i
MỤC LỤC
*
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
5. Ý nghĩa của đề tài................................................................................2
6. Kết cấu tiểu luận..................................................................................2
NỘI DUNG.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1. SỰ THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CAN THIỆP
CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC...............................................................3
1.1. Khái quát về thuật ngữ sự thất bại của thị trường............................3
1.2. Các trường hợp thất bại của thị trường ...........................................3
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM.................................................................................................17
2.1. Nhận thức về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở nước ta. .16
2.2. Vai trò của Nhà nước trong can thiệp vào các khuyết tật, thất bại của
thị trường ................................................................................................18
2.3. Những hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường ở
nước
ta..............................................................................................................21
2.4. Định hướng chính sách trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước
và thị trường ở nước ta thời gian tới........................................................22
KẾT LUẬN....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................27
1
MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Trên một khía cạnh nhất định, lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường là
lịch sử của quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Quan
hệ giữa nhà nước và thị trường là quan hệ tương hỗ, tùy thuộc nhau, tuy nhiên
việc giải quyết mối quan hệ này trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế có sự
khác nhau và không giống nhau giữa các nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước và thị trường đều có vai trị và chức
năng riêng. Bản thân thị trường luôn vận hành theo các quy luật vốn có khách
quan và trên thực tế cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bổ và khai
thác các nguồn lực. Song thị trường vận động tự do ln có xu hướng đẩy nền
kinh tế vào tình trạng khơng ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những
khiếm khuyết cố hữu, địi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
để khắc phục. Tuy nhiên, nhà nước cũng có hạn chế và cũng thất bại khi can
thiệp quá mức. Chính sự khiếm khuyết của thị trường và hạn chế của nhà nước
cho thấy: không thể phát triển khi thiếu vắng sự can thiệp của nhà nước, cũng
như không thể phát triển nếu thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi nhà
nước và thị trường cần tương tác, hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết.
Bản thân vai trò, chức năng của nhà nước và thị trường cũng có biến đổi,
gắn liền với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế, thị trường mang tính tồn cầu, nhà nước chú trọng
hơn đến vai trị điều tiết, trong đó đối tượng điều tiết cũng mở rộng, gồm cả các
tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các tổ chức quốc tế... Và điều quan trọng hơn,
trong một thị trường ngày càng toàn cầu hóa địi hỏi việc thiết lập các quy tắc,
luật chơi mới phải tính đến sự phù hợp với các địi hỏi của các chủ thể của tồn
cầu hóa, có nghĩa rằng những quy định này không thể chỉ là sản phẩm của riêng
nhà nước, mà phải tính đến sự tương thích và phù hợp với chuẩn mực phổ biến
chung trong nền kinh tế toàn cầu.
2
Xuất phát từ vai trò quan trọng như trên, đồng thời cũng là nhiệm vụ hồn
thành mơn học, vì vậy, qua việc học tập môn Hoạch định và thực thi chính sách
cơng, người viết lựa chọn đề tài “Các thất bại của thị trường và sự can thiệp
chính sách của nhà nước – liên hệ ở Việt Nam” để làm bài tiểu luận điều kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những nội dung về sự thất bại, các khuyết tật của thị trường
và sự can thiệp bằng chính sách của nhà nước để khắc phục những thất bại và
khuyết tật đó. Liên hệ về mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường, trong đó có sự can thiệp bằng chính sách của nhà nước vào các thất bại
của thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài nội dung các thất bại của thị trường, nội
dung can thiệp chính sách của nhà nước vào thất bại của thị trường. Đồng thời
làm rõ thực tiễn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam về việc hoạch định và thực thi chính sách cơng, trong
đó có chính sách can thiệp của Nhà nước vào các thất bại của thị trường.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ lý luận về mối quan hệ của
nhà nước và thị trường, sự can thiệp vào các thất bại của thị trường bằng chính
sách cơng của nhà nước. Qua đó cũng liên hệ thực tiễn Việt Nam.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. SỰ THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CAN THIỆP
CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. Khái quát về thuật ngữ sự thất bại của thị trường
Thuật ngữ sự thất bại của thị trường có nguồn gốc từ các lý thuyết phương
Tây và chỉ xuất hiện ở nước ta từ những năm 1990. Thất bại hay kém hiệu quả
của thị trường là trung tâm của lập luận về vai trị của nhà nước trong nền kinh
tế thị trường.
Do tính cạnh tranh tự do, trong nhiều trường hợp thị trường không tự điều
chỉnh đến điểm tối ưu sản xuất cho xã hội. Hay nói cách khác, kinh tế tư nhân sẽ
giúp các cá nhân tối ưu hóa lợi ích của mình, nhưng khơng phải lúc nào cũng
đem lại lợi ích tối ưu cho xã hội.
Các thất bại của thị trường là tình huống trong đó điểm cân bằng (tối ưu)
trong các thị trường tự do cạnh tranh không đạt được sự phân bổ hiệu quả
(khơng sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức như xã hội mong muốn).
Có bốn trường hợp điển hình mà ở đó tính tư lợi và duy lý dẫn đến các kết
quả làm tổn hại lợi ích chung của tồn bộ xã hội. Bốn trường hợp đó là hàng hóa
cơng, hiệu ứng ngoại vi, độc quyền và bất đối xứng thông tin.
1.2. Các trường hợp thất bại của thị trường
1.2.1. Hàng hóa cơng
Trong thực tế, có những hàng hóa dịch vụ mà việc sử dụng dù nhiều của
một cá nhân không ảnh hưởng đến việc sử dụng của một cá nhân khác. Các hàng
hóa, dịch vụ như vậy có đặc điểm là tính dùng chung (tính khơng cạnh tranh
trong sử dung).
- Khái niệm: hàng hóa cơng là loại hàng hóa, dịch vụ có tính dùng chung
(tính khơng cạnh tranh) và khơng có tính loại trừ trong sử dụng.
- Các đặc tính của hàng hóa cơng:
+ Tính dùng chung (tính khơng cạnh tranh): nhiều người có thể tiêu dùng
cùng lúc mà khơng làm tăng thêm chi phí để cung cấp, hoặc khơng làm thay đổi
4
mức độ thoả mãn của người thứ nhất. Nói cách khác, chi phí phục vụ cho một
người tiêu dùng mới bằng 0. Tính dùng chung này gợi ý rằng một khi có các vật
phẩm, dịch vụ như vậy, chúng ta nên cho càng nhiều người sử dụng càng tốt vì
chúng khiến có nhiều người hạnh phúc hơn trong khi khơng làm ai bị thiệt hại,
và cũng không cần phải tăng thêm chi phí cho việc có thêm người sử dụng. Các
ví dụ về hàng hóa cơng có thể kể đến như: dịch vụ quốc phịng, bảo vệ chất
lượng khơng khí, dịch vụ cung cấp hải đăng..v..v
+ Tính khơng loại trừ: Nếu một người tiêu dùng hàng hố này, khơng thể
ngăn cản người khác cũng tiêu dùng nó. Các hàng hóa dịch vụ này cịn có một
tính chất nữa là khơng thể (hoặc rất khó) cấm người khác sử dụng. Chúng ta sẽ
gọi đây là tính khơng loại trừ. Một người th một nhạc cơng biểu diễn trên
đường phố thì anh ta cũng không thể ngăn cản những người đi đường dừng lại
nghe nhạc. Một người yêu hoa trồng hoa trên mảnh đất của mình nằm ngay sát
mặt phố, thì anh ta cũng không thể cấm cản những người đi trên phố được ngắm
hoa do chính anh ta trồng và chăm sóc. Đó là các hàng hóa do tư nhân cung cấp,
nhưng nó khơng thể loại trừ những người hưởng lợi. Hay nói cách khác, đối với
các loại hàng hóa này, chi phí để ngăn cản người khác sử dụng, hưởng lợi quá
lớn, nên không ai làm việc này.
- Phân biệt các loại hàng hóa cơng thuần túy và khơng thuần túy:
+ Hàng hóa cơng thuần túy là loại hàng hóa hội đủ cả hai thuộc tính dùng
chung (khơng cạnh tranh) và khơng loại trừ. Ví dụ như dịch vụ quốc phòng; an
ninh trật tự, hải đăng, pháo hoa, đường phố sạch sẽ; con đường thưa người
khơng thu phí.
+ Hàng hóa cơng khơng thuần túy: là hàng hóa thiếu một trong hai thuộc
tính trên. Chẳng hạn như các loại nguồn lực cộng đồng (có hạn) như: cá ở đại
dương, bãi biển công cộng, công viên đông người, con đường đông người khơng
thu phí.
Đối lập với hàng hóa cơng (public goods) là hàng hóa tư nhân (private
goods) có đặc tính dùng riêng và tính loại trừ. Ví dụ nhà cửa, thức ăn, quần áo,
sách vở… Do có đặc tính dùng riêng và loại trừ, tức sự tiêu dùng của một người
5
đồng thời cũng khiến người khác không thể sử dụng chúng. Và nếu muốn, người
chủ sở hữu sẽ dễ dàng ngăn cản người khác sử dụng với chi phí thấp. Có những
loại hàng hóa cơng nhưng có thể do tư nhân cung cấp, chẳng hạn như vệ sinh
môi trường, chăm sóc cơng viên, sản xuất vũ khí.
- Định lý về kẻ ăn theo (Free rider problem):
Do đặc tính của hàng hóa cơng là có tính dùng chung và tính khơng loại trừ
nên trên thị trường không ai muốn cung cấp. Ai cũng có động cơ đợi người khác
cung cấp, sản xuất, mà mình thì được hưởng lợi, được sử dụng (vì một khi
người ta dùng loại hàng hóa này, họ khơng thể ngăn cản mình sử dụng chúng.
Đây được gọi là vấn đề về kẻ ăn theo. Trong các trường hợp như vậy, các cá
nhân xuất phát từ tính tư lợi và duy lý sẽ ln có khuynh hướng lựa chọn
phương án “ăn theo”, tức đợi người khác làm khác làm để mình hưởng lợi và
hơn thế nữa, có động cơ che giấu sở thích của mình và thúc đẩy người khác làm.
Vấn đề kẻ ăn theo xuất hiện ở khắp mọi nơi, trong mọi lĩnh vực.
- Tại sao hàng hóa cơng là một thất bại của thị trường:
Đối với hàng hóa cơng, nan giải của tính dùng chung và không loại trừ
khiến cho tư nhân sẽ không chọn cách cung cấp hàng hóa đó ra thị trường. Vì
một khi cung cấp nó, họ khơng có khả năng thu hồi chi phí và khơng có lợi
nhuận. Kết hợp cả hai tính chất này đưa đến một thực tế là: các hàng hóa cơng
gần như khơng tồn tại trên thị trường. Chính vì vậy, thị trường sẽ thất bại trong
việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cơng này.
- Giải pháp đối với hàng hóa cơng:
Hàng hóa cơng có nhất thiết phải do nhà nước cung cấp? Trong các trường
hợp này, nhà nước có thể đóng vai trị là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơng
bằng cách đạt được thỏa thuận chung về lựa chọn tối ưu và áp đặt các chi phí
cho tất cả thành viên của cộng đồng. Nhà nước cũng có thể tổ chức cung cấp
hàng hóa công thông qua việc sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế, bắt
buộc mọi người đóng thuế để chi phí cho việc cung cấp các loại hàng hóa cơng
(mua vũ khí, ni qn đội, th người chăm sóc đồng cỏ…). Ngoài ra, nhà
6
nước có thể chi tiền và tổ chức đấu thầu để tư nhân thực hiện cung cấp các hàng
hóa cơng như: làm đường, xây cầu cống, công viên…
Tuy nhiên, do nguồn lực của nhà nước và xã hội là có hạn nên nhà nước
không thể cung cấp tất cả các loại hàng hóa cơng.
Nhìn chung, nhà nước thường cung cấp miễn phí hàng hóa cơng thuần túy.
Nhà nước có thể thu phí đối với hàng hóa cơng khơng thuần túy, (có tính loại
trừ). Mục đích tính giá, phí là để khuyến khích sử dụng nguồn lực hiệu quả, tạo
thêm nguồn thu cho ngân sách.
Ba loại hàng hóa cơng chính được tính giá và thu phí gồm: Các tiện ích
cơng như điện, nước, thông tin liên lạc; Cơ sở vật chất công: công viên, bãi biển,
giao thông; Các dịch vụ công: giáo dục đại học, bưu điện, thu gom rác.
Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơng của nhà nước phải dựa
trên nguyên tắc: Nhà nước chỉ làm những việc mà các cá nhân hay thị trường
không thể làm hoặc làm không hiệu quả. Nếu nhà nước không làm, để tư nhân,
thị trường làm, hoặc khơng có ai làm sẽ gây thiệt hại cho toàn xã hội.
Ngoài ra, cũng cần phải chú ý: việc nhà nước cung cấp hàng hóa cơng cũng
có khả năng thất bại hay kém hiệu quả như thị trường. Một mặt do nhà nước sử
dụng quyền lực và nguồn lực chung của cộng đồng, xã hội nên dễ có nguy cơ
dẫn đến lãng phí, thất, thốt và thậm chí tham nhũng. Mặt khác, bản thân nhà
nước cũng có thể khơng nắm bắt đúng tín hiệu, nhu cầu của thị trường, xã hội
nên dẫn tới việc nhà nước sản xuất, cung cấp quá nhiều, hoặc quá ít hàng hóa,
dịch vụ cơng.
Trên thực tế, ở một số nước, nhà nước có động cơ cung cấp quá nhiều cơ sở
hạ tầng nếu việc này giúp các chính trị gia nâng cao khả năng “tái cử”. Hoặc nhà
nước có động cơ để cung cấp các hàng hóa dịch vụ cơng có mức độ nhạy cảm
chính trị thấp và khó nhận biết. Ví dụ dịch vụ nghiên cứu và phát triển q ít có
thể dẫn tới nút thắt tăng trưởng kinh tế. Cả hai khả năng trên đều dẫn tới phân
bổ không hiệu quả nguồn ngân sách làm thiệt hại tới phúc lợi xã hội. Điều này
cũng xảy ra khi chính phủ áp đặt quá nhiều quy định. Do vậy, cần tối thiểu hóa
các mất mát phúc lợi thơng qua việc ngăn ngừa “thất bại của nhà nước”.
7
1.2.2. Ngoại ứng
- Khái niệm và đặc điểm:
Hiệu ứng ngoại vi (gọi là ngoại ứng) là các trường hợp hoạt động của một
chủ thể khơng chỉ có lợi (hay có hại) đối với chủ thể đó mà cịn có các tác động
đối với người khác. Đó là khi một cá nhân hoặc tập thể hoạt động (sản xuất, kinh
doanh…) sẽ ảnh hưởng đến đối tác, hoặc bên thứ ba. Trong khi hoạt động, các
chủ thể này khơng tính đến việc gây ảnh hưởng đến người khác, họ chỉ nhằm
vào mục đích thu lợi cho bản thân. Có thể nói, ngoại ứng là tác động ra bên
ngoài do hành vi của đối tượng tạo ra đối với phúc lợi của người ngồi cuộc.
Hiệu ứng ngoại vi có hai loại:
+ Ngoại ứng tích cực là các tác động làm tăng lợi ích, hoặc giảm chi phí
cho người khác. Chẳng hạn việc một trang trại trồng táo nằm bên cạnh một trang
trại nuôi ong có thể đem lại lợi ích cho cả hai bên. Các dịch vụ khác như: y tế dự
phòng (ngăn chặn bệnh truyền nhiễm), giáo dục cộng đồng, nghiên cứu khoa
học cơ bản, nâng cấp nhà ở cũng là những hoạt động có ngoại ứng tích cực.
+ Ngoại ứng tiêu cực là các tác động làm giảm lợi ích, hoặc tăng chí phí
của người khác. Ví dụ: việc bật nhạc to, hàng xóm ồn ào có thể gây ảnh hưởng
đến người khác; xây các khu công nghiệp gây ô nhiễm mơi trường, ơ nhiễm
nguồn nước (ví dụ nhà máy Vedan, Formusa); các nhà máy sản xuất gây ra tiếng
ồn, khói bụi, hút thuốc lá...làm suy giảm sức khỏe, tăng chi phí khám chữa bệnh
cho người dân trong vùng.
- Tại sao ngoại ứng là một thất bại của thị trường:
Ngoại ứng dẫn đến việc sử dụng nguồn lực không hiệu quả (phúc lợi xã hội
khơng lớn nhất). “Trong trường hợp có ngoại ứng tiêu cực, thị trường sẽ không
đưa đến kết quả tối ưu cho xã hội như lý thuyết “bàn tay vơ hình” lập luận. Lý
do chính ở đây là sự lựa chọn tối ưu từ góc độ cá nhân, do khơng bao gồm các
chi phí và lợi ích của người khác (mà hành động của mình gây ra) sẽ đưa tới các
kết quả khơng tối ưu đối với tồn bộ xã hội”. Ngay cả khi xuất hiện ngoại ứng
tích cực thì thị trường ln tạo ra một mức sản lượng thấp hơn mức tối ưu của
8
xã hội. Khi đó, nếu khơng có sự điều chỉnh của nhà nước, xã hội sẽ bị tổn thất
một khoản phúc lợi xã hội.
- Các giải pháp để khắc phục các ngoại ứng:
Các loại ngoại ứng thường diễn ra khá đa dạng và phức tạp. Do vậy, thường
khơng có giải pháp duy nhất phù hợp cho mọi tình huống. Do tính chất của
ngoại ứng, tư nhân thường khơng quan tâm và khơng có động cơ để khắc phục
ngoại ứng. Nhà nước cần dùng quyền lực để can thiệp thông qua các cơng cụ
như thuế, quy định, hình phạt đối với ngoại ứng tiêu cực.
Khi lựa chọn giải pháp khắc phục ngoại ứng, các nhà hoạch định chính
sách cần chú ý đến nhiều tiêu chí. Thứ nhất là làm thế nào để có sự tự nguyện
của các chủ thể trong khắc phục ngoại ứng là tốt nhất. Tiếp đến cần có sự ngăn
cấm hoặc hình phạt rõ ràng nếu khơng khắc phục các ngoại ứng tiêu cực. Nhà
nước có thể sử dụng thuế để đánh vào hàng hóa gây ngoại ứng tiêu cực. Khi cần
thiết, nhà nước có thể ra những chỉ thị (yêu cầu cắt giảm một lượng ô nhiễm
nhất định). Ngồi ra nhà nước cũng có thể dùng các biện pháp điều tiết nhất định
(phân bổ nguồn lực, xác định tiêu chuẩn chất thải, tiêu chuẩn kỹ thuật) và thực
hiện kiểm sốt khí thải; cung cấp giấy phép xả thải hoặc thu phí xả thải.
Đối với ngoại ứng tích cực, vấn đề là làm thế nào nhà nước có thể thúc đẩy
mức sản lượng của thị trường lên ngang bằng mức tối ưu của xã hội. Cách thông
dụng nhất là nhà nước có thể bằng các biện pháp khuyến khích, vinh danh hoặc
hỗ trợ, hoặc trợ cấp cho các chủ thể sản xuất hàng hóa có ngoại ứng tích cực.
Trong thực tế, các nhà nước cũng đã tiến hành trợ cấp cho ngoại ứng tích cực
bằng cách cung cấp những dịch vụ công với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, việc trợ cấp cũng dễ dẫn tới hệ quả là tạo thêm gánh nặng cho người
trả thuế, tạo ra sự phân phối lại cho người trả thuế sang người được nhận.
- Giải pháp của tư nhân:
Bên cạnh các giải pháp của nhà nước, các cá nhân và chủ thể khác trên thị
trường cũng có những nỗ lực hay động cơ khắc phục ngoại ứng nhất định tùy
thuộc vào tầm nhìn, giá trị, chuẩn mực đạo đức mà họ theo đuổi. Họ có thể sử
dụng hệ thống giá trị để thuyết phục, giáo dục các chủ thể khác trên thị trường
9
về tinh thần trách nhiệm, đạo đức kinh doanh, đạo đức cơng dân thơng qua các
tổ chức cộng đồng.
Ngồi ra, họ cũng có thể tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo, trợ giúp,
nhất là đối với các đối tượng bị thiệt hại, mất mùa, cá chết, gom tiền giúp người
bệnh do bị ảnh hưởng đi chữa bệnh. Thông qua các hoạt động này cùng với việc
tổ chức các cuộc diễu hành, mít tinh, các phong trào ở cơ sở nhằm thu hút sự
chú ý và thay đổi quan niệm, nhận thức của cộng đồng, xã hội và cả nhà nước
đối với các ngoại ứng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội.
- Các tiêu chí lựa chọn giải pháp:
Các giải pháp khắc phục ngoại ứng luôn là khó khăn và phức tạp vì ln
đụng chạm đến các nan giải giữa một bên là nhu cầu của cuộc sống hiện tại, lợi
ích trước mắt nhưng cần thiết đối với một bộ phận dân cư trong xã hội, và bên
kia là chi phí của nhóm khác, hoặc chi phí chung của cộng đồng tuy lớn nhưng
lại trả dần từng phần nhỏ theo thời gian. Vì vậy để có tính khả thi và hiệu quả
khi lựa chọn các giải pháp, cần phải tính đến những tiêu chí như: tính hiệu quả
(chẳng hạn một mức độ giảm ơ nhiễm có thể chấp nhận được, chọn mức xả thải
tối ưu); tính cơng bằng (phân chia lợi ích và chi phí giữa các nhóm gánh chịu và
gây ra ngoại ứng); dễ quản lý, dễ thực hiện; tính linh hoạt (điều kiện thị trường
thay đổi, thông tin mới, kỹ thuật được cải tiến); tính khơng chắc chắn (do khơng
thể tiên liệu hết các tác động của ngoại ứng nên giải pháp cũng luôn cần có sự
thay đổi, điều chỉnh) và các động cơ khuyến khích thực hiện giải pháp.
1.2.3. Độc quyền
- Độc quyền là trạng thái thị trường có duy nhất một chủ thể hay một nhóm
chủ thể có khả năng sản xuất và bán sản phẩm theo giá áp đặt của mình trên thị
trường.
Các trường hợp cụ thể như: Một người bán – nhiều người mua; một sản
phẩm khơng có sản phẩm thay thế; có rào cản ngăn các nhà cung cấp khác tham
gia thị trường.
- Có hai trường hợp độc quyền:
+ Độc quyền cấu kết: khi các chủ thể, thay vì cạnh tranh lại cấu kết với
10
nhau để tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Sự cấu kết trong thực tế có thể diễn ra ở tất cả
các ngành, nhưng đặc biết là ở trong các ngành chỉ có một số ít các nhà sản xuất
lớn, dễ thỏa thuậu, đàm phán với nhau như trong dầu khí, viễn thông... Với sự
cấu kết này, cả xã hội sẽ bị thiệt hại vì các chủ thể hạn chế sản xuất, khiến giá
tăng ở mức tối ưu đối với họ vì đem lại lợi nhuận lớn nhất, nhưng lại khơng tối
ưu đối với xã hội. Do vậy, thông thường nhà nước cần có các luật chống độc
quyền cấu kết, hoặc có các chính sách hạn chế khả năng cấu kết ngầm.
+ Độc quyền tự nhiên: do tính chất của hoạt động dẫn tới theo thời gian sẽ
chỉ còn một chủ thể nắm độc quyền. Một số hàng hóa, dịch vụ một cách tự nhiên
đã mang tính độc quyền, chẳng hạn như đường trục cáp quang, đường tàu hỏa;
đường truyền điện… do chi phí cố định lớn. Ví dụ trong ngành điện, hệ thống
truyền tải sẽ do nhà nước quản lý, nhưng xây dựng các nhà máy điện thì tư nhân
có thể làm, phân phối điện đến tay người tiêu dùng thì có thể để tư nhân làm.
Độc quyền tự nhiên là loại độc quyền mà nếu để cạnh tranh có thể dẫn đến việc
sử dụng nguồn lực không hiệu quả.
- Nguồn gốc của độc quyền: độc quyền có thể được hình thành từ những
điều kiện khác nhau như: được sở hữu nguồn lực đặc biệt hoặc là kết quả của
quá trình cạnh tranh, do có khả năng giảm giá thành sản xuất. Độc quyền cũng
có nguồn gốc từ việc thực hiện chế độ bản quyền đối với phát minh, sáng chế,
quyền sở hữu trí tuệ. Ngồi ra, sự cho phép hay nhượng quyền của của nhà nước
thường là hợp thức hóa độc quyền tự nhiên để đảm bảo các mục đích của nhà
nước. Đơi khi những quy định của nhà nước hay các rào cản đối với các chủ thể
khác gia nhập thị trường cũng tạo nên sự đồng quyền cho các chủ thể nhất định..
- Các thất bại do độc quyền đem lại:
Độc quyền cũng có thể làm cho thị trường khơng cịn hiệu quả. Lập luận
chính ở đây là do khơng có cạnh tranh, người độc quyền sẽ thao túng giá cả và
khối lượng sản xuất khiến cả xã hội bị thiệt hại tuyệt đối về phúc lợi. Vấn đề của
sự độc quyền: một nhà độc quyền có động cơ áp đặt mức giá độc quyền – một
mức giá cao hơn chi phí cung cấp cận biên của anh ta. Nói cách khác, độc quyền
gây tổn thất phúc lợi xã hội. Nếu độc quyền, xã hội có thể sẽ có thể chỉ đạt điểm
11
hiệu quả mà khơng đạt điểm tối ưu vì khơng có sức ép cạnh tranh. Độc quyền
khơng chỉ gây ra tổn thất vơ ích cho xã hội mà cịn làm mất động cơ thúc đẩy cải
tiến trong kinh tế và cơng nghệ. Do vậy, vai trị của nhà nước trong các trường
hợp này là phải tạo ra sức ép, áp đặt các điều chỉnh hoặc các luật lệ khác để tạo
sức ép đó.
- Các giải pháp khắc phục độc quyền của nhà nước:
Đối với độc quyền tự nhiên, nhà nước thường trực tiếp áp đặt giá trần để
kết hợp hài hịa cả lợi ích doanh nghiệp với lợi ích xã hội. Một số nước chủ
trương nhà nước sẽ nắm giữ sở hữu các doanh nghiệp này. Trường hợp kinh điển
về độc quyền tự nhiên là ngành đường sắt, điện lực. Với sự phát triển của công
nghệ và nhận thức, ngày nay các nhà nước trên thế giới không nhất thiết sở hữu
tồn bộ các ngành này, mà đa dạng hóa sở hữu ở những khâu nhất định.
Đối với độc quyền tự nhiên – trường hợp của nhiều ngành dịch vụ cơng,
nhà nước thường cung cấp các loại hàng hóa này, vì để thị trường làm sẽ khơng
tối ưu. Do nhà độc quyền có động cơ áp đặt mức giá cao hơn nhiều so với chi
phí cung cấp nên độc quyền dẫn đến sự giảm hiệu quả (sản xuất và phân bổ) nên
làm tăng giá cả và giảm chất lượng, sử dụng khơng hết các nguồn lực. Trong khi
đó lợi nhuận cao (siêu lợi nhuận của các nhà độc quyền) làm tăng bất bình đẳng
về thu nhập trong xã hội.
Một nỗ lực quan trọng của nhà nước là tập trung vào việc ban hành và thực
hiện luật chống độc quyền, nhất là đối với độc quyền cấu kết. Nhà nước cũng
đưa ra các quy định cho phép các cơ quan chức năng được thường xuyên kiểm
tra việc định giá và cung ứng sản lượng của các chủ thể sản xuất, cung ứng dịch
vụ. Bên cạnh đó, nhà nước có thể khuyến khích sự cạnh tranh bằng cách hạ thấp
các rào cản gia nhập thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Nhà nước thực hiện kiểm soát giá cả đối với các lĩnh vực độc quyền và khi
cần thiết phải quy định giá trần buộc các nhà độc quyền phải bán sản phẩm ở
mức giá cạnh tranh. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để cơ quan nhà nước
xác định chính xác giá trần, nếu không sự can thiệp sẽ dẫn đến nhiều tác động
12
xấu trên thị trường và khả năng cơ quan này cũng có thể bị các hãng độc quyền
thao túng, chi phối trong việc xác định giá. Ngoài ra, nhà nước cũng có thể điều
tiết thơng qua hệ thống thuế nhằm làm giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch, góp phần
phân phối lại cho xã hội. Tuy nhiên, việc can thiệp bằng thuế cũng nên cẩn trọng
vì dễ dẫn đến tình trạng giảm sản lượng và tăng giá, khi đó người tiêu dùng lại là
người trả một phần thuế.
1.2.4. Bất đối xứng thông tin (asymmetric information)
- Khái niệm bất đối xứng thông tin là tình trạng có thơng tin khác nhau giữa
các chủ thể trên thị trường trong các mối quan hệ với nhau. Nói cách khác, bất
đối xứng thơng tin là tình trạng trong một giao dịch một bên có thơng tin đầy đủ
hơn và tốt hơn so với bên còn lại, làm giảm tính hiệu quả của thị trường. Ví dụ
ln có sự khác nhau nhất định về thơng tin giữa người sản xuất và người tiêu
dùng, người chủ và thợ, người mua và người bán.
Trong thực tế hoạt động của cạnh tranh trên thị trường, người ta nhận thấy
rằng giữa các chủ thể ln có sự bất đối xứng thông tin. Do sự bất đối xứng này
mà thị trường có thể khơng đưa lại các kết quả tối ưu. Trường hợp điển hình
kinh điển là giữa người mua và người bán ô tô cũ. Do thông tin của người bán
khác với người mua, do vậy người ta đành phải điều chỉnh kỳ vọng khiến cho thị
trường sẽ đạt điểm cân bằng ở mức khơng tối ưu. Tình trạng bất đối xứng thông
tin hiện diện trong nhiều lĩnh vực như: Ngân hàng; Thị trường nhà đất; Thị
trường lao động; Thị trường hàng hóa; Thị trường y tế; Thị trường bảo hiểm; Thị
trường chứng khốn; Thị trường đồ cũ. Trong đó, 3 trường hợp kinh điển đã
được các sách báo chuyên ngành chỉ ra là : Lựa chọn ngược (Adverrse
selection), Rủi ro đạo đức (Moral hazard), và vấn đề chủ - đại diện (Principal agent).
- Lựa chọn ngược (lựa chọn bất lợi): nổi bật là thị trường bảo hiểm. Chỉ có
các cá nhân mới biết tình trạng sức khỏe thực của mình mà các cơng ty bảo hiểm
khơng biết. Do vậy, để tránh rủi ro cao, các công ty phải nâng chi phí bảo hiểm
trung bình lên. Cuối cùng, những người khỏe sẽ khơng tham gia mua bảo hiểm,
khách hàng chính của cơng ty bảo hiểm chỉ là những người có rủi ro cao (hoặc
13
có bệnh). Nguy cơ này có thể sẽ khiến thị trường bảo hiểm bị biến mất. Trường
hợp này cũng tương tự trường hợp chợ đồ cũ. Cuối cũng, thị trường đồ cũ có thể
biến mất vì các đồ cũ chất lượng cao sẽ bị thay thế bằng các đồ cũ chất lượng
thấp (nhưng chỉ có người chủ biết) tham gia. Khách hàng biết được chính điều
đó lại càng điều chỉnh giá thấp xuống dẫn đến kết cục đồ xấu chiếm chỗ đồ tốt.
Sự mua bán đồ cũ bị ngưng trệ vì chỉ có thể qua các kênh truyền thơng đáng tin
cậy hơn như bạn bè người quen.
- Rủi ro đạo đức: chỉ trường hợp cá nhân ỷ lại. Ví dụ một khi tơi được bảo
hiểm thì lại khơng chú ý giữ gìn sức khỏe, ỷ lại vào bảo hiểm. Các công ty bảo
hiểm biết được nên lại nâng kỳ vọng. Các động thái diễn ra sẽ dẫn đến thị
trường đạt điểm không tối ưu, tức các khách hàng càng vô trách nhiệm. Điều
tương tự với đầu thầu và nhà nước đứng ra bảo lãnh. Nhưng người bỏ thầu thấp
(và nắm giữ thơng tin về hiệu quả thực sự của mình) có thể sẽ lại ln thắng
thầu. Nói cách khác, đó là tình trạng cá nhân hay tổ chức khơng cịn động cơ để
hành động một cách hợp lý như trước khi giao dịch xảy ra. Chẳng hạn người đã
mua bảo hiểm thường có những hành xử nhiều rủi ro như giữ gìn tài sản khơng
cẩn thận; trang bị dụng cụ phịng cháy kém hoặc ít kiểm tra định kỳ; hay người
đã có học hàm, học vị khơng cố gắng nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức;
Nhà sản xuất không xử lý ô nhiễm triệt để như đã cam kết trước khi được cấp
giấy phép.
Cũng tương tự như vậy trong quan hệ giữa người chủ và người đại diện: do
người được ủy quyền nắm giữ các thông tin nên có thể khiến cho sự giám sát,
khuyến khích - trừng phạt của người chủ khơng cịn hiệu quả.
Tính phi hiệu quả của thị trường do thông tin bất đối xứng. Khó khăn trong
việc thu thập đầy đủ thơng tin có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của trị
trường, khiến các nguồn lực được phân bổ không hiệu quả hoặc là quá nhiều
hoặc là quá ít cho thị trường so với mức hiệu quả của xã hội. Mặt khác, sự bất
đối xứng thơng tin tạo điều kiện cho bên có đầy đủ thông tin hơn lợi dụng ưu thế
này để giành lợi ích cho mình từ sự thiệt hại của bên kia. Khi đó cần có sự can
thiệp của nhà nước để có thể bổ sung, cung cấp thêm thơng tin cho thị trường
14
hoặc giám sát, kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về thơng tin để thị
trường hoạt động suôn sẻ.
- Các giải pháp khắc phục bất đối xứng thông tin:
+ Giải pháp của nhà nước:
Nhà nước thông qua các kênh chính thức hoặc phương tiện truyền thơng để
cung cấp thơng tin chính thức cho xã hội về các vấn đề quan trọng như: quy
hoạch; dịch bệnh; về nhà đầu tư; dự báo về cung cầu thị trường trong nước và
quốc tế.
Nhà nước cũng phải thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để hạn chế
và ngăn ngừa việc các chủ thể trên thị trường lợi dụng sự bất đối xứng thông tin
để kiếm lợi trên cơ sở làm thiệt hại đến lợi ích của người khác. Hệ thống thể chế
bao gồm có: các quy định bắt buộc về tính minh bạch; Quy định về tính trung
thực trong quảng cáo, nhãn mác để chống hàng giả; quy định về kiểm tra, kiểm
soát chất lượng sản phẩm và cuối cùng là các có biện pháp chế tài, xử phạt.
Nhà nước cũng tổ chức thực hiện kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình hoạt
động), chẳng hạn vấn đề nổi cộm thời gian gần đây là vấn đề bảo đảm an tồn vệ
sinh thực phẩm trong q trình sản xuất. Nhà nước cũng có thể kiểm tra chất
lượng sản phẩm, chẳng hạn đối với thực phẩm để đảm bảo đúng chất lượng, đảm
bảo an tồn vệ sinh thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông.
Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất để đối chiếu thực tế và tiêu chuẩn đăng ký.
Ngồi ra, nhà nước có thể cấp giấy phép chứng nhận như: chứng nhận tư cách
pháp nhân; chứng nhận chất lượng sản phẩm.
+ Giải pháp tư nhân:
Thị trường cũng có những động cơ và nỗ lực nhất định để khắc phục bất
đối xứng thông tin nhằm tăng hiệu quả hoạt động. Chẳng hạn đối với quan hệ
mua bán: người mua có thể chủ động thu thập thơng tin, có thể thuê chuyên gia,
sử dụng thử,... Người bán cũng sẽ phát tín hiệu chứng minh uy tín của cửa hàng
thông qua danh tiếng, thương hiệu, cấp giấy bảo hành sản phẩm.
Đối với thị trường lao động: người xin việc phát tín hiệu thơng qua bằng
cấp, kinh nghiệm làm việc, đòi mức lương cao. Nhà tuyển dụng tiến hành phỏng
15
vấn, đề ra thời gian thử việc hoặc dùng hình thức giới thiệu, tín cử có trách
nhiệm.
- Vấn đề của ủy quyền và đại diện:
Là trường hợp một bên (người ủy quyền) tuyển dụng một bên khác (người
thừa hành) để thực hiện một hay những mục tiêu nhất định. Trong quan hệ này
có thể xảy ra các khả năng như: người thừa hành có thể theo đuổi mục tiêu khác
với người chủ hoặc và có thể sử dụng những nguồn lực để chống lại người chủ.
Hơn nữa, do tính chất công việc, người thừa hành thường nắm giữ các thông tin
quan trọng nên khiến sự kiểm soát, trừng phạt của người chủ khơng cịn hiệu
quả. Như vậy, bản chất của vấn đề giữa người chủ và người đại diện là nguồn
lực hoặc quyền lực trao cho một đại diện vì mục đích nâng cao lợi ích của chủ
có thể được sử dụng quay trở lại chống chính người chủ (nghịch lý Madison).
Trong xã hội, tồn tại khá phổ biến quan hệ chủ - đại diện như: quan hệ giữa
người ủy quyền - người thừa hành: hội đồng quản trị - giám đốc; tổng giám đốc
- giám đốc chi nhánh; quan hệ giữa người dân - đại biểu dân cử; quốc hội chính phủ; hội đồng nhân dân -ủy ban nhân dân; chủ tịch tỉnh - giám đốc sở; ông
chủ - người lao động…
- Giải pháp cho vấn đề người ủy quyền - người thừa hành:
+ Thiết kế hợp đồng: người ủy quyền thiết kế hợp đồng xác định rõ ràng
thẩm quyền, trách nhiệm và lợi ích của hai bên. Đây chính là hợp đồng giao
nhiệm vụ, quy định rõ các điều khoản thù lao tương ứng theo cách mà người đại
diện có động cơ phục vụ tốt nhất lợi ích của người chủ. Những hợp đồng như
thế có thể quy định rõ những phần thưởng hoặc hình phạt đặc biệt khi người đại
diện có khả năng làm những việc cực kỳ nguy hại đối với người chủ.
Ngoài ra, người ủy quyền tạo ra động cơ khuyến khích để mục tiêu hai bên
phù hợp nhau chẳng hạn, trả lương và thưởng theo hiệu quả; thưởng bằng cổ
phiếu; giáo dục ý thức tự trọng nghề nghiệp; xây dựng các danh hiệu thi đua; cơ
hội thăng tiến.
+ Cơ chế thử nghiệm và lựa chọn: Người chủ có thể sử dụng các biện pháp
để tăng khả năng nhận biết được những người có kỹ năng và tài năng thích hợp
16
cùng với những thành tích cách cá nhân có thiên hướng cho sự hình thành quan
hệ chủ - đại diện. Đầu tư bắt buộc càng nhiều hơn trong việc quyết định thuê
người thì cơ chế thẩm định và lựa chọn càng trở nên quan trọng hơn.
+ Yêu cầu kiểm tra và báo cáo: Khi người chủ và người đại diện bước vào
mối quan hệ thì cách dễ làm nhất để loại bỏ những điều kiện cho những hoạt
động và thông tin bị che giấu là thiết lập những quy định yêu cầu người đại diện
phải báo cáo tất cả những thơng tin có liên quan mà họ có được, và bất kể hoạt
động nào mà họ thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề này cũng phải chịu chi phí và hạn
chế nhất định. Người ủy quyền cũng có thể thiết kế hệ thống kiểm tra theo các
hình thức như: tổ chức lấy phiếu tín nhiệm thường kỳ; cơ chế giải trình và giám
sát nghiêm ngặt.
+ Kiềm chế bằng thể chế: những kiềm chế về mặt thể chế đòi hỏi rằng khi
quyền lực đã được uỷ nhiệm cho một đại diện thì tối thiểu phải có một người đại
diện khác có quyền lực để phủ quyết hoặc ngăn cản hoạt động của người đại
diện đó. Các nhà lập hiến đã thiết lập nhiều thể chế kiềm chế gắn chặt với nhau
với ý định hạn chế bớt quyền lực ngày càng tăng của nhà nước trung ương do
họ tạo ra. Phần lớn các công ty cũng sử dụng hệ thống kiềm chế, chẳng hạn
những khoản chi tiêu lớn địi hỏi phải có sự chấp thuận của cả giám đốc và
người kiềm chế.
17
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở nước ta
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới dường như chúng ta chưa thực sự chú ý
đến mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Đã có giai đoạn chúng ta nhấn
mạnh đến vai trị nhà nước, nhà nước có vị trí tuyệt đối, thông qua nhà nước để
giải quyết các vấn đề liên quan đến xã hội, đến cuộc sống của người dân. Thị
trường chỉ xem như nơi diễn ra các hoạt động mua bán theo mục tiêu và kế
hoạch định sẵn (thậm chí khơng thừa nhận vai trị thị trường), dẫn đến hình
thành các thị trường khơng chính thức (khơng được phép). Với việc đổi mới,
chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý
của nhà nước, tuy chưa trực tiếp khẳng định mối quan hệgiữanhà nướcvà thị
trường, nhưng trong đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đều tốt lên sự gắn
bó giữa nhà nước và thị trường.
Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về mối quan hệ
nhà nước và thị trường ngày một rõ hơn.
Thứ nhất, xem quan hệ nhà nướcvà thị trường là một trong những mối quan
hệ lớn, quan trọng và cần xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trị, chức năng
và mối quan hệ của nhà nước và thị trường phù hợp với kinh tế thị trường. Thị
trường có khiếm khuyết, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước, nhưng thị
trường chính là đối tượng và nguồn thơng tin cho nhà nước hình thành các chính
sách và thực hiện chức năng điều tiết để bảo đảm môi trường tăng trưởng.
Thứ hai, nhận thức ngày càng cụ thể chức năng của nhà nước trong quan hệ
với thị trường.
Thứ ba, xác định rõ vai trò thị trường. Thống nhất khẳng định thị trường
đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Việc vận dụng cơ chế thị
trường phải đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn
18
lực, nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Và để thị trường phát huy
hiệu quả cần phải tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Thứ tư, xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với giải quyết các
vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu chính sách kinh tế với các mục tiêu
chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh,
bền vững.
Thứ năm, để giải quyết tốt mối quan hệgiữanhà nướcvà thị trường, Đảng ta
cũng chỉ rõ cần phải đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trị, chức năng của các
thành tố và mối quan hệ. Và khơng chỉ phải gắn bó giữa chính sách kinh tế với
chính sách xã hội, mà cần phải giải quyết hài hịa các lợi ích nhà nước, doanh
nghiệp và người dân, mới giải quyết tốt quan hệgiữanhà nướcvà thị trường. Tại
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII, Đảng ta chỉ rõ không chỉ nhấn quan hệ nhà
nước và thị trường mà còn nhấn đến thành tố xã hội trong quan hệ này và yêu
cầu xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trị, chức năng và mối quan hệ của
nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường. Quan điểm này
được tái khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng.
2.2. Vai trò của Nhà nước trong can thiệp vào các khuyết tật, thất bại
của thị trường
Trong điều hành thực tiễn, mối quan hệ nhà nước và thị trường ở Việt Nam
đã được quan tâm, vai trò nhà nước cũng như vai trò của thị trường đã thể hiện
ngày một rõ và hiệu quả.
Một là, Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trị "bà đỡ" cho thị trường hình
thành và phát triển. Đã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và
phát triển các loại thị trường, nên các thị trường có sự phát triển mạnh về quy
mô và chất lượng, các thị trường mới được hình thành; đã thực sự chủ động và
tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mơ giao dịch tăng
cao. Đồng thời “xã hội hố” một số nhiệm vụ của Nhà nước; “mở” ra nhiều
ngành, lĩnh vực trước đây là độc quyền của Nhà nước; Nhà nước rút lui dần khỏi
19
lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài
nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hai là, đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước,
bao gồm: 1) Phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản
xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; 2) Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và
can thiệptrực tiếpvào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; 3) Tách bạch chức năng quản lý
kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước
xoá bỏ “bộ chủ quản”.
Ba là, trong điều hành quản lý vĩ mô, Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh
lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng
dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”,
đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lấy thị trường
làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô
của nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các
chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh
vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng
hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa.
Bốn là, vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi trọng, thể hiện
rõ nét ở những điểm sau: 1). Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà
nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. 2). Thị trường/doanh
nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. 3). Thị trường là
căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững
chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định
chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết
tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. 4). Thị
trườngtham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân
chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
20
Năm là, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bản thân
doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường.
Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý
chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thối vốn
đầu tư ngồi ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung
nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng
hóa và dịch vụ cơng thiết yếu.
Sáu là, khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật
không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành
công của quá trình xử lý quan hệ nhà nước và thị trường trong những năm vừa
qua. Trên thực tế vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa
nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh
tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm… Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng
mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đồn lớn có khả
năng cạnh tranh trên thị trường.
Bảy là, phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản. Phát triển
doanh nghiệp xã hội là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ khi khái niệm doanh nghiệp xã hội được biết đến vào
những năm 2008 đến nay, doanh nghiệp xã hội đã phát triển đa dạng, có sức ảnh
hưởng đến chính sách của Nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Bên
cạnh các doanh nghiệp xã hội, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở,
trong những năm qua mơ hình tự quản khu dân cư đã phát triển khá đa dạng ở
nhiều địa phương như: tuyến đường tự quản, tự quản bảo vệ môi trường, tự quản
an ninh trật tự… đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan
trọng góp phần nâng cao vai trị thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng
trưởng, giám sát, bổ sung cho những khuyến khuyết của thị trường trong những
năm qua.
21
Tám là, trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính
sách đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nướcvà thị trường, tức
là có sự “phân vai” ngay trong q trình xây dựng chủ trương, chính sách, do
vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Sự
tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày
một rõ và hiệu quả.
2.3. Những hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường ở
nước ta
Việc xử lý quan hệ nhà nước và thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã
có kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên trong q trình đó cũng còn nhiều
vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Cụ thể là:
Thứ nhất, duy trì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm quy mô lớn, kém
hiệu quả hoạt động, chưa xác định rõ, cụ thể những lĩnh vực và khâu then chốt
Nhà nước cần nắm giữ. Khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận
hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ Nhà nước. Nguồn lực nhà nước
nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa thực sự tuân theo quy luật của kinh tế thị trường.
Thứ hai, Nhà nước còn hạn chế về năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị
trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường hoặc những thị trường
đặc biệt mà tư nhân không hoặc chưa tham gia. Đầu tư công của Nhà nước chưa
đủ sức “làm mồi”, “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường. Chưa tách
chức năng dịch vụ công khỏi quảnlý hành chính nhà nước, tình trạng quan liêu
cịn nặng nề. Hệ thống cung ứng dịch vụ công chưa thật sự trở thành khách hàng
phục vụ doanh nghiệp và người dân.
Thứ ba, công cụ pháp luật chưa ổn định, Nhà nước chưa thật sự trở thành
“trọng tài” cho các chủ thể kinh tế. Chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp
thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ
thống hành chính. Lực lượng vật chất của Nhà nước can thiệp vào thị trường cịn
phân tán, lãng phí, vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật
của thị trường. Hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức
22
cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội
cho tư nhân tham gia.
Thứ tư, chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực
cơng và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các
nguồn lực cơng (đất đai, tín dụng, tài nguyên khác…). Chưa giải phóng triệt để
tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp
tư nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế. Hợp tác công - tư bị biến dạng,
nhiều nguồn lực nhà nước rơi vào “sân sau” thông qua hợp tác công tư.
Thứ năm, chưa thực sự đặt doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà đầu
tư bình đẳng trên thị trường. Nguồn lực nhà nước đầu tư theo quy hoạch, kế
hoạch chưa hoàn toàn tơn trọng quy luật thị trường, bị lợi ích cục bộ, lợi ích
nhóm chi phối, dẫn tới hiệu quả thấp. Nhìn tổng thể tồn xã hội nguồn lực được
huy động, phân bổ chưa tôn trọng đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường (giá trị,
cung cầu, cạnh tranh).
Thứ sáu, phân phối lần đầu của thị trường và phân phối lại của Nhà nước
chưa được thiết kế liên thông nhằm bảo đảm phát huy động lực của thị trường và
bảo đảm phúc lợi cho người dân. Lồng ghép chính sách xã hội thông qua bao
cấp giá dịch vụ và tổ chức hệ thống cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cồng kềnh,
kém hiệu quả, tạo gánh nặng bao cấp ngân sách và biên chế.
2.4. Định hướng chính sách trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường ở nước ta thời gian tới
Để giải quyết tốt mối quan hệgiữa Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, địi hỏi phải được đặt trong
tổng thể q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường và đây là quá trình
thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Q trình này
địi hỏi phải tơn trọng các quy luật của kinh tế thị trường và đi liền với phát huy
vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước. Và tất nhiên trong quá trình giải quyết
mối quan hệ này phải gắn từng bước với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế
dân tộc, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tối đa hóa lợi ích quốc gia dân tộc.
23
Trong quá trình xử lý quan hệ cần nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước,
Nhà nước chỉ làm những cái gì mà thị trường khơng làm hoặc chưa làm. Trên
thực tế, Nhà nước và thị trường không đối lập mà bổ sung cho nhau, hiệu quả
trên thực tế chính là thước đo tương tác phù hợp giữa Nhà nước và thị trường.
Trong quá trình tương tác Nhà nước và thị trường không chỉ nâng cao năng lực
quản trị nhà nước, tạo sự phát triển đầy đủ, động bộ của thị trường mà cần phải
có sự tham gia của “khu vực thứ ba” - khu vực các tổ chức phi lợi nhuận, chúng
vừa hỗ trợ, bổ sung cho Nhà nước và thị trường, đồng thời chúng cũng giám sát
cả Nhà nước và thị trường.
Trong định hướng chính sách cần tập trung vào một số hướng cơ bản sau:
Một là, nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kiến tạo phát triển của Nhà
nước.
Hai là,thực hiện cơ chế giá do thị trường quyết định, thị trường đóng vai
trị chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực, đồng thời Nhà nước phải đổi
mới phương thức sử dụng các cộng cụ quản lý để điều tiết các nguồn lực theo
các kế hoạch và quy hoạch phù hợp với có chế thị trường.
Ba là, thúc đẩy hình thành sở hữu xã hội và hoàn thiện thể chế, cơ chế, bảo
hộ quyền tài sản của công dân để tài sản giao dịch thơng suốt trên thị thị trường.
Thể chế hóa đầy đủ, cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước với tư
cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, khóng sản... phù hợp với
cơ chế thị trường. Tiếp tục đổi mới việc đăng ký, chứng nhận quyền sử dụng đất,
bảo hộ quyền tài sản hình thành từ quyền sử dụng đất. Triển khai áp dụng mơ
hình quản lý vốn hiện đại, tách rời giữa quyền quản lý kinh doanh vốn nhà nước
với quản lý hành chính nhà nước của các bộ, ngành.
Bốn là, xác lập quyền bình đẳng của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy tự
do kinh doanh, chống độc quyền.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển động bộ, vận hành thông suốt của
các thị trường trên cơ sở tập trung vào hồn thiện các phương thức giao dịch
hàng hóa - dịch vụ hiện đại, đổi mới chính sách đất đai để thúc đẩy thị trường
quyền sử dụng đất, lập sàn giao dịch đất đai. Đổi mới hệ thống ngân hành theo
24
các chuẩn mực quản trị hiện đại trên thế giới. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có
kỹ năng, thúc đẩy phát triển thị trường lao động thơng qua hình thành sàn giao
dịch việc làm gắn liền với xóa bỏ cơ chế quản lý hộ khẩu để thúc đẩy dịch
chuyển lao động.
Sáu là, bảo đảm công bằng trong phân phối nguồn lực phát triển để các chủ
thể của kinh tế thị trường có điều kiện phát huy cao nhất năng lực làm giàu cho
mình và đóng góp cho xã hội. Có cơ chế khuyến khích thúc đẩy kinh tế chia sẻ
và trách nhiệm xã hội trong nội bộ các doanh nghiệp, bảo đảm phân phối lại
ngay trong nội bộ doanh nghiệp gắn với xây dựng văn hóa kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường hiện đại. Hồn thiện cơng cụ thuế tác động, điều tiết doanh
nghiệp gia tăng trách nhiệm xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển
doanh nghiệp xã hội hướng tới phân khúc thị trường lao động cho người nghèo,
người yếu thế, người gặp hoàn cảnh rủi ro dựa vào sự vận dụng nguyên tắc của
thị trường và đề cao giá trị nhân đạo, nhân văn.
Bảy là, phát huy vai trò của thành tố xã hội bổ sung cho giới hạn của Nhà
nước, góp phần khắc phục khuyết tật của thị trường, kiểm sốt các nhóm lợi ích
tác động gây méo mó quy luật của nền kinh tế thị trường và trục lợi chính sách.