HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
KHOA: HẢI QUAN VÀ LOGISTICS
-------------------oOo-------------------
TIỂU LUẬN: LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ BÀI: KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI
ĐẠI, SỨC MẠNH TRONG NƯỚC VÀ SỨC MẠNH QUỐC TẾ. Ý
NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NÀY TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Diệu Linh
Mã sinh viên: 21CL73402010164
Lớp: CQ59/06.07CLC
STT: 17
Hình thức kiểm tra: Tiểu luận
Bắc Ninh, ngày 24 tháng 3 năm 2022
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế
1. Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh
quốc tế
2. Nhận thức về mối quan hệ của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước và sức mạnh quốc tế
2.1 Sức mạnh dân tộc, trong nước
2.2 Sức mạnh thời đại, quốc tế
2.3 Mối quan hệ của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức
mạnh quốc tế
II. Những nguyên tắc về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước và sức mạnh quốc tế
III. Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước và sức mạnh quốc tế
IV. Ý nghĩa và bài học vận dụng của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước và quốc tế trong thời đại công nghiệp 4.0
1. Ý nghĩa
2. Vận dụng
C. Kết luận
A. Mở đầu
Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan, ảnh hưởng to lớn đến sự phát
triển của các quốc gia ở hầu hết các lĩnh vực. Ảnh hưởng của tồn cầu hóa đến các quốc gia ln
có cả mặt tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức, vừa thúc đẩy vừa hợp tác và tăng cường sức
ép cạnh tranh, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu tất yếu. Chủ động và tích cực tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế, nước ta có cơ hội mở rộng thị trưởng, mở rộng các mối quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên trong lẫn bên ngồi để đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Chủ tịch Hồ chí minh là con người ưu tú, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã tìm ra
con đường giải phóng dân tộc đưa Việt nam từ một nước phong kiến nghèo nàn, lạc hậu bị đô hộ
trở thành một nước độc lập, tự do có nền kinh tế phát triển và có vị thế trên chính trường quốc tế.
Những bài học và di chúc người để lại vẫn còn nguyên giá trị, là cầm nang cho chúng ta những
thế hệ đi sau học hỏi và định hướng xây dựng đất nước.
Hơn 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đẩy gian khổ, hy sinh
và đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những
thắng lợi đó là chúng ta đã biết kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Tư tưởng về sự kết hợp sức mạnh ấy là một nội dung lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung của tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời
đại, về sự kết hợp các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thẩm
đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu
tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sự nghiệp ”Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người”. Đây cũng chính là một trong những bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra qua thực
tiễn đấu tranh cách mạng của mình.
Ngày nay trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi
chúng ta phải nắm vững bài học trên đây, phải biết kết hợp đúng đắn và khéo léo sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để thúc đẩy đất nước phát
triển, hội nhập thành công và bền vững. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để phát huy và
kết hợp hiệu quả giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ln có một ý nghĩa to lớn cả về
lý luận và thực tiễn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức trên đảy, em chọn vấn đề: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Ý nghĩa của vấn đề này trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0”
B. Nội dung
I. Sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và quốc tế
1. Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào sức mạnh
dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, là tinh thần đồn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất
khuất cho độc lập, tự do, ý chí tự lập tự cường... Khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã
thơi thúc Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để thực hiện, cũng là lý do hy sinh của bao thế hệ
người Việt Nam hôm qua và hơm nay. Khát vọng đó chính là sức mạnh mà Hồ Chí Minh ý thức
được và ra sức giáo dục cán bộ, đảng viên và toàn dân ta quán triệt, giữ gìn và phát huy biển thành
sự thực.
Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được hình thành từng
bước, từ cảm tính đến lý tính, thơng qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành lý luận. Chứng kiến
cuộc sống khổ cực của nhân dân các nước thuộc địa. Người đã phát hiện ra mỗi trong đồng giữa
các dân tộc bị áp bức. Người cho rằng trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột, chỉ có hạng người bị bóc lột là có tình hữu ái, giai cấp thực sự. Đó là cơ sở
đầu tiên hình thành nhận thức: Muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân
tộc khác cùng chung cảnh ngộ. Những năm hoạt động cách mạng ở Pari, Người đã phân biệt hai
loại người: Người pháp vô sản và người Pháp thực dân. Chỉ có người Pháp thực dân mới là kẻ thù,
cịn người Pháp võ sản là bạn của nhân dân Việt Nam, là anh em cùng giai cấp, cùng chung kẻ thù.
Đó là cơ sở hình thành nhận thức về sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế vơ sản của Hồ Chí Minh. Sau khi tiếp thu tư tưởng của V. Lênin trong “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương : về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa Người càng ý thức được mối quan hệ
mật thiết giữa cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa nên đã coi
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản. Để chiến thắng kẻ thù, cách mạng Việt
Nam cần phải dựa vào sức mạnh bên trong, đồng thời phải tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của
quốc tế.
Hồ Chí Minh cho rằng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế võ sản, là phải xây dựng được khỏi liên minh
chiến đấu giữa vơ sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công chủ
nghĩa quốc tế ở hai đầu. Sau chiến tranh thế giới thứ II, sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành một nhân tố tạo nên sức mạnh thời đại. Các nước xã hội chủ
nghĩa có vai trị to lớn trong việc giúp đỡ phong trào dân tộc và đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân thế giới. Ngược lại các phong trào này góp phần làm suy yếu chủ nghĩa
đế quốc, tích cực bảo vệ các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương phát huy sức mạnh thời đại là huy động sức mạnh của các trào him cách mạng
trên thế giới, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Người nhắc nhở các thế hệ thanh niên phải ra sức học tập để chiếm lĩnh được những đỉnh cao của
khoa học, tận dụng sức mạnh mới của thời đại để nhân lên sức mạnh của dân tộc.
Trên thực tế có thể nói, khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
của Việt Nam là con đường cách mạng vơ sản, cũng có nghĩa Hồ Chí Minh đã tìm được sức mạnh
cho cách mạng Việt Nam, đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Càng về sau,
Người càng nhận thức được hoàn chỉnh tầm quan trọng và nội dung của việc kết hợp đó, coi đó là
nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
2. Nhận thức về mối quan hệ của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và
sức mạnh quốc tế
2.1 Sức mạnh dân tộc
Sức mạnh dân tộc (nội lực) Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược. Đảng ta, quân đội ta và nhân dân ta đồn kết một lịng, muốn người như một từ đó đã huy
động tới mức cao nhất sức người, sức của phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cả nước cùng ra
trận với khí thế hào hùng của lịch sử bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước trên nền tảng văn hóa
nhân nghĩa, khoan hịa, trí dũng, với ý chí khơng có gì q hơn độc lập tự do.
Tất cả mọi giới, mọi tầng lớp, mọi lực lượng từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du
kích đến gái, trai, già, trẻ từ nông thôn, thành thị đến miền xuôi, miền ngược đều tham gia giết
giặc cứu nước, từ hai bàn tay không của bà mẹ, tầm vông vật nhọn, cuốc thng, giáo mác,
chống tre, súng kíp, bom 3 càng đến con ong, con rắn cũng trở thành vũ khí tiêu diệt kẻ thù, từ
mặt đất nóng bỏng đạn bom cày xới, dưới địa đạo khắc nghiệt trong lòng đất, trên mặt nước
bụng biển đến bầu trời của đất nước ta, đâu đâu cũng là trận địa vùi xác quận thù
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc chính là sức mạnh của chủ nghĩ yêu nước tỉnh thần đoàn
kết và ý chỉ đấu tranh anh hùng, bất khuất cho độc lập tự do; ý thức tự lực tự cường, là đỉnh cao
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Điều này được thể hiện như sau:
+ Sức mạnh của dân tộc trước hết thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường. Bằng
chúng dân tộc Việt Nam khơng bị đồng hố trong 1000 năm Bắc thuộc, không bị diệt vong dưới
ách thống trị của thực dân phương Tây
+ Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó khơng phải chỉ là một tình
cảm tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình dụng nước và giữ nước.
+ Với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước trở thành sức mạnh và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam,
một thứ đạo lý, một lẽ sống cho mọi người dân, cũng trở thành tiêu chí cao nhất để đánh giá một
con người. Lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp nhuần nhuyễn của việc yêu quý độc
lập dân tộc, tự do dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Do đó, lịng u nước xã hội chủ nghĩa đã trở
thành sức mạnh to lớn của dân tộc ta.
+ Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ, tự cường và lòng yêu nước sở dĩ phát huy được sức mạnh to
lớn của nó vì đã kết liền nhân dân thành 1 khối vững chắc không gì lay chuyển được. Đó là đồn
kết dân tộc, đồn kết tồn dân.
Tổng hợp các điều trên, Hồ Chí Minh làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam Đó là sức
mạnh của thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện tại, sức mạnh của sự thơng minh
và lịng dũng cảm. Đó là sức mạnh dân tộc.
Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của hàng ngàn năm dụng nước và giữ nước. Trong đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh
thần chiến đấu ngoan cường, sự thống minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Trong truyền thống dân tộc áy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải ln ln đối đầu với nhiều
khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ thủ từ nhiều phương kéo đến.
Lòng yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh, một thử đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân,
cũng là một tiêu chí cao nhất để đánh giá con người trong xã hội ta. Sức mạnh dân tộc là điều
kiện kiên quyết để giành lại độc lập dân tộc.
2.2 Sức mạnh thời đại
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã
mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử.
Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các
dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Sức mạnh thời đại thể hiện ở những điều sau:
+ Sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sức
mạnh này được nhân lên nhiều lần vì nú gắn liền với cuộc cách mạng vơ sản trên tồn thế giới
trong thời đại mới.
+ Sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vơ sản. Hồ Chí Minh muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác ngồi con đường cách mạng vơ sản.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học kĩ thuật - một động lực phát
triển xã hội.
Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động thế
giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng
thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Sức mạnh của thời đại chúng ta là sức mạnh của giai
cấp vô sản, nó định hướng và làm nịng cốt trong việc thực hiện sự phát triển hợp quy luật của
lịch sử . Sức mạnh của giai cấp vô sản được thể hiện ở tính bách chiến, bách thắng của chủ nghĩa
Mac-Leenin, sự vững mạnh của chính đảng của giai cấp cơng nhân trong lãnh đạo cách mạng.
Nó tồn tại, phát triển và sẽ khơng ngừng được bổ sung, hồn thiện cho dù hiện nay đang bị các
thế lực thù địch tấn công từ nhiều phía.
2.3 Mối quan hệ của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức
mạnh quốc tế
Theo Ph.Ăngghen , cách mạng muốn giành thắng lợi , Đảng cách mạng phải tạo ra được một sức
mạnh tổng hợp ; kết hợp với sức mạnh quốc tế một cách đúng đắn sẽ tạo ra lực lượng tổng hợp
đó. Kết hợp hai sức mạnh này là địi hỏi khách quan trọng đấu tranh trong cách mạng của mọi
dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa dân tộc và quốc tế. Sự gắn
bỏ giữa yếu tố chủ quan (dân tộc) và yếu tố khách quan (quốc tế). Từ nhận thức này, Hồ Chí
Minh đã rút ra những luận điểm mang tỉnh nguyên tắc và những nội dung của tư tưởng kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, và sức mạnh trong nước với quốc tế. Bác đã chỉ rõ sự
cần thiết phải đoàn kết quốc tế rộng lớn giữa nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc với
nhau, giữa nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc với giai cấp công nhân, nhân dân lao động
ở các nước tư bản để quốc, giữa giai cấp vô sản toàn thế giới, nhằm tập hợp mọi lực lượng đầu
tranh cho mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cùng với sự đoàn kết
quốc tế của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới cũng thể hiện sức
mạnh của thời đại mới.
Như vậy sức mạnh trong thời đại chúng ta được thực hiện trong hai lực lượng chủ yếu: sức mạnh
của giai cấp vơ sản tồn thế giới và của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Sức mạnh này được
củng cổ và phát triển qua sự đoàn kết quốc tế sâu rộng. Nhận thức đúng đắn này là cơ sở quan
trọng để Hồ Chí Minh đề ra chiến lược, sách lược cách mạng nói chung, việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại nói riêng.
+ Sức mạnh thời đại và sức mạnh dân tộc là 2 mặt không thể tách rời trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc. Nếu sức mạnh dân tộc giúp ta phát triển, đánh thức sức mạnh nội tại
của dân tộc, thì sức mạnh thời đại giúp ta có được sự giúp đỡ từ các nước anh em trên tồn thế
giới. Từ đó ta sẽ có thêm tiếng nói ủng hộ cũng như sự giúp đỡ từ các nước khác.
+ Giúp ta nhìn nhận đúng đắn về các vấn đề dân tộc cũng như các vấn đề trên thế giới. Từ đó có
thể đưa ra những nhận định chính xác nhất.
+ Sức mạnh dân tộc càng lớn thì tiếng nói của chúng ta trên thế giới càng lớn, từ đó gia tăng sức
mạnh thời đại. Sức mạnh thời đại cảng lớn thì sự ủng hộ của các nước chác với nước ta sẽ càng
lớn, từ đó sức mạnh dân tộc được tăng cường.
Tóm lại, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại tương trợ lẫn nhau giúp cả 2 đều đc tăng cường
II. Những nguyên tắc về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước và sức mạnh quốc tế
Sức mạnh dân tộc là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia bao
hàm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; truyền thống và hiện tại; dưới dạng
tiềm năng và trong những biểu hiện hiện thực...
Ngày nay, sức mạnh dân tộc của nước ta được tạo nên bởi:
+ Quy mô và chất lượng của dân số cả nước (gần 95 triệu người, trong đó gần 45 triệu người trong
độ tuổi lao động)
+ Các nguồn lực tự nhiên khá phong phú (đất đai, rừng, biển, khoáng sản...)
+ Vị trí địa - chính trị và địa - kinh tế của đất nước
+ Truyền thống yêu nước, tự lực, tự cường
+ Nền văn hóa đậm tính nhân văn, cộng đồng
+ Đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, hịa bình và tiến bộ xã
hội trên thế giới
+ Sự ổn định chính trị - xã hội; đường lối đúng đắn của Đảng và sự đồng tình, ủng hộ của tuyệt đại
đa số các tầng lớp nhân dân
+ Sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế sau 30 năm đổi mới.
Sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nay được cấu thành bởi sức mạnh của các xu thế lớn, trong
đó dịng chủ lưu là hịa bình, hợp tác và phát triển; sức mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng
đồng thuận trong kiến tạo, củng cố một trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng,
bình đẳng; sức mạnh của các lực lượng tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì các mục tiêu cao cả là hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển bền vững; sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu
hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ; sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên
của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, tồn cầu hóa...
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm cơ bản của Đảng và cũng là một bài
học lớn của cách mạng Việt Nam. Hiện nay trước bối cảnh quốc tế và yêu cầu mới của nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học đó cần được tiếp tục quán triệt, thực hiện, song điều quan
trọng là cần có chiến lược, sách lược, hình thức, phương pháp sao cho đúng đắn và sáng tạo .
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sức
mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn sức mạnh thời đại là nguồn lực bên
ngồi, nó sẽ làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và nó cũng chỉ phát huy tác dụng thơng qua
nhân tố bên trong, đó là sức mạnh dân tộc. Người nhiều lần chỉ rõ: “tự lực cánh sinh, dựa vào sức
mình là chính”, “muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự giúp mình đã”, “một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được hưởng độc lập”.
Phải kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập dân tộc mình với các mục tiêu của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Trong những năm tới, nhu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tiếp tục được đặt ra
một cách cấp thiết và phải được triển khai trong bối cảnh mới, vừa nhiều cơ hội, thuận lợi và
không ít khó khăn, thách thức. Rất cần xác định kịp thời đâu là những vấn đề lớn có thể hạn chế,
cản trở hoặc làm giảm sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại và việc kết hợp chúng với nhau thành
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đánh giá, quan sát toàn diện “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”.
Trong hai yếu tố bên trong và bên ngoài, Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Cái gốc, cái điểm mấu
chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh”. Trong khi sức
mạnh dân tộc đóng vai trị quyết định thì sức mạnh thời đại giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi. Như
vậy, các yếu tố nội sinh cũng chính là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh của dân tộc, vì vậy
phải luôn được phát huy để đảm bảo tính độc lập, tự chủ để vững mạnh.
Từ khi ra đời, lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc trong điều kiện hết sức khó khăn, trải qua các
cuộc chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta luôn hiểu rõ tầm quan
trọng của việc phải kết hợp đúng đắn các nguồn lực và các trào lưu cách mạng của thế giới để tiếp
thêm sức mạnh cho công cuộc cách mạng của dân tộc, đem lại những thắng lợi to lớn cho dân tộc
ta. Trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế, quan điểm xuyên suốt này của Đảng và Bác đã
được thể hiện và phản ánh qua các nhiệm vụ và phương châm hành động khác nhau.
III. Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước và sức mạnh quốc tế
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong giai đoạn 1975-1985 , đất nước thống nhất , cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
sức mạnh của quốc gia , dân tộc, đất nước Việt Nam được nâng lên một bước . Để phát huy sức
mạnh dân tộc của đất nước. Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp ở cả tầm vĩ mơ và vi mơ.
+ Về chính trị : hồn thiện hệ thống chính trị trọng tâm , nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ,
hiệu quả quản lý nhà nước, đề cao vai trò chủ thể của nhân dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
+ Về kinh tế : tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa , ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp,
thủ công nghiệp, từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung , cải tiến cách
thức phân phối , tăng cường tự chủ cho doanh nghiệp, quan tâm đời sống nhân dân , phát triển hạ
tầng kinh tế , đẩy mạnh sản xuất và nhập khẩu.
+ Về văn hóa – xã hội, tiến hành cuộc cách mạng về tư tưởng văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục, thực hiện đời sống mới…..
Trong giai đoạn này, tình hình quốc tế có những thay đổi tác động đến Việt Nam cả mặt tích cực và
tiêu cực địi hỏi Đảng phải có những chủ trương , biện pháp đúng đắn, linh hoạt để tranh thủ sự
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa của phong trào cách mạng thế giới , của chính phủ và nhân
dân các nước trong sự nghiệp xây dựng , bảo vệ và phát triển đất nước , giảm thiểu những tác động
bất lợi mà các thế lực đế quốc, phản động quốc tế. Trên cơ sở phân tích đánh giá một cách khách
quan các nhân tố trong và ngồi nước . Đảng đã chủ động và khơn khéo tiến hành các chủ trương
biện pháp phù hợp giải quyết thành công chiến lược kết hợp sức mạnh của quốc gia , dân tộc với
sức mạnh của thời đại , quốc tế trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi phức tạp .
Sau cách mạng tháng tám thành công, mặc dù chưa được quốc gia nào công nhận về mặt ngoại
giao nhưng dựa trên tư thế của một nước độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã sáng suốt để
ra nhiều biện pháp chủ trương để tranh thủ sự ủng hộ , giúp đỡ quốc tế công cuộc kiến thiết đất
nước và bảo vệ nền độc lập. Tháng 10 – 1946 , Trong thư gửi Liên hợp quốc , Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Đảng và nhân dân Việt Nam đã khẳng định Việt Nam sẵn sàng tham gia ký kết các
hiệp định song phương và đa phương với các nước , mở cửa các sân bay , bến cảng , mời các
chuyên gia nước ngoài tham gia vào quá trình tái thiết đất nước Việt Nam , Người đã nhiều lần gửi
thư cho tổng thống và bộ ngoại giao Mỹ đề nghị Mỹ công nhận chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hịa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ
và \không gây thù ốn một ai” .
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) xác định cách mạng Việt Nam phải thực
hiện đồng thời hai chiến lược , xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc . làm hậu phương vững
mạnh cho cách mạng cả nước và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam để giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước . Đường lối này đã kết hợp được mục tiêu của nhân loại tiến bộ là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đem lại sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của thế giới cho cách
mạng Việt Nam với mục tiêu của nhân loại tiến bộ là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , đem lại
sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của thế giới cho cách mạng Việt Nam. Nhờ những chủ trương đúng
đắn và biện pháp sáng tạo, Đảng đã phát huy cao độ của sức mạnh dân tộc Việt Nam kết hợp với
sức mạnh to lớn của thế giới. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại , Hồ
Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh dân tộc là nguồn nội sinh giữ vai trò quyết định, còn sức mạnh
thời đại, quốc tế là nguồn lực bên ngồi, nó sẽ làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và nó chỉ
phát huy tác dụng thơng qua nhân tố bên trong, đó là sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước:
“Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Phải kết hợp chặt chẽ
mục tiêu đấu tranh cho độc lập dân tộc mình với các mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân
tộc , dân chỉ và chủ nghĩa xã hội.
Từ Đại hội 8, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp. Trong chặng đường hiện nay
cịn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước. Trong thời kỳ quá độ, có
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị
trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã
hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa diễn ra trong những điều kiện mới, với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với
nhau bằng những hình thức mới. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc
trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực,
sai trái ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo
vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc.
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng
xã hội. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, quản lý nền
kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân
dân.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo
con người phát triển toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Đặc biệt, trong cuộc đụng đầu với Mỹ, yếu tố thời đại có tác động rất lớn đến so sánh lực lượng
giữa ta và địch. Do đó, Đảng ta chủ trương, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện cho
được vấn đề đoàn kết với các lực lượng cách mạng trên thế giới, phải chăm lo vun đắp và phát
triển sự đoàn kết giữa nước ta với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, mở rộng đoàn kết với
tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ khác trên
thế giới.
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, chúng ta phải mở rộng quan hệ
kinh là đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế,
nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực
trong nước là chính. Bao gồm: nguồn lực con người, đất đai, tài ngun, trí ṭ, truyền thống.
Nếu khơng độc lập tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể dùng vững và đi lên một
cách vững chắc, lâu bền và cũng không thể hội nhập kinh tế quốc tế một cách bình đẳng
Nghị quyết Hội nghị lần thứu tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) đã đề ra tư tưởng
chỉ đạo: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa… Nâng
cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế… “Đó là
biểu hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chỉ có phát huy cao nhất các nguồn lực,
trước hết là nguồn lực con người, chúng ta mới có thể thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên
ngoài, mới bảo vệ được độc lập, chủ quyền khi hội nhập với thế giới.
IV. Ý nghĩa và bài học vận dụng của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
và quốc tế trong thời đại công nghiệp 4.0
1. Ý nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tháng 2-1948, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: cách mạng
muốn giành thắng lợi, Đảng cách mạng phải tạo ra được một sức mạnh tổng hợp. Việc kết hợp sức
mạnh cách mạng mỗi nước với sức mạnh quốc tế một cách đúng đắn sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp
đó. Kết hợp hai loại sức mạnh này là đòi hỏi khách quan trong đấu tranh cách mạng của mọi dân
tộc.
Thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thế Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố thời đại, nhân tố quốc tế đối với
cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế đã giúp dân tộc
ta chiến thắng trong các cuộc kháng chiến. Giúp các nước và nhân dân trong nước gắn kết lại với
nhau. Đặc biệt, trong cuộc đụng đầu với Mỹ, yếu tố thời đại có tác động rất lớn. Do đó, Đảng ta
chủ trương, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện cho được vấn đề đoàn kết với các lực
lượng cách mạng trên thế giới, phải chăm lo vun đắp và phát triển sự đoàn kết giữa nước ta với các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là với Liên Xơ, Trung Quốc, lấy đó làm cơ sở, làm
hạt nhân để mở rộng đoàn kết với tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hòa
bình, dân chủ và tiến bộ khác trên thế giới. Đây là một thành cơng có ý nghĩa chiến lược trong hoạt
động đối ngoại của Đảng ta, đặc biệt trong việc xây dựng, củng cố quan hệ hữu nghị với Liên Xô,
Trung Quốc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của hai nước từ đầu cho đến kết thúc chiến tranh.
Trong những năm tháng chiến tranh, các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, hai nước Liên Xơ và
Trung Quốc nói riêng đã dành cho sự nghiệp kháng chiến của ta sự giúp đỡ quý báu. Hai nước đã
ủng hộ, cổ vũ Việt Nam mạnh mẽ, góp phần kiềm chế chính sách phiêu lưu của các thế lực xâm
lược hiếu chiến. Trong hơn 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, miền núi
vẫn là địa bàn đứng chân, tạo nên chiến thắng. Trong hòa bình xây dựng đất nước phồn vinh, miền
núi và đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục đóng góp sức lực, trí ṭ cho Tổ quốc. Từ đó, Đảng
và Nhà nước ln tìm tịi, sáng tạo và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số, làm mọi việc để rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa đồng bào dân tộc thiểu
số và đồng bào Kinh, khoảng cách mọi mặt giữa miền núi và đồng bằng, đô thị.
2. Bài học, vận dụng
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh và qua phân tích thực
tiễn đất nước, nắm bắt xu thế thời đại và diễn biến của tình hình quốc tế, Đảng cộng sản Việt Nam
đã đề ra và tổ chức thành công chiến lược kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi vĩ đại
của cách mạng tháng Tám 1945, giành độc lập, tự do cho dân tộc, đưa Đảng lên vị trí cầm quyền;
đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như cuộc chiến
tranh xâm lược ở biên giới Tây nam và biên giới phía Bắc (1979) bảo vệ và phát triển nên độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia đồng thời lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước với những
thành công ngày càng to lớn được nhân dân và bạn bè thế giới đánh giá cao.
Nhận thức về sức mạnh thời đại của Đại hội XIII
Những chuyển biến sâu sắc trong cục diện quốc tế hiện nay đang tác động trực tiếp tới môi trường
an ninh và phát triển của nước ta, đem lại thời cơ và thách thức mới đan xen. Tuy vậy, đất nước
đang đứng trước cơ hội lớn hơn để bứt phá. Trên hết, dịng chảy chính của thế giới vẫn là xu thế
hịa bình, hợp tác và phát triển. “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số
phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi
quốc gia, dân tộc”
Tuy nhiên, khác với thời gian trước, hiện nay Đảng ta nhận định trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và
những năm tiếp theo, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn,
thách thức do tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó
lường.
Cụ thể, trên phương diện kinh tế quốc tế, tình trạng kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết
liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Tồn cầu hóa và
hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các
nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đại hội nhận định các vấn đề như cạnh
tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ,
nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động
mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các nước điều chỉnh chiến
lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới.
Để phát huy bài học kinh nghiệm mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế trong tình hình
mới, rất cần thống nhất, nhất quán một số định hướng cơ bản:
Một là, phải ln đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết, với nội hàm cụ thể hiện nay là xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập và chủ quyền quốc gia. Đây là cơ sở hàng đầu để
Đảng, Nhà nước và nhân dân quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại trọng đại của đất nước.
Hai là, kế thừa tinh thần “đem sức ta tự giải phóng cho ta”, phải biết “tự lực cánh sinh”, tự lực, tự
cường. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội sinh là yếu tố quyết định; sức mạnh thời đại, quốc tế, sức
mạnh bên ngoài là yếu tố quan trọng, chỉ có tác dụng và hiệu quả khi sức mạnh bên trong được
chuẩn bị kịp thời, đầy đủ.
Ba là, phòng chống mọi biểu hiện tụt đối hóa. Khơng được thần thánh hóa sức mạnh dân tộc mà
xem nhẹ sức mạnh thời đại, coi việc tìm kiếm những nguồn lực quốc tế là sự lệ thuộc vào nước
ngoài, là dẫn tới mất độc lập, mất bản sắc trong phát triển, từ đó dẫn tới bảo thủ, biệt lập và nhất
định sẽ đi đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi. Cũng khơng được xem nhân tố quốc tế như cứu cánh cho
mọi vấn đề, dẫn tới xem nhẹ sức mạnh dân tộc, lãng phí nhiều lợi thế nội sinh, vơ tình bỏ rơi nhiều
di sản quý báu cho sự hưng thịnh của đất nước hiện nay.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh quốc tế, sức mạnh
thời đại; kết hợp chúng một cách vô cùng hiệu quả với sức mạnh dân tộc. Bởi vậy, đã làm thay đổi
tương quan lực lượng ngày càng có lợi trong chiến đấu và chiến thắng thực dân, đế quốc, các thế
lực phản động, làm nên một trong những bản hùng ca đẹp nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ
XX. Trong 30 năm đổi mới, một lần nữa phong cách Việt Nam kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại lại để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, bước ngoặt. Từ chỗ bị bao
vây, cấm vận ngặt nghèo, đến nay nước ta là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế: có quan hệ ngoại giao đầy đủ với 185 quốc gia trong tổng số 193 quốc
gia thành viên Liên Hợp quốc, trong đó có 15 đối tác chiến lược và 10 đối tác tồn diện, có quan
hệ với tất cả các nước lớn, tham gia vào 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Từ hệ thống quan hệ kinh
tế - thương mại nhất biên đảo, đến nay nước ta có quan hệ ngoại thương với trên 230 thị trường, đã
ký trên 90 hiệp định thương mại tự do song phương, hơn 60 hiệp định đầu tư, 54 hiệp định chống
đánh thuế hai lần..., kim ngạch ngoại thương nhiều năm qua đạt từ 150 - 200% quy mô GDP, thu
hút 270 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và gần 90 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức
(ODA) được cam kết. Từ chỗ còn nhiều cách biệt với thế giới, đến nay nước ta đã tham gia hầu hết
các thiết chế liên kết khu vực và toàn cầu: AFTA, APEC, ASEM, TPP, WTO...; đảm nhiệm ngày
càng nhiều chức trách trong ASEAN, Liên Hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác
Trước bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 các nước trên thế giới phát triển có phần
chậm lại nhưng đã và đang dần dần quay lại và phát triển mạnh hơn lúc trước. Đảng tiếp tục coi
trọng tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ lực tìm các biện pháp để đặt Việt Nam vào đúng dòng chảy của
thời đại, phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại để đẩy mạnh tồn
diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, tạo sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt Nam tới những thắng lợi mới.
Đến năm 2022, bên cạnh phòng chống dịch bệnh Covid 19, Đảng và Nhà nước đã cố gắng bằng
mọi cách nhằm phục hồi phát triển các ngành kinh tế, tái cơ cấu các ngành kinh tế tư nhân, thu hút
nguồn vốn FDI đối với các tỉnh, thành phố công nghiệp trọng điểm như Hà Nội, Bắc Ninh, Đồng
Nai,... cơ sở hạ tầng tại các thành phố trực thuộc trung ương cũng như các tuyến đường Bắc-Nam
được triển khai triệt để. Mở cửa du lịch và chấp nhận hộ chiếu vaccine đối với các quốc gia đạt
tiêu chuẩn làm tiền đề hướng tới Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31. Mặc dù dịch bệnh còn
phức tạp, nhưng nền kinh tế Việt Nam quý I/2022 có sự tăng trưởng 5% so với cùng kỳ năm trước,
đưa Việt Nam phục hồi kinh tế sau đại dịch. Về văn hóa-giáo dục, tiến tới miễn dịch cộng đồng,
mở cửa trường học hạn chế học online, tối ưu hóa các hình thức kiểm tra, vận dụng linh hoạt các
hình thức đánh giá năng lực.
Như vậy, Việt Nam đang được định vị ở nhóm giữa trong thang bảng sức mạnh toàn cầu với hơn
200 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều chỉ số được xếp trong nhóm top 30 và được dự báo sẽ
còn tăng từ nay đến năm 2030. Trong so sánh, những chỉ số phát triển của Việt Nam hiện khơng
cịn q chênh lệch so với các cường quốc tầm trung và trong tương lai có thể đuổi kịp và vượt
một số nước.
Để khắc phục những khó khăn, thách thức trên, Đảng tiếp tục coi trọng tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ
lực tìm các biện pháp để đặt Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời đại, phát huy cao nhất sức
mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, xây dựng nền tảng để
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo sức mạnh to lớn đưa
cách mạng Việt Nam tới những thắng lợi mới.
Để gắn kết công cuộc đổi mới ở trong nước với xu thế thế giới, để xác định đúng vị trí của mình
trong mơi trường thế giới và thúc đẩy được hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ và kết hợp sức mạnh từ
bên ngoài hỗ trợ cho các mục tiêu, nhiệm vụ hiện nay, trước hết cần hiểu và căn cứ vào các đặc
điểm chính của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, những điểm làm nên sức mạnh của đất nước
mà chúng ta cần tranh thủ và những mặt chúng ta cần tiếp tục khắc phục, phấn đấu.
C. Kết luận
Để có thể kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước và quốc tế thành
sức mạnh tổng thể có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề đầu
tiên là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc phải tăng trưởng ko ngừng. Sức mạnh dân tộc chính
là tổng hợp các nhân tố kinh tế, quân sự, chính trị ngoại giao và ý chí. Nói cách khác là chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ln hợp lịng dân. Hiệu quả của việc kết hợp này đã được kiểm
chứng trong các cuộc chiến tranh trước đó, và trong thời đại cơng nghiệp 4.0, chúng ta cịn có
những thắng lợi lớn trong tình hình dịch bệnh Covid, phục hồi kinh tế cũng như chính sách ngoại
giao khơn khéo.
Cho đến ngày hơm nay, Đảng đã vận dụng triệt để quan điểm của Mác Xít trong việc định hướng
và phát triển cách mạng Việt Nam theo hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi Nghị quyết được đưa ra là
quyết định sáng suốt, là kim chỉ nam cho dân tộc Việt Nam đi tới hội nhập với toàn thế giới. Đặc
biệt trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0 cùng sự thách thức trước đại dịch Covid-19, Đảng ta
đã từng bước lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều này được thể hiện rõ
trong phương châm chống dịch và khôi phục kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta sẽ giành thêm được nhiều thắng
lợi hơn nữa trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh của dân, do dân và vì dân.