhân trên
tồn miền Nam. Cơng nhân ở Huế, Khánh Hịa đều lên tiếng ủng hộ. Đặc biệt, cơng
nhân Sài Gịn - Chợ Lớn với 73 nghiệp đoàn tuyên bố sẵn sàng hỗ trợ cuộc đấu tranh
của công nhân nhà đèn Đà Nẵng. Cơng nhân ở nhiều địa phương cịn qun góp tiền
để hỗ trợ công nhân nhà đèn Đà Nẵng đấu tranh. Trước tinh thần đồn kết và sự ủng
hộ của cơng nhân miền Nam, giới chủ phải chịu nhượng bộ phần lớn yêu sách của
công nhân, phải trả cho công nhân 180.000 đồng tiền phụ cấp thâm niên và tăng 33%
tiền lương các giờ làm thêm. Cuộc đấu tranh đã kết thúc thắng lợi [15; tr. 69].
Ngoài những cuộc đấu tranh trên, cơng nhân Cảng cịn cùng với cơng nhân các
ngành và nhân dân thành phố tổ chức viết đơn, kiến nghị gửi chính quyền các cấp của
địch, đã tập hợp được 2000 bản kiến nghị gửi ủy hội quốc tế tại Đà Nẵng với nội dung
yêu cầu địch nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, tổ chức hiệp thương hai
miền và tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Phát huy thắng lợi các cuộc đấu tranh trên, trong năm 1955, công nhân Cảng đã
tham gia đấu tranh chống cuộc “trưng cầu dân ý” của Ngơ Đình Diệm tổ chức vào
ngày 23 tháng 10 năm 1955, nhằm truất phế Bảo Đại để đưa Diệm lên làm Tổng
thống. Bọn tay chân của Diệm âm mưu lợi dụng các nghiệp đồn của cơng nhân lao
động để tuyên truyền ủng hộ Diệm, song các nghiệp đồn cơ sở, trong đó có nghiệp
đồn cảng Đà Nẵng chống lại, viện cớ nghiệp đoàn là tổ chức nghề nghiệp khơng đảng
phái, chỉ vì quyền lợi của cơng nhân nên không chấp hành lệnh của Liên hiệp nghiệp
18


đoàn Đà Nẵng ủng hộ Diệm. Bọn Liên hiệp nghiệp đồn Đà Nẵng răn đe để khủng bố
tinh thần cơng nhân nhưng không thành công. Đây là thắng lợi của công nhân lao động

Đà Nẵng, đặc biệt là các cơ sở của ta nằm trong hệ thống nghiệp đoàn [16; tr.78].
Tuy nhiên, hình thức đấu tranh phổ biến trong cuộc chống “Trưng cầu dân ý” của
Ngơ Đình Diệm là cơng nhân không đi bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu không theo ý của
Diệm.
1.4.2. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân chủ, dân sinh
Song song với các cuộc đấu tranh chính trị, cơng nhân cảng Đà Nẵng cịn liên
tiếp đấu tranh kết hợp đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ với đòi hiệp thương thống
nhất đất nước. Vào tháng 10 tháng 1954 đang mùa mưa giá gạo đắt đỏ, công nhân lao
động gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình này, khu phố ủy Khu Nam, nơi có nhiều
cơng nhân Cảng sinh sống, đồng chí Trần Mỹ Lợi, bí thư chủ trương vận động công
nhân, lao động ở đây đấu tranh đòi địch bán gạo cho dân. Từ sáng sớm, 2000 cơng
nhân lao động tập trung trước quận đường Hịa Vang đề nghị Quận trưởng giải quyết.
Cuối cùng Hà Văn Công, quận trưởng Hòa Vang đành hứa sẽ cho các xã ngoại ô thành
phố bán lúa cho dân. Ta chỉ đạo xã nào về xã nấy buộc bọn chính quyền xã thực hiện
lời hứa.
Trên đà thắng lợi đó, từ năm 1956 đến 1958, công nhân cảng Đà Nẵng cùng công
nhân lao động thành phố liên tiếp tổ chức các cuộc đấu tranh với những khẩu hiệu thiết
thực như đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống sa thải, đánh đập với nhiều hình thức
như đưa u sách, bãi cơng, đình cơng, tổ chức đại hội nghiệp đoàn.
Một đặc điểm đáng lưu ý trong giai đoạn này là công nhân, viên chức và lao
động của thành phố đã lợi dụng tổ chức công đồn địch làm chỗ dựa trong q trình
đấu tranh của mình, tiêu biểu như cuộc đấu tranh của 300 cơng nhân khuân vác bến tàu
và công nhân hãng Sapto phản đối tên đốc công sa thải công nhân, cuộc đấu tranh của
50 công nhân khuân vác hãng BGI nổ ra vào tháng 5 năm 1958, được cơng nhân
khn vác nói chung, trong đó có cơng nhân khn vác cảng Đà Nẵng hỗ trợ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1958, nhân ngày lễ kỷ niệm Quốc tế lao động, công nhân
cảng Đà Nẵng cùng với công nhân lao động Đà Nẵng tổ chức đại hội đưa yêu sách cho
19



chính quyền địch với nội dung địi ấn định mức lương tối thiểu cho các ngành thợ mộc,
thợ nề, thợ rèn ở đô thị và xúc tiến việc lập trú xá cho cơng nhân thương cảng và xóm
lao động... Việc lợi dụng các tổ chức nghiệp đoàn do địch lập ra là một trong những
nét nổi bật của phong trào cơng nhân lao động thành phố, trong đó có cơng nhân cảng
Đà Nẵng.
Nhằm thực hiện chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, Mỹ-Diệm đã áp dụng những
thủ đoạn thâm độc là đưa một số tên phản động đứng ra “tố cộng” hoặc tuyên bố ly
khai, xé cờ Đảng, kêu gọi cán bộ, đảng viên ta ra hàng... khiến một bộ phận quần
chúng hoang mang, dao động, song nhìn chung đại bộ phận cơng nhân lao động, trong
đó có cơng nhân cảng vẫn giữ vững lập trường cách mạng.
Trong suốt thời kỳ khó khăn của cách mạng, trước khi tiếp thu đường lối mới của
Đảng, trong sự kìm kẹp, khủng bố của địch, bọn cảnh sát mật vụ ngày đêm rình rập,
sẵn sàng bắn giết, cùng với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế và các quyền
dân sinh dân chủ, công nhân cảng Đà Nẵng cùng với công nhân lao động thành phố đã
kiên cường tổ chức nuôi giấu, bảo vệ cán bộ, đảng viên trụ bám cơ sở xây dựng phong
trào.
Tại khu Sơng Đà, nơi có nhiều cơng nhân khuân vác Cảng Đà Nẵng và gia đình
họ sinh sống, làm ăn, trong các đợt “tố cộng” của địch, mặc dù bị địch đánh phá ác liệt
nhưng các cơ sở ta vẫn giữ vững. Bà con ở đây có nhiều sáng kiến che chở, nuôi giấu
cán bộ đảng viên như dùng thuyền đưa cán bộ đảng viên vào Quy Nhơn tập kết, làm
hầm bí mật trên thuyền để đón cán bộ, đảng viên đứng chân hoạt động. Khu Sông Đà
được xem như là “căn cứ” nổi của cách mạng, là chỗ đứng chân hoạt động vững chắc
của Thành ủy và Đảng ủy Khu Đông, là bàn đạp ra vào nội thành Đà Nẵng. Bà con ở
đây cũng đã tích cực tham gia bảo vệ đường dây trên biển, do đồng chí Trần Nhành,
trưởng ban cán sự Sơng Đà phụ trách. Năm 1956, chuyến hàng đầu tiên của Trung
ương chi viện cho Khu V đã vào Vũng Thùng an toàn [17; tr.81].
Bước sang năm 1959, trước sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam,
chính quyền Ngơ Đình Diệm ban hành luật 10-59 gây ra nhiều tội ác dã man với nhân
dân ta. Trong bối cảnh đó, trước yêu cầu của cách mạng miền Nam, tháng 1 năm 1959
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã ra Nghị quyết 15 lịch sử, khẳng định

20


×