1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, cục diện thế giới đang trải qua những biến đổi nhanh chóng, sâu
sắc. Sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, đang tạo ra sự biến đổi về chất chưa từng có trong lịch sử nhân
loại. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền
kinh tế được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng liên tục ở
tốc độ cao, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt, quốc phòng an ninh được đảm
bảo, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được tăng cường. Tuy
nhiên, bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hịa bình” do đó việc
đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là rất quan trọng; đồng thời, để việc đề ra
các chính sách hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế thì việc nắm vững, hiểu rõ
lý luận về chính sách cơng từ đó áp dụng trong thực tiễn trong đề ra chính sách là
rất cần thiết. Với ý nghĩa trên, em xin chọn chủ đề “Một số lý luận nhập môn về
mơn chính sách cơng” cho bài thu hoạch học phần chính sách cơng để kết thúc
mơn.
2
NỘI DUNG
1.1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
Khoa học Chính sách cơng ra đời xuất phát từ nhu cầu phải cung cấp một hệ
thống tri thức giúp con người có thể hiểu, trả lời và giải quyết các vấn đề về chính
sách cơng. Nói một cách khái qt, theo Harold Lasswell, khoa học chính sách
khơng có gì khác hơn là toàn bộ tri thức của con người về q trình hoạch định
chính sách và cho q trình hoạch định chính sách. Điều này có nghĩa là, khoa học
chính sách, cũng giống như mọi ngành khoa học xã hội khác, ngay từ đầu, đã bị
quy định bởi một đặc trưng cốt lõi là hướng tới hai mục đích: hiểu biết về thế giới
chính sách cơng và can thiệp, cải tạo thế giới đó. Nhưng xét đến cùng, mục tiêu tối
thuợng của khoa học chính sách là nhằm khoa học hố q trình hoạch định chính
sách để có được những chính sách tốt hơn.
Đối tượng của khoa học chính sách là tồn bộ q trình hoạch định và thực thi
chính sách. Đó là một hiện tượng xã hội vơ cùng phức tạp và khác về căn bản so
với hầu hết các hiện tượng nghiên cứu khác.
Khoa học nghiên cứu chính sách đã có một bề dày phát triển trên thế giới.
Tại phương Tây, các nhà chính trị và khoa học bắt đầu tập trung chú ý phân tích
chính sách công từ giữa những năm 1940, chủ yếu do vai trị trung tâm của nhà
nước trong cơng cuộc tái thiết sau Đại chiến Thế giới II. Trước đó họ tập trung chủ
yếu vào các q trình chính trị chứ khơng phải là “sản phẩm” của các q trình đó.
Vào những năm 1950, lĩnh vực nghiên cứu độc lập về chính sách mới trở nên rõ
ràng sau một loạt các nghiên cứu cơ bản cũng như sự công nhận của giới khoa học
và giới chính trị.
Trong những năm 1960, các nghiên cứu chính sách ở phương Tây đã đạt
được những thành tựu nhất định, đặc biệt trong việc ứng dụng thực tiễn. Những
năm 1970 và 1980 đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực nghiên
cứu này. Các trường đại học đều đã thành lập chuyên ngành riêng về phân tích
chính sách, cung cấp các chuyên gia tư vấn và đánh giá chính sách cho tịan bộ hệ
thống chính trị.
3
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chính sách cũng đã được công bố nhiều
trong các sách, báo và các tạp chí chuyên nghành. Các nghiên cứu này tập trung
vào nội dung cụ thể của chính sách từ góc độ chun ngành hẹp, ít khi xem xét nó
từ góc độ chính trị học. Trong khi đó, việc nghiên cứu các phương diện chính trị
của một tiến trình chính sách nói chung, đặc biệt, vai trị của quyền lực cơng trong
việc hoạch định và triển khai các chính sách như vậy, có ý nghĩa căn bản cho việc
thiết kế cũng như triển khai chính sách một cách có hiệu quả.
Chính sách công được coi là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
khoa học khác nhau như: chính trị học, khoa học hành chính, luật học, xã hội học
và kinh tế học. Tuy nhiên, khi xem xét cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính
sách cơng, người ta thường tiếp cận nó trên cơ sở của chính trị học và kinh tế học.
Cho đến nay, nghiên cứu khoa học chính sách công không thể tách rời việc
mô tả và phân tích 3 mảng lớn: các thiết chế chính trị, các quy trình chính trị và các
hành vi chính trị. Mục đích của nghiên cứu chính sách như vậy có thể quy về 3
điểm lớn: (1) Q trình hoạch định chính sách cơng; (2) Nội dung căn bản của
chính sách cơng; (3) Tác động và hậu quả của chính sách cơng.
Trên thế giới, người ta thường tách thành 2 lĩnh vực kiến thức về chính sách:
1) Kiến thức về q trình chính sách (tức là các ưu tiên chính trị, các ràng buộc thể
chế, v.v..) và 2) Kiến thức và kỹ năng phân tích dùng trong q trình chính sách
(như: việc phân tích chi phí, lợi ích, tác động cụ thể của một chính sách đối với các
nhóm hoặc tồn dân chúng, v.v..).
Từ góc độ chính trị học, nghiên cứu chính sách cơng xem xét việc hoạch
định chính sách trên những cơ sở sau:
Một là, xác định các ưu tiên chính trị trong việc lựa chọn các vấn đề nào cần
giải quyết; đối tượng, tầng lớp nào cần được ưu tiên của chính sách.
Hai là, xác định những xung đột, mâu thuẫn lợi ích giữa các cá nhân và
nhóm cụ thể; nguyên nhân của những xung đột, mâu thuẫn lợi ích đó cũng như thái
độ của các bên liên quan về vấn đề chính sách.
4
Ba là, xác định cách thức điều hòa xung đột thông qua các phương án, giải
pháp phân bổ giá trị xã hội một cách hợp lý; xác lập các thể chế cần có làm cơ sở
cho việc thực thi chính sách trên thực tế.
Bốn là, đánh giá sự thỏa mãn của các bên liên quan về kết quả mà việc thực
thi chính sách đem lại để từ đó có những điều chỉnh nội dung chính sách phù hợp
hơn với mơi trường chính sách và với thực tiễn cuộc sống.
Nếu như chính trị học tập trung xem xét khía cạnh chính trị của chính sách
thì kinh tế học lại quan tâm đến tính kỹ thuật của chính sách, đó là việc tính tốn,
cân nhắc các chi phí và lợi ích mang lại của một chính sách, các nguồn lực cần
thiết để đảm bảo cho việc triển khai chính sách.
Nói một cách hình ảnh, có thể xem “Chính trị học phân tích về định hướng
của cả con tàu, trong khi kinh tế học sẽ phân tích xem việc vận hành của con tàu
theo định hướng đó như thế nào là nhanh nhất và ít tốn kém nhất”.
1.2. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH CƠNG
1.2.1. Khái niệm chính sách
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách:
Theo James Anderson (2003): "Chính sách là một q trình hành động có
mục đích được theo đuổi một cách kiên định bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc
giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm"; Chính sách là hành động của các chủ thể
nhằm quyết định cái gì được thực hiện.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau,
ở những phạm vi và tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính
sách của một đảng chính trị, chính sách của nhà nước, chính sách của chính quyền
địa phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ chức, đồn thể, hiệp hội,
chính sách của một doanh nghiệp…
Căn cứ vào phạm vi, quy mô ảnh hưởng và tính chất của các chủ thể hoạch
định chính sách mà người ta chia chính sách thành chính sách cơng và chính sách
tư. Theo đó, “chính sách tư” là chính sách do các tổ chức, các doanh nghiệp, các
hiệp hội, đoàn thể… ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ cũng như làm cơ sở
cho việc triển khai hoạt động của tổ chức ấy. Các chính sách này nhằm giải quyết
5
những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong nội bộ tổ
chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt. Cịn “chính sách cơng” là những
chính sách do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm giải quyết
những vấn đề có tính cộng đồng. Do được ban hành và thực thi bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (cơ quan cơng quyền hay cịn gọi là cơ quan thực thi
quyền lực cơng) nên chính sách cơng được coi là một trong những công cụ quản lý
quan trọng của nhà nước.
1.2.2. Khái niệm chính sách cơng
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách cơng
vẫn là một chủ đề sơi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Sau đây là một số
định nghĩa chính sách cơng khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài và trong
nước.
William Jenkin cho rằng: "Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có
liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó"(William
Jenkin, 1978).
Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách cơng, song
định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "Chính sách công là cái
mà nhà nước lựa chọn làm hay không làm"(Thomas R. Dye, 1984). Bốn mặt quan
trọng của định nghĩa này là:
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi cơng
dân".
Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng chính sách được hiểu là đường lối cụ
thể của chủ thể quyền lực công về một lĩnh vực nhất định trong một giai đoạn xác
định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Theo định nghĩa này, một chính sách thường gồm ba bộ phận cấu thành: 1)
đường lối cụ thể về một lĩnh vực nhất định trong một thời gian xác định, 2) biện
pháp thực hiện, 3) kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
6
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau: "Chính
sách cơng là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà
nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xă hội
theo mục tiêu xác định".
1.3. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH CƠNG
Thứ nhất, chính sách cơng tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong
đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định.
Chính sách cơng là một q trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề
nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của
Nhà nước là những chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều
lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc điểm của chính sách cơng là chúng được đề ra và
được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang
đặt ra trong đời sống xă hội. Chính sách cơng chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn tại
hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách
được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong
đời sống kinh tế – xă hội đđ̣òi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết.
Thứ hai, chủ thể hoạch định chính sách cũng là chủ thể nắm quyền lực cơng
– đó là nhà nước, và vì vậy chính sách công được đảm bảo thực thi bởi khả năng
và công cụ cưỡng chế hợp pháp.
Chính sách cơng vừa mang tính chính trị lại vừa mang tính pháp lý. Tính
chính trị của chính sách liên quan đến việc lựa chọn phương án hành động hoặc
không hành động, đến việc phân bổ các giá trị xã hội của nhà nước, đến những
quyết định chính trị động chạm tới lợi ích của nhiều người; cịn tính pháp lý lại thể
hiện ở những văn bản pháp luật chứa đựng nội dung chính sách, ở tính bắt buộc
phải tuân thủ những quy định pháp luật nhằm đảm bảo hiệu lực thực thi trên thực
tế của chính sách.
Ở Việt Nam, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ "chính sách của
Đảng và Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành
chính sách cơng. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. Ở
Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lănh đạo Nhà nước, lănh
7
đạo xă hội. Đảng lănh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng chính sách – đó chính là những căn cứ chỉ đạo để Nhà nước
ban hành các chính sách cơng. Như vậy, về thực chất, các chính sách cơng là do
Nhà nước Cộng hòa xă hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Nhà nước đề ra). Các
chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân ta. Do vậy, Đảng
cộng sản Việt Nam cũng là chủ thể của chính sách cơng.
Thứ ba, chính sách cơng khơng phải các quyết định nhất thời (mang tính tình
thế) của nhà nước, mà là chương trình hoạt động được suy tính một cách khoa học,
liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những mục đích tương đối cụ thể.
Chính sách cơng nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, bức thiết, liên
quan đến nhiều người, đến những định hướng phát triển quan trọng nên nó cần
phải có sự chuẩn bị, nghiên cứu một cách thận trọng trước khi ban hành. Chính
sách cơng phản ánh các hành vi được thực hiện trên cơ sở các mục tiêu rõ ràng.
Chính sách cơng bao gồm nhiều quyết định chính trị liên tục có liên quan lẫn nhau
để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra (không nên đồng nhất với các quyết định
hành chính đơn thuần), mà khái niệm quyết định chính trị ở đây là sự lựa chọn của
nhà nước, bao gồm việc sử dụng các công cụ, nguồn lực cần thiết cho các giải pháp
chính sách. Các quyết định chính trị bao gồm cả luật, các văn bản dưới luật, thậm
chí cả chương trình, dự án là các giải pháp cho vấn đề chính sách.
Chính sách cơng khơng đồng nghĩa với một luật riêng biệt hay một văn bản
chỉ thị hay quyết định nào đó khơng có mục tiêu chính trị. Các văn bản quy phạm
pháp luật đều có mục tiêu giải quyết vấn đề, đó chính là mục tiêu chính sách.
Chính sách cơng bao gồm một chuỗi các hành động của cơ quan có thẩm
quyền.Một quyết định đơn lẻ của cơ quan có thẩm quyền khơng phải là chính sách
cơng. Chẳng hạn, chính sách khơng chỉ bao gồm quyết định ban hành đạo luật về
một chủ đề nào đó, mà còn là những quyết định tiếp theo liên quan đến việc thực
hiện hay cưỡng chế thực hiện nó.
Thứ tư, chính sách cơng bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ không
phải chỉ là những tuyên bố.
8
Chính sách cơng khơng phải là những ý tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện
trong lời nói và hành động của họ. Chính sách cơng trước hết thể hiện dự định của
các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào
đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản thì nó
vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách cơng cịn phải bao gồm các hành vi
thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
1.4. PHÂN LOẠI CHÍNH SÁCH CƠNG
Chính sách cơng là cơng cụ quản lý của nhà nước trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội nên chúng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, căn cứ
vào các tiêu chí cụ thể có thể phân chính sách cơng thành các loại khác nhau.
1.4.1.Phân loại theo chức năng
- Chính sách điều tiết là những chính sách được hoạch định nhằm hạn chế sự
phát triển của bộ phận này hoặc tạo điều kiện cho sự phát triển của bộ phận khác
nhằm kiềm chế sự phát triển thái q hoặc duy trì sự cơng bằng cần thiết. Ví dụ:
chính sách điều tiết trong lĩnh vực kinh tế, luật chống độc quyền, luật cạnh tranh,
chính sách thu hút đầu tư vào các vùng khó khăn, chính sách bảo hộ một số mặt
hàng trong nước, chính sách bảo vệ mơi trường, v.v..
Chính sách điều tiết giống với chính sách phân phối lợi ích, song khác ở chỗ
mục tiêu của chính sách điều tiết là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm thiệt
thịi có điều kiện vươn lên, tn theo nguyên tắc bổ trợ.
- Chính sách tự điều tiết là những chính sách tạo ra một cơ chế tự bảo vệ
quyền lợi của nhóm người nhất định trong xã hội. Ví dụ: chính sách trợ giá nơng
phẩm (cơ chế tự bảo vệ lợi ích của những người nơng dân), chính sách tuyển dụng
chỉ giành cho những đối tượng có chứng chỉ nghề nghiệp và đăng ký hộ khẩu tại
địa phương (cơ chế bảo đảm tự giải quyết lao động giành riêng cho địa phương),
chính sách về hoạt động của Hội nhà báo, bác sỹ, v.v..
- Chính sách phân phối là những chính sách bao hàm phân phối hàng hóa
cơng cộng đến những bộ phận nhất định trong nhân dân. Đặc trưng của chính sách
phân phối là chỉ có những đối tượng trong quy định của chính sách mới được
9
hưởng lợi ích từ chính sách, cịn những đối tượng khơng thuộc phạm vi điều chỉnh
của chính sách thì khơng được hưởng lợi ích từ chính sách.
- Chính sách phân phối lại là chính sách hướng đến việc đảm bảo sự công
bằng ở mức độ nhất định trong việc thụ hưởng các giá trị/lợi ích xã hội giữa các bộ
phận dân cư khác nhau. Chính sách này thường mang nhiều tính xã hội. Mục tiêu
căn bản của chính sách này là tạo lập sự công bằng tương đối trong cộng đồng về
quyền được hưởng các vấn đề thiết yếu của đời sống như: nhà ở, thu nhập, y tế,
giáo dục, v.v..Ví dụ, chính sách thuế thu nhập của những người có thu nhập cao
nhằm chuyển một phận thu nhập của người giàu sang phúc lợi cho người nghèo.
- Chính sách phát triển là nhóm chính sách có tác dụng tạo điều kiện thúc
đẩy sự phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã hội.
Chẳng hạn: chính sách phát triển giáo dục-đào tạo, chính sách phát triển kinh tế,
chính sách phát triển khoa học - cơng nghệ, v.v..
1.4.2. Phân loại theo tính chất
- Chính sách chủ động là chính sách được Nhà nước chủ động đưa ra mặc
dù chưa có nhu cầu cụ thể, hoặc có nhưng chỉ mới được nhận biết ở một bộ phận
nào đó của xã hội, ở những người sở hữu thơng tin đầu tiên. Trong khi đó, đại bộ
phận cộng đồng cịn chưa ý thức hoặc chưa thể nhìn thấy được nhu cầu và tính cấp
thiết của vấn đề mà chính sách đưa ra.
Chính sách chủ động có những đặc trưng: (1) Thể hiện chiến lược và mục
tiêu dài hạn; (2) Chuẩn bị cho những cơ sở phát triển kế tiếp (Ví dụ: Việt Nam phải
sửa đổi hàng loạt văn bản luật và chính sách để trở thành thành viên của WTO); (3)
Bao gồm nhiều chính sách bộ phận.
Hiệu quả của chính sách thụ động phụ thuộc nhiều vào năng lực và tầm nhìn
của nhà lãnh đạo, năng lực và trình độ của đội ngũ chuyên gia, sự đầy đủ thông tin,
có sự kế thừa và thực hiện liên tục cũng như tài chính để thực hiện nó.
Chính sách thụ động nếu được xây dựng tốt, bao quát được các khả năng
thay đổi thì hiệu quả đối với cộng đồng là rất lớn. Ngược lại, nếu khơng được xây
dựng tốt thì hậu quả của nó hết sức tai hại và lâu dài, thậm chí vài thế hệ sẽ phải trả
10
giá. Ví dụ: tài nguyên quốc gia, nguồn nhân lực, vốn, v.v..bị thất thốt, lãng phí,
kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Chính sách bị động là chính sách được đưa ra để xử lý một tình huống đã
phát sinh hay sắp xảy ra trong xã hội. Mục tiêu của chính sách bị động là sửa sai
một chính sách cũ; Bổ sung, điều chỉnh hoạch giải thích rõ nghĩa một chính sách
hiện hành khác; chi tiết hóa một chính sách đã có; Xử lý một vấn đề xã hội đã xảy
ra hoặc đang được cảnh báo; Đáp ứng yêu cầu của một tập thể cử tri hoặc một
nhóm xã hội nào đó; hoặc giải quyết những nguy cơ hay khó khăn mà người làm
chính sách đang phải đối mặt.
Chính sách bị động có một số ưu điểm như: mục tiêu của chính sách là cụ
thể, khơng trừu tượng, dễ lượng hóa được chi phí-lợi ích; vì giai đoạn soạn thảo
chính sách thường theo sau những biến cố, sự kiện nên những dữ liệu đầu vào, diễn
biến có sẵn làm cho chính sách có khả năng thuyết phục cao, dễ được chấp nhận;
chính sách dễ được thi hành.Tuy nhiên, chính sách bị động cũng có một số hạn chế
như: chính sách chủ yếu mang tính đối phó, điều chỉnh và sửa sai nên tính chủ
động và sáng tạo thấp; hơn nữa, vì nhằm xử lý các vấn đề đang hoặc sắp xảy ra nên
chính sách thường bị sức ép về mặt thời gian trong quá trình xây dựng. Chủ thể
hoạch định chính sách thường bị sức ép về tâm lý và sức ép từ nhiều phía.
1.4.3.Phân loại theo thời gian
Căn cứ vào độ dài hay ngắn của thời gian hiệu lực chính sách người ta chia
thành chính sách ngắn hạn và chính sách dài hạn.
- Chính sách ngắn hạn: là chính sách gắn với đối tượng và mục tiêu dễ thay
đổi. Chính sách ngắn hạn thường có hiệu lực trong khoảng thời gian dưới 2 năm.
Ví dụ: Chính sách tiền tệ (lãi suất, tỷ giá hối đối), chính sách tài chính, chính sách
thương mại, chính sách ngoại giao, chính sách cơng nghiệp, v.v..
- Chính sách dài hạn: là chính sách gắn với những mục tiêu và đối tượng
khó thay đổi. Hiệu lực của chính sách dài hạn thường kéo dài trên 10 năm. Chẳng
hạn, các chính sách gắn với tài ngun quốc gia: rừng, đất đai, biển, khống sản,
mơi trường; chính sách liên quan đến quyền cơ bản của con người (luật dân sự, luật
hơn nhân gia đình, luật bầu cử)
11
1.4.4.Phân loại theo cấp độ của chính sách
- Chính sách tồn thể là chính sách mà đối tượng chịu sự điều chỉnh của nó
là như nhau trên phạm vi tồn quốc và khơng có giới hạn về đối tượng. Mặt khác
dịch vụ mà chính sách mang lại cho mọi người là như nhau và khơng có sự phân
biệt. Ví dụ: chính sách an tồn giao thơng, chính sách an ninh quốc phịng, chính
sách bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, v.v..
- Chính sách bộ phận là những chính sách chỉ áp dụng cho những đối tượng
hoặc bộ phận đáp ứng được điều kiện của sự ưu tiên. Chính sách bộ phận đi kèm
với các giới hạn nhất định cho các đối tượng hưởng thụ chứ khơng mang tính phổ
qt như chính sách tồn thể. Ví dụ, chính sách đối với người có cơng với cách
mạng, chính sách ưu đã tín dụng cho người nghèo, chính sách đối với cán bộ dân
tộc thiểu số, v.v..
1.4.5.Phân loại theo khu vực áp dụng chính sách
- Chính sách thuộc khu vực cơng là những chính sách chỉ áp dụng đối với
các cơ quan công quyền, bộ máy nhà nước, về phối hợp công việc, về quyền lợi và
trách nhiệm của cơng chức. Ví dụ, chính sách cải cách hành chính, chính sách cán
bộ, cơng chức; chính sách đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, v.v..
- Chính sách cho khu vực tư nhân cũng đồng nghĩa với chính sách cho nhân
dân như: chính sách anh sinh xã hội, chính sách giáo dục, chính sách y tế, v.v..
- Chính sách cho khu vực có yếu tố nước ngồi là chính sách mà đối tượng
áp dụng là cơng dân người nước ngồi hoặc các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ, chính sách về xuất nhập cảnh, về thời hạn
cư trú, chính sách thu hút đầu tư nước ngồi, chính sách chuyển giao cơng nghệ,
v.v..
1.4.6.Phân loại theo định hướng chính sách
Định hướng chính sách ở đây được hiểu là quan điểm và nội dung chính
sách phản ánh sự so sánh với ý kiến hay nhận thức chung của thời đại.
- Chính sách cấp tiến là những chính sách có thiên hướng tạo ra sự thay đổi
trong xã hội, chú trọng đón bắt những nhu cầu mới, có tinh thần cải cách mạnh mẽ.
12
- Chính sách bảo thủ là những chính sách thích tn theo những cái đã có và
khơng muốn thay đổi trật tự đang tồn tại. Chính sách này coi trọng những quy luật
xa xưa, không muốn vươn xa hơn, tạo ra những thay đổi mang tính bản chất.
1.4.7. Phân loại theo hiệu quả chính sách (hay cịn gọi là phân loại theo
mức độ tác động của chính sách)
- Chính sách thực chất là những chính sách kèm theo những hoạt động cụ
thể của nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội. Đặc trưng của chính
sách thực chất là: tính hiệu quả của nó dễ nhìn, dễ thấy, dễ đo lường. Ví dụ: chính
sách tăng lương, chính giảm giờ làm từ 48h/tuần xuống 40h/tuần, v.v..
- Chính sách thủ tục là những chính sách đi kèm và hướng dẫn việc thực
hiện chính sách thực chất. Tuy mang tính hình thức, nhưng bằng việc quy định các
cách thức triển khai, thủ tục thực hiện, các chính sách thủ tục có thể chi phối các
chính sách khác. Ví dụ: quy định về đăng ký kết hôn; thủ tục đăng ký khai sinh,
khai tử, đăng ký tạm trú, tạm vắng; quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp,
cấp phép kinh doanh, v.v..
1.4.8. Phân loại theo phương pháp triển khai
Trên thực tế có nhiều phương thức để triển khai chính sách, nhưng khái quát
lại có 2 loại: triển khai bằng quyền lực, bằng ép buộc gọi là chính sách có tính
cưỡng chế; triển khai bằng thuyết phục, động viên gọi là chính sách có tính thuyết
phục.
- Chính sách có tính cưỡng chế là những chính sách được triển khai trên cơ
sở cưỡng chế, bắt buộc các đối tượng được quy định trong chính sách phải thực
hiện. Chính sách có tính cưỡng chế thường được đảm bảo thực thi bởi công cụ
cưỡng chế hợp pháp của nhà nước, do vậy nó có khả năng thực hiện cao. Hầu hết
các chính sách cơng đều thuộc loại này bởi chúng được thể chế hóa thành pháp luật
của nhà nước.
- Chính sách có tính thuyết phục là những chính sách nhấn mạnh việc thực
hiện dựa trên cách thức thuyết phục, động viên đối tượng được điều chỉnh bởi
chính sách thực hiện, khơng dùng các biện pháp cưỡng chế, ép buộc. Loại chính
sách này thực hiện thường đạt hiệu quả thấp, do vậy trong quá trình thực hiện,
13
nhiều chính sách thuyết phục có khuynh hướng chuyển thành chính sách có tính
cưỡng chế, bắt buộc. Ví dụ: chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách xóa mù
chữ, chính sách phịng chống HIV/AIDS, v.v..
KẾT LUẬN
Chính sách cơng là chuyên ngành mới ở Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát
triển khác. Việc nghiên cứu chính sách cơng khơng chỉ hiểu rõ những vấn đề lý
thuyết, mà cao hơn là nhằm vận dụng lý thuyết và bằng chứng thực tiễn để thiết kế,
triển khai và đánh giá chính sách, từ đó thực hiện đúng chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, cải thiện, nâng cao đời sống của người
dân. Tuy nhiên, để hiểu và vận dụng một cách có hiệu quả vào cơng việc hoạch
định, đề ra sách cơng phải là một q trình tích lũy, nghiên cứu lý luận, kết hợp
thực tiễn kiến thức xã hội, tự nhiên rộng và kiến thức chuyên ngành sâu. Trong
phạm vi bài thu hoạch này, học viên khái qt sự phát triển của khoa học chính
sách cơng, một số vấn đề lý luận về khái niệm chính sách, chính sách cơng; phân
loại chính sách cơng làm tiền đề cho những nghiên cứu và vận dụng lý thuyết mon
chính sách cơng vào thực tiễn cơng tác hiện nay.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Chính trị học, Tài liệu giảng dạy cao học mơn Các q trình chính
trị ở Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội
2014.
2. Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tun truyền, Giáo trình Chính
sách cơng, Nxb chính trị quốc gia, Hà nội, 2012.
3. Lưu Văn Quảng (2013), Các q trình chính trị, trong “Tập bài giảng
dành cho chương trình cao học chính trị học”, Hà Nội.
4. Ngô Huy Đức (chủ biên) (2009), Xây dựng khung lý thuyết và cơng cụ
nghiên cứu giảng dạy chính sách cơng trong chính trị học, Đề tài Khoa
học cấp Viện.
5. Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học (2006), Lựa chọn công
cộng – Một tiếp cận nghiên cứu chính sách cơng (Tài liệu tham khảo –
Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
6. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách cơng của Hoa Kỳ giai đoạn 1935- 2001,
NXB Thống Kê, Hà Nội