Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Lý luận của lênin về độc quyền nhà nước trong chũ nghĩa tư bản liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.6 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
************
Lý luận của Lênin về độc quyền nhà
nước trong chủ nghĩa tư bản. Liên hệ
thực tiễn

MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120205_22_2_17CLC
NHÓM THỰC HIỆN: CocaCola. Thứ 2 - tiết: 1-2
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022

1


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II, NĂM HỌC: 2021-2022

Nhóm CocaCola. Thứ 2 - tiết: 1-2
Tên đề tài: Lý luận của Lênin về độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. Liên hệ thực
tiễn.
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
STT

MÃ SỐ SINH
VIÊN


TỶ LỆ

SĐT

%
HOÀN
THÀNH

1

Trần Thị Thùy Dương

21116341

100%

..................

2

Phạm Ngọc Quỳnh Đan

21116057

100%

..................

3


Trần Thái Vân Hà

21116064

100%

..................

4

Phan Văn Lộc

21116358

100%

..................

5

Lê Thị Yến Nhi

21116363

100%

..................

6


Bùi Trọng Tấn

21116113

100%

..................

7

Trịnh Ngọc Thư

21116124

100%

..................

8

Đỗ Thị Mỹ Trinh

21116377

100%

..................

9


Trương Thị Thanh Trúc

21116379

100%

..................

10

Trần Thị Hoàng Yến

21116140

100%

..................

Ghi chú:
 Tỷ lệ % = 100%
 Trưởng nhóm: Phạm Ngọc Quỳnh Đan

Nhận xét của giáo viên:
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................

Ngày ............ tháng......... năm.......
Giáo viên chấm điểm

2


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU………..............................……………………………......................…........4
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………..............4
2. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………………………………….5
3. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................................5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.LÊNIN VỀ ĐỘC QUYỀN TRONG CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN………………………………………………………………..............................................6
1.1 . Nguyên nhân hình thành và sự phát triển của bản chất độc quyền trong chủ nghĩa tư bản..6
1.1.1. Sự phát triển của trình đợ phát triển hố lực lượng sản xuất...................................6
1.1.2. Sự phát triển của phân công lao động......................................................................7
1.1.3. Sự thống trị của độc quyền......................................................................................7
1.1.4. Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế.............................................7
1.2. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản....................................................8
1.2.1. Là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bả2...........................................8
1.2.2.Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất
của chủ nghĩa tư bản..........................................................................................................9
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN.............................................................................................10
2.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản.......................10
2.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu Nhà nước......................................................................11
2.3 Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư bản.............................................................................12
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM..................................14
II. KẾT LUẬN………………………………………………………………………...................19
III. PHỤ LỤC .................................................................................................................................20

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………....................22


3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Toan bo van ban: CANH DEU
KHONG: canh le trai
Giãn dòng: 1.5 lines

Sau giai đoạn tự do cạnh tranh, chủ nghĩa tư bản phát triển thành giai đoạn cao hơn là
chủ nghĩa tư bản đợc qùn và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Giai đoạn
độc quyền là sự tiếp nối trực tiếp của giai đoạn trước và thực chất là mợt bước mới của q
trình phát triển và cải biến cơ bản về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm thích ứng
với nhu cầu của thế giới và những biến đợng về tình hình kinh tế chính trị toàn cầu từ cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản đợc qùn (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba q trình gắn bó chặt chẽ với
nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào
kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà
nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hợi chứ khơng phải là mợt chính sách trong giai đoạn đợc qùn của chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, nhận thức về độc quyền kinh doanh ở nước ta còn nhiều mâu thuẫn, vai trò
quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế chưa được thừa nhận nên chưa có các quy định,
cơ quan kiểm sốt hành vi của Chính phủ liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Ngoài ra,
tư tưởng bỏ qua kinh tế tư nhân cũng có tác đợng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh.
Trên những cơ sở mâu thuẫn ấy nên hơm nay nhóm COCACOLA_17CLC quyết định
chọn đề tài: “ Lý luận của LENIN về độc quyền nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản và

liên hệ thực tế” để có thể làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của đợc
qùn từ đó hạn chế được những mâu thuẫn trong nền kinh tế.
Vì là sinh viên năm nhất, thời gian nghiên cứu đề tài có hạn, kiến thức chưa đủ
sâu nên khơng tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận.Chúng
em mong thầy có thể bỏ qua những thiếu sót và hy vọng nhận được sự góp ý từ thầy để
bài tiểu luận này có thể đạt đến sự hoàn chỉnh. Mợt lần nữa chúng em xin cảm ơn thầy
và mong muốn kết quả nghiên cứu từ đề tài thảo luận này của tụi em có thể giúp ích
được trong việc khắc phục nhược điểm và những mâu thuẫn để phát triển và hoàn thiện
nền kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh.

4


2. Mục tiêu nghiên cứu:

• Mục tiêu cho phần lý thuyết: Dựa trên lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin, đề tài này
cung cấp hệ thống kiến thức lý luận về độc quyền nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Dựa vào đó đi sâu tìm hiểu những vấn đề của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước,
chỉ ra được bản chất và ý nghĩa của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, hiểu được
tầm quan trọng của Nhà nước trong việc điều hành kinh tế.
=> Thơng qua chủ đề này, chúng ta có thể hiểu được bối cảnh kinh tế thế giới với những đặc
điểm mới và hình thành tư duy thích ứng với bối cảnh thế giới khơng ngừng thách thức.

• Mục tiêu cho phần liên hệ thực tiễn:
=> Rút ra bài học, kinh nghiệm từ những liên hệ thực tiễn để dễ dàng và thuận lợi cho
việc vận dụng những thành tựu của thực tiễn vào trong việc phát triển và vận hành nền
kinh tế đất nước.
3. Đối tượng nghiên cứu:

 Đối tượng NC của phần lý thuyết:

- Đặc điểm và những biểu hiện mới của CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước
- Nguyên nhân, bản chất và biểu hiện của CNTB độc quyền
- Sự ra đời và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước
- Những mâu thuẫn và xu thế vận động của CNTB hiện nay
 Đối tượng NC của phần liên hệ
- Tìm hiểu ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu CNTB độc quyền Nhà nước
ta hiện nay

5


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.LÊNIN VỀ ĐỘC QUYỀN TRONG CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN
1.1 Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Theo V.I.Lênin, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đến mức độ nhất
định, tất yếu dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản đợc qùn nhà nước. Đấy là một
khuynh hướng tất yếu. Mặt khác, khi chỉ đến những năm giữa thế kỉ XX, chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã thể hiện mợt trình đợ phát triển mới của
chủ nghĩa tư bản. Ở đó về mặt kinh tế, đợc qùn phát triển lên trình đợ cao hơn – độc
quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền mà trong đó nhà nước thực hiện nắm giữ
vị thế đợc qùn trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở nhiều lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế để tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế đợ chính trị
xã hội ứng với điều kiện phát triển, thúc đẩy nhất định trong các thời kỳ lịch sử.
Độc quyền nhà nước thể hiện tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Để duy
trì sức mạnh của mình thì giữa các quốc gia, ở các mức độ khác nhau luôn nắm giữ những
vị thế độc quyền theo phạm vi nhất định. Tuỳ vào trình đợ phát triển mà có thể xuất hiện
ở các mức độ khác nhau. Và trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, độc quyền

nhà nước được xây dựng và hình thành trên cơ sở cợng sinh giữa đợc qùn tư nhân, đợc
qùn nhóm và sức mạnh kinh tế của nhà nước, sự chi phối của tàng lớp tư bản độc quyền
(đặc biệt là cùa tư bản tài chính) đối với bợ máy nhà nước.
Đợc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những nguyên nhân chủ yếu
sau:
1.1.1 Sự phát triển của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất
Tích tụ và tập trung nguồn lực vốn càng nhiều càng lớn thì tích tụ và tập trung sản
xuất càng cao, dẫn đến những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi cần phải có mợt sự điều tiết
từ mợt trung tâm đối với việc sản xuất và phân phối.
6


Sự mở rợng, phát triển của trình đợ xã hợi hoá lực lượng sản xuất đã sinh ra yêu
cầu khách quan là Nhà nước với tư cách đại biểu cho toàn bộ xã hội cần phải quản lý
nền kinh tế. Và ở trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sản xuất càng được chú
trọng nâng cao thì lực lượng sản xuất xã hợi hố ngày càng nhiều, thế nhưng quan hệ
sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, vì
vậy tất yếu địi hỏi cần có mợt hình thức mới của quan hệ sản xuất để mở đường cho lực
lượng sản xuất có thể tiếp tục tăng trưởng.Hình thức mới của quan hệ sản xuất đó chính
là đợc qùn trong nhà nước.
1.1.2 Sự phát triển của phân công lao động xã hội
Sự phát triển của phân công lao động xã hội dẫn đến sự xuất hiện mợt số ngành
mới có vai trị quan trọng trong phát triển nền kinh tế xã hội, thế nhưng các tổ chức độc
quyền tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư vì vốn đầu tư lớn, lại cịn thu hồi vốn
chậm và lợi nhuận thấp, nhất là các ngành trong kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao
thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,...
Do đó, nhà nước sẽ phải đứng ra đảm nhận vai trò phát triển các ngành đó, nhằm
tạo điều kiện cho các tồ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có nhiều lợi
ích hơn.
1.1.3 Sự thống trị của độc quyền

Sự thống trị của độc quyền tư nhân dẫn đến gia tăng sự phân hóa giàu nghèo và
càng làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Khi ở trong điều kiện bất lợi
như thế thì địi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hợi để xoa dịu những mâu
thuẫn đó, ví dụ như là các chính sách trợ cấp cho người thất nghiệp, điều tiết sự thu nhập
quốc dân, khơng những thế Nhà nước cịn phải phát triển phúc lợi xã hợi để duy trì sự ổn
định chế đợ chính trị và trật tự xã hội.
1.1.4 Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế
Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự “ mở rộng phạm vi tác động”
của các liên minh độc quyền quốc tế đã vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và
xung đột lợi ích với các đối thù trên nền thị trường thế giới. Tình hình đó địi hỏi cần
phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể qn vai
trị của nhà nước.
Song việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại cũng địi hỏi có sự can thiệp của nhà nước vào tương lai và đời sống
kinh tế.
7


.
1.2 Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản:
Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp khả năng của các
tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh vô cùng to lớn của nhà nước tư sản thành một
thiết chế và thể chế thống nhất với nhau. Trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các
tổ chức độc quyền và can thiệp vào các hoạt động kinh tế để bảo vệ lợi ích của tổ chức
đợc qùn và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Về cốt lõi, chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước vẫn là chính nó, chịu sự chi phối, áp đặt của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù
nó đã thay đổi nhiều hơn so với chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ cạnh tranh tự do.
1.2.1 Là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là bước đệm phát triển mới của nền chủ nghĩa
tư bản đợc qùn. Đó là sự kết hợp của ba q trình, đó là: tăng trưởng về quyền lực

của các tổ chức độc quyền; tăng cường vai trò và khả năng can thiệp của nhà nước vào
nền kinh tế thị trường; Kết hợp sức mạnh kinh tế tài chính của đợc qùn tư nhân với
sức mạnh chính trị của nhà nước.
Mặc dù đang ở giai đoạn vơ cùng phát triển nhưng nó vẫn chưa thốt khỏi chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một bước tiến của chủ
nghĩa tư bản độc quyền sơ khai.
Đặc điểm nổi bật nhất của chủ nghĩa tư bản đợc qùn nhà nước chính là sự can
thiệp và điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế. Mặc dù nhà nước đã can thiệp và
điều tiết nền kinh tế ở một mức độ nào đó trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, nhưng hoạt động thống trị vẫn là bàn tay vơ hình hoặc sự can thiệp gián
tiếp của nhà nước. Chẳng hạn, ngay ở giai đoạn nhà nước điều tiết gián tiếp các quan
hệ kinh tế thông qua thuế, xâm lược nước ngoài để mở rộng thị trường độc qùn ...
Vì vậy chủ nghĩa tư bản đợc qùn nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới
so với chủ nghĩa tư bản, chứ chưa nói đến mợt chế độ tư bản mới mới so với chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chủ nghĩa tư bản đợc qùn
có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước vào nền kinh tế, là sự kết hợp giữa quyền lực
của tư bản độc quyền và quyền lực của nhà nước trong nền kinh tế.

8


1.2.2 Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất
của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là những khái niệm trong đó có các tổ chức tư bản
đợc quyền ở hầu hết các ngành nghề hay là lĩnh vực của nền kinh tế và tổ chức này đang
kiểm sốt sự phát triển của toàn bợ nền kinh tế.
Bản chất của tư bản là quan hệ bóc lợt trong đó giai cấp tư sản đã chiếm lấy giá trị thặng
dư bởi giai cấp công nhân sáng tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đợc qùn có lẽ
vẫn không đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Trong khi quy luật lợi nhuận độc
quyền cũng chỉ là mợt hình thái biến chất của quy ḷt giá trị thặng dư.

Trong bản chất cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở
thành mợt tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là những chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng
đi theo lối kinh doanh và bóc lợt sức lao đợng làm th như một nhà tư bản thông
thường. Nhưng điểm khác biệt ở đây là ngoài chức năng của một nhà tư bản thơng
thường, nhà nước cịn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội,
cảnh sát, nhà tù, ... Ph.Ăngghen cũng cho biết rằng: "nhà nước đó vẫn là nhà nước của
các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển biến nhiều
lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản
tập thể thực sự bấy nhiêu"
Theo những quan điểm trên, chủ nghĩa tư bản độc qùn nhà nước là mợt quan hệ
kinh tế, chính trị và xã hợi, chứ khơng phải là mợt chính sách trong giai đoạn duy nhất
của chủ nghĩa tư bản.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế thị trường cụ thể rõ ràng đối với xã
hợi mà nó đang chiếm hữu, nhưng trong tất cả chế độ trong xã hợi, vai trị kinh tế của
nhà nước có sự thay đổi bản chất thích hợp với xã hợi đó. Các quốc gia tư bản trước đây
chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và ép buộc siêu kinh tế. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà
nước chỉ dừng lại ở việc tiết chế bằng thuế hay pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, vai trị của nhà nước tư sản dần thay đổi, khơng chỉ can thiệp
vào nền sản xuất xã hội bằng thuế và pháp ḷt mà cịn đóng vai trị tổ chức và quản lý
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, điều tiết bằng đòn bẩy kinh tế các
biện pháp ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông và
tiêu dùng.
Chủ nghĩa tư bản đợc qùn nhà nước là mợt hình thức vận động phát triển mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì được sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản,
làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi được với điều kiện lịch sử mới.
9


CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
2.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản
Lenin đã từng nhấn mạnh rằng liên minh cá nhân giữa ngân hàng và công nghiệp
được bổ sung bởi liên minh cá nhân giữa ngân hàng và cơng nghiệp và chính phủ: 'Hơm
nay là bợ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ
trưởng ”
(Lê-nin: toàn tập, chủ biên. Chính sách Quốc gia, Hà Nợi, 2005, tr 31, tr. 275. )
Việc gộp nhân sự do các đảng tư sản thực hiện.Chính các đảng này đã tạo cơ sở
xã hợi cho tư bản độc quyền thực hiện quyền thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ cán
bộ cho bộ máy nhà nước. Ngoài các đảng tư sản, cịn có các hiệp hội doanh nhân với
nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ: Hiệp hợi cơng nghiệp quốc gia Mỹ, Tổng liên đoàn công
nghiệp Ý, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Nhà nước công nghiệp Đức,
Hội đồng sở hữu quốc gia Pháp, Tổng Liên đoàn Công thương Anh ... Các liên hiệp chủ
xí nghiệp này đã trở thành mợt lực lượng kinh tế chính trị to lớn, là rường cột của chủ
nghĩa tư bản độc quyền.Các hiệp hội này hoạt động thông qua các đảng của giai cấp tư
sản, họ cung cấp kinh phí cho các đảng, họ quyết định về nhân sự và đường lối kinh tế
chính trị của các đảng, họ tham gia vào việc xây dựng bộ máy nhà nước các cấp. Mặt
khác, bên cạnh các bộ, họ cũng thành lập các cơ quan tham mưu để “thúc đẩy” các hoạt
động của nhà nước theo chiến lược riêng của họ. Vai trò của các hiệp hội lớn đến mức
dư luận thế giới đã gọi họ là các tổ chức đứng sau chính phủ, mợt thế lực thực sự đứng
sau quyền lực của chính phủ. Thông qua chủ sở hữu của các hiệp hội, một mặt, đại diện
của các tổ chức độc quyền tham gia với các vị trí khác nhau trong bợ máy nhà nước; Mặt
khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của
các công ty độc quyền, giữ các chức vụ quan trọng hoặc danh dự, hoặc trở thành người
bảo trợ của các nhóm cơng ty đợc qùn. Sự đan xen này (cịn gọi là sự kết hợp) đã tạo
ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền với các cơ quan
chính quyền từ trung ương đến địa phương.
2.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu Nhà nước
Độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản đợc qùn có nhiệm vụ
hỗ trợ và phục vụ lợi ích của tư bản đợc qùn nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư

bản. Nó khơng chỉ thể hiện ở sự lớn mạnh của sở hữu nhà nước mà còn ở sự tăng
cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và độc quyền tư nhân, hai loại tài sản gắn bó
với nhau trong mợt q trình có tính chu kỳ của tổng vốn xã hội.
10


Tài sản nhà nước không chỉ bao gồm động sản, bất động sản cần thiết cho hoạt
động của bộ máy nhà nước mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước trong công
nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thơng, giáo dục, y
tế, an sinh xã hợi ...trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.
Sở hữu nhà nước phát sinh dưới nhiều hình thức: thơng qua việc phát triển các
doanh nghiệp nhà nước có vốn từ ngân sách nhà nước; quốc hữu hóa các cơng ty tư nhân
thông qua tiếp quản; nhà nước mua cổ phần trong các công ty tư nhân; Mở rộng các
công ty nhà nước với vốn tích lũy từ các cơng ty tư nhân ...
Doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng quan trọng sau đây:
+ Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho chủ nghĩa
tư bản phát triển. Điều này đề cập đến các ngành sản xuất cũ không bền vững và có
nguy cơ tuyệt chủng, cũng như các ngành mới hơn đòi hỏi đầu tư vốn lớn và mức độ
nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao.
+ Thứ hai, tư bản độc quyền tự do từ các ngành ít sinh lợi hơn thành các doanh nghiệp
hiệu quả hơn.
+ Thứ ba, với tư cách là hỗ trợ điều tiết nền kinh tế tư bản theo các chương trình cụ
thể.Cùng với kinh doanh nhà nước, thị trường quốc doanh được hình thành.Việc hình
thành thị trường nhà nước, trong đó nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước
bằng cách mua sản phẩm của các công ty độc quyền thông qua các hợp đồng đã ký, đã
giúp vốn tư nhân vượt qua khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng thừa và giúp đẩy nhanh
quá trình thường xuyên đảm bảo phát . Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp các
công ty độc quyền tư nhân tiêu thụ hàng hóa, đảm bảo lợi nḥn ổn định, khắc phục
tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược. Tiêu dùng của chính phủ thơng qua
mệnh lệnh của chính phủ, đặc biệt là đơn đặt hàng của quân đội do tăng chi ngân sách.

Những hợp đồng này đảm bảo cho các công ty đợc qùn tư nhân mợt dịng lợi nḥn
lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất hàng hóa đó cao hơn nhiều so với
tỷ suất lợi nhuận của thông thường.
2.3 Sự điều tiết kinh tế Nhà nước
Trong một bài giảng tại Đại học Sverdlov vào ngày 11 tháng 7 năm 1919,
Vladimir Ilyich Ulyanov đã nhận xét: “Nhà nước là mợt cỗ máy duy trì sự thống trị của
giai cấp này so với giai cấp khác”. Nói cách khác, nhà nước tư sản là sản phẩm chính trị
và thể chế kết tủa của sự thống trị xã hội của các nhà tư bản. Sự thống trị này bao gồm
những gì? Nó bao gồm việc quản lý thành cơng các đối kháng giai cấp khơng thể hịa
giải của một hệ thống xã hội nhất định. Bây giờ, trong chừng mực nhà nước là một địa
11


điểm trong lịch sử bị giai cấp thống trị chiếm đóng, nó là mợt cơng cụ được nó triển khai
đợc qùn để duy trì qùn lực, mợt cơng cụ được cấu hình lại liên tục để có hiệu quả
chống lại những nỗ lực của những kẻ hạ cấp nhằm áp đặt qùn kiểm sốt đối với hoạt
đợng của nó.
Thực tế là nhà nước là một dạng quyền lực xã hội đã biến đổi - xa rời xã hợi có
giai cấp và nằm ngoài tầm kiểm sốt của nó - bắt nguồn từ sự thống trị giai cấp của giai
cấp tư sản, bao gồm toàn bợ các hình thức thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng. Vì
nhà nước xuất hiện cùng với sự phân chia xã hội loài người thành các giai cấp, nên nó
lấy nguồn dinh dưỡng từ những yêu cầu bá quyền của giai cấp thống trị, đóng vai trị là
nút điều tiết nơi quy tắc kinh tế của nó được chuyển thành qùn lực chính trị; đó là nơi
nó trở nên tập trung và cơ đọng, được củng cố quyền lực và thẩm quyền của các bợ máy
nhà nước.
Vì nhà nước là cơ quan chủ yếu mà qua đó giai cấp thống trị đưa ra các hình thái
chính trị - xã hợi thích hợp cho ảnh hưởng kinh tế của mình, cơ sở cho bợ máy nhà nước
được xác định bằng bạo lực cấu thành của quan hệ lao động tiền lương - vốn; tức là, giai
cấp tư sản đòi quyền hợp pháp để chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp vô sản sản
xuất. Do đó, tính chất giai cấp của nhà nước gắn liền với địa vị của nó như mợt bợ máy

chỉ thừa nhận vũ lực và bạo lực của giai cấp tư sản, biến thực tế cơ bản của sự bóc lợt
kinh tế thành mạng lưới đồng tḥn và cưỡng bức phức tạp và dày đặc. Phần giới thiệu
của G. M. Goshgarian về cuốn “Triết lý cuộc gặp gỡ sau đó, 1978-87” của Louis
Althusser ghi chú:
Bởi vì nhà nước là kết quả của sự biến đổi lực lượng giai cấp dư thừa, sự khác biệt
giữa cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp thống trị với tất cả những người khác (bạn hay
thù), nên theo định nghĩa, đó là sự bảo toàn của những người chiến thắng trong cuộc đấu
tranh. Và bất kể ‘hình thức chính trị’ nào mà qua đó, sự thống trị của nhà nước thực hiện
quyền thống trị: quyền thống trị của giới quý tộc địa phương vẫn tồn tại dưới chế độ
chuyên chế, quyền thống trị của giai cấp tư bản không nhất thiết bị giảm bớt - ngược lại
vẫn giữ nguyên - với sự ra đời của nền dân chủ nghị viện.
Nói tóm lại, sự khác biệt mâu thuẫn giữa lực lượng của các giai cấp thống trị và
lực lượng của các giai cấp bị thống trị - động lực của đấu tranh giai cấp - tạo ra cơ cấu
cho nhà nước. Tuy nhiên, do nhà nước dựa trên sự khác biệt này, nên đấu tranh giai cấp
được đặt trong một khuôn khổ mới mà trong đó chỉ có mợt lực lượng duy nhất - lực
lượng của giai cấp tư sản - được công nhận, lực lượng này sau đó được chuyển thành
quyền lực bá chủ. Đó là lý do tại sao Lenin nói:
12


Mọi nhà nước tồn tại quyền sở hữu tư nhân về đất đai và tư liệu sản xuất, trong đó
tư bản thống trị, dù có thể dân chủ đến đâu, đều là nhà nước tư bản, một bộ máy do nhà
tư bản sử dụng để bắt giai cấp công nhân và nông dân nghèo phải phục tùng.
Trong khi nhà nước tư bản là một công cụ của giai cấp thống trị - hoạt động như
một chỉnh thể khớp nối và tồn tại nhờ những mục tiêu bá quyền cụ thể - thì nó khơng
tĩnh về mặt cấu trúc. Nếu chúng ta cố gắng hiểu nhà nước về mặt lịch sử - như mợt ví dụ
về sự kết hợp của các yếu tố đơn lẻ tạo ra nó, như mợt tập hợp các quan hệ xã hợi, trong
đó con người thực sự vận động và hành động, như một tập hợp của các điều kiện khách
quan - thì rõ ràng là trạng thái luôn luôn được nhúng trong một ma trận bá chủ. Mặc dù
bộ máy nhà nước phục vụ giai cấp thống trị, nhưng lôgic phức tạp, không đồng đều và

mâu thuẫn của đấu tranh giai cấp dẫn đến sự tích tụ liên tục của mâu thuẫn nợi tại giữa
các nhánh khác nhau, làm nổi bật vai trò tư tưởng của một bộ máy nhất định, hoặc sự
hợp nhất bạo lực.
Tuy nhiên, nhịp điệu thường xuyên của cuộc đấu tranh giai cấp không bao giờ tác
động đến các cấu trúc cơ bản của nhà nước. Trong khi giai cấp vô sản có thể mở rợng
ảnh hưởng của mình trong xã hợi dân sự và thậm chí giành được qùn lực quốc hợi, thì
mợt thực tế cơ bản vẫn là: vì nền tảng phái sinh của nhà nước là xã hội có giai cấp và
bạo lực mà nó tồn tại, và mục đích của nó là biến thặng dư bạo lực thành lực lượng
chính đáng, cái mà mợt chiến thắng bầu cử gây thiệt hại - thông qua việc tạo ra một kiến
trúc thay thế về sự đồng ý - là hệ thống truyền tải của bộ máy nhà nước. Để tiêu diệt
toàn diện nhà nước tư sản - và giành quyền bá chủ hoàn toàn - giai cấp vô sản khơng chỉ
phải mở những c̣c phân tranh mà cịn phải đương đầu với chính sức mạnh vật chất của
bợ máy đàn áp của nhà nước.

13


CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế
kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố chưa đủ hợp lý của mơ
hình kinh tế trước đây vẫn đang còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ
thể để giải quyết nhanh chóng trong thời gian tới. Mợt trong các vấn đề nan giải cần phải
giải quyết là tình trạng đợc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại của rất
nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh chưa hiệu quả) và việc
đợc qùn của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do
chính được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định chắc chắn Việt Nam khơng có nền
kinh tế thị trường trong vụ cá da trơn của Việt Nam. Để hội nhập kinh tế thế giới cũng
như đảm bảo các điều kiện có thể gia nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt
trong các cuộc thương mại quốc tế, vấn đề này phải được hoàn thiện để quy định một

mức độ đủ để cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với các
thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo rằng sự thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển một cách
mạnh mẽ.
Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, có hai loại hình đợc qùn: thứ nhất là kết quả
của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp Coca-Cola phân tích ở trên
được coi là mợt ví dụ về hình thức đợc qùn xuất phát từ sự cạnh tranh trên thị trường
nước giải khát có ga tại Việt Nam. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, nền kinh tế thị
trường của Việt Nam vẫn còn sơ khai, và cho đến nay mới chỉ xảy ra một số trường hợp
độc quyền do cạnh tranh. Tất nhiên, trong tương lai, những hình thức đợc qùn như vậy
sẽ trở nên phổ biến hơn, nhưng đây là một hiện tượng bình thường trong bất kỳ nền kinh
tế cạnh tranh nào. Dựa trên kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển, vấn đề này sẽ được giải quyết thông qua các quy định về chống độc quyền trong
luật cạnh tranh, như quy định về tự cấm, thỏa thuận giá giữa các đối thủ cạnh tranh, tẩy
chay hàng hóa, lạm dụng quyền lực thị trường, tập trung kinh tế v.v... Luật cạnh tranh
của Việt Nam cũng có những quy định này. Đây là chương thứ hai quy định về các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và đợc qùn trên thị trường, tập
trung kinh tế và các vấn đề khác. So với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
các quy định về kiểm sốt đợc qùn trong pháp ḷt cạnh tranh của Việt Nam chưa
hoàn hảo. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, quy định như vậy là
tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong tương lai, khi cạnh tranh trên thị trường lên mức
cao hơn và xuất hiện nhiều hành vi cạnh tranh khác, sẽ cần bổ sung các quy định kiểm
sốt đợc qùn mới. Loại hình đợc qùn thứ hai được coi là loại hình đợc qùn phổ
14


biến nhất ở Việt Nam hiện nay, là kết quả tác đợng tổng hợp của các cơ chế hành chính
trước đây và mợt số quy định của pháp ḷt, chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền
kinh tế kế hoạch hố tập trung cao đợ trước đây, chúng ta chỉ chấp nhận mợt hình thức
sở hữu nhà nước và hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân khơng xuất hiện
trong thời gian đó. Sở hữu cơng cộng này tạo ra độc quyền nhà nước trong mọi lĩnh vực

của nền kinh tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất và cung cấp
sản phẩm cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế theo mệnh lệnh hành pháp đã làm
phát sinh các công ty độc quyền thuộc sở hữu nhà nước, một số cơng ty vẫn cịn tồn tại
cho đến ngày nay. Ngoài ra, hiện nay đang có xu hướng chuyển đổi từ độc quyền nhà
nước sang độc quyền doanh nghiệp. Sở hữu đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT và ngăn cản các công ty khác tham gia thị trường viễn thơng, vì các cơng
ty khác sẽ phải sử dụng đường trục nếu muốn cung cấp dịch vụ viễn thông. Viễn thông
Quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần và quy định pháp ḷt hiện có, giá
dịch vụ viễn thơng của VNPT cung cấp cho người dùng cao hơn 30% so với các nước
ASEAN. Tình hình tương tự với Cơng ty Điện lực Việt Nam (EVN), ở nước ta đã có
khá nhiều doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ có tập đoàn EVN mới được nắm giữ hệ
thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực hiện nay, việc sản xuất điện có liên quan
cực kì mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất
điện đều phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ nặng đơ trên cùng thị trường điện lực.
Chính vì vậy, sự độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều hiển nhiên.
Tóm lại, pháp luật quy định rằng nhà nước có qùn đợc qùn đối với “các phương tiện
cơ bản” như đường trục viễn thông quốc gia, đường dây tải điện hoặc nhà ga hàng
không, hệ thống đường sắt, v.v., nhưng không phân biệt rõ yếu tố cạnh tranh tiềm tàng
với yếu tố độc quyền tự nhiên, khiến nhà nước chuyển sang Độc quyền trở thành độc
quyền doanh nghiệp. Điều này cho thấy những quy định này không phù hợp với quy luật
kinh tế thị trường và cần được thay đổi trong thời gian tới. Không chỉ vậy, mợt số chính
sách kinh tế trong q khứ cũng đã tạo ra thế độc quyền của nền kinh tế nước ta. Thông
thường, chủ trương thành lập công ty tạo ra sự đợc qùn của mợt số ít doanh nghiệp
nhà nước trong lĩnh vực xây dựng, xi măng, lắp đặt máy móc…đều do Chính phủ quyết
định. Ngoài ra, nhà nước đầu tư rất nhiều tiền vào doanh nghiệp. Kết quả là, các cơng ty
có sức mạnh thị trường đáng kể trong các ngành mà họ hoạt đợng và nhanh chóng chiếm
lĩnh thị trường, và khơng cơng ty nào có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp, chính phủ.
Hiện nay, chính phủ chủ trương thành lập các tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng
các khối kinh tế có ý nghĩa quan trọng vì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam cịn rất
nhỏ so với các cơng ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia về mức đợ tập

trung vốn và cơng nghệ. Trong q trình hợi nhập kinh tế quốc tế, sự hợp tác và cạnh
tranh là điều tất yếu. Để có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt
15


Nam cần phải hình thành mợt khối kinh tế đủ mạnh trong một số lĩnh vực nhất định.
Theo số liệu trước đó của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), 4 tập đoàn kinh tế
sẽ được thành lập vào cuối năm trong lĩnh vực điện, khí và điện và khí đốt, viễn thơng
và xây dựng Theo chính sách này, các khối kinh tế dựa trên sự hợp nhất của các công ty
nhỏ thành những công ty lớn. Về lý thuyết và thực tiễn luật cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ
bị cấm nếu chúng làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc trái với lợi ích cơng cợng, liên quan
đến các vấn đề như lợi ích của khách hàng, tạo việc làm và tăng trưởng xuất khẩu.
Ngược lại, việc sáp nhập sẽ khơng bị cấm nếu nó có nhiều khả năng mang lại lợi ích
kinh tế vượt quá giới hạn cạnh tranh. Đối với các khối kinh tế của Việt Nam, xung đợt
giữa đợc qùn và lợi ích cơng phát sinh từ việc sáp nhập phải được tránh. Khi Nhà
nước thành lập tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp này có thể dễ dàng chiếm lĩnh vị trí
thống lĩnh và quyền lực thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác và các quy
định chính sách cụ thể có thể tạo ra thế độc quyền cho tập đoàn kinh tế. Ngoài ra, mợt số
chính sách của Nhà nước cũng có lợi hơn đối với DNNN do hình thức sở hữu. Vì vậy,
DNNN có nhiều lợi thế trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh trên thị trường so
với các thành phần khác của nền kinh tế. Cụ thể, trong một số trường hợp, nhà nước trực
tiếp hoặc gián tiếp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay nợ, ưu đãi quyền sử dụng đất, miễn
thuế trong một số trường hợp, vay ngân hàng chỉ định hoặc vay ưu đãi lãi suất. Vì vậy,
có thể nói: ở mợt mức đợ nào đó, chính sách kinh tế đã trở thành mợt lực cản cho việc
tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
 Một số giải pháp
Từ những phân tích về đợc qùn trên, có thể thấy các rào cản thị trường ở Việt Nam
hiện nay được chia thành ba trường hợp sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp trên thị trường
đã loại bỏ các đối thủ khác thông qua các hành vi kinh doanh nhất định và trở thành nhà
độc quyền trên thị trường. Thứ hai, sự tồn tại của mợt số quy định pháp ḷt và các chính

sách kinh tế đã hình thành sự đợc qùn của các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, pháp
luật không xác định rõ việc sử dụng “các phương tiện cần thiết” trong mối quan hệ với
đợc qùn tự nhiên, do đó đã biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp.
Loại rào cản thứ nhất là hình thức phổ biến ở tất cả các quốc gia, và Việt Nam cũng sẽ
không ngoại lệ trong tương lai. Luật cạnh tranh đã đưa ra một số luật và quy định phù
hợp hơn với tình hình kinh tế hiện nay của nước tơi để điều chỉnh mối quan hệ này. Vấn
đề ở đây là cần phải có các quy định để giải quyết sự tồn tại của các rào cản loại II và
loại IIIĐối với loại thứ hai, cần thấy rằng: Trong một số trường hợp, sự tồn tại của các
rào cản thị trường do pháp luật quy định là cần thiết. Điều này được chứng minh bằng
việc hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của các tổ chức độc quyền nhà nước
trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích công cộng hoặc an ninh quốc gia. Ví dụ, chính
16


phủ Úc "thừa nhận rộng rãi độc quyền nhà nước về nước, điện, đường sắt, đường bợ,
bưu chính và viễn thông. Việc chỉ định độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực này được
giải thích trên cơ sở rằng các hoạt đợng trên là mợt hình thức đợc qùn tự nhiên." Ở
Việt Nam, nghị quyết của đảng khẳng định: nhà nước độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ
công, trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện lực, viễn thông, cảng biển, thuốc
lá, cấp thốt nước, sản xuất vũ khí, vật liệu nổ ... Trong thời gian tới, Chính phủ nên cụ
thể hóa các quy định này và liệt kê các lĩnh vực độc quyền nhà nước để đảm bảo pháp lý
rõ ràng, tránh biến độc quyền nhà nước thành đợc qùn thương mại. Đồng thời, chính
phủ cũng nên trao đổi về các kế hoạch cụ thể để xóa bỏ độc quyền trong một số ngành.
Thực tế cho thấy, lĩnh vực độc quyền nhà nước ở các nước không giống nhau, cũng
không tồn tại ổn định trong mọi thời kỳ mà phụ thuộc vào điều kiện quốc gia của mỗi
nước. Tuy nhiên, luật cần quy định cụ thể theo hướng nhà nước độc quyền trong lĩnh
vực liên quan đến độc quyền tự nhiên và lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia. Ngoài
ra, các cơ quan chức năng quốc gia, cụ thể là các cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia
(được thành lập theo luật cạnh tranh), cần rà soát các văn bản pháp luật để xác định các
vấn đề., Vì vậy, đề nghị các cơ quan ban hành văn bản này sửa đổi hoặc hủy bỏ để phù

hợp với điều kiện kinh tế thị trường của nước ta. Chính sách thành lập các khối kinh tế
cũng là một vấn đề cần quan tâm. Tập đoàn kinh tế sau khi thành lập có thế mạnh, đủ
sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, với việc thành lập các khối
kinh tế, các quy định cần được ban hành để khuyến khích hơn nữa các cơng ty nước
ngoài, kể cả các khối kinh tế đa quốc gia, kinh doanh trên thị trường quốc tế và làm đại
lý tại Việt Nam. Điều này khơng chỉ đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế mà cịn tạo
mơi trường cho các tập đoàn kinh tế của nước tôi phát triển. Loại thứ ba là nơi yếu tố
độc quyền tự nhiên gắn liền với mợt hoạt đợng có khả năng cạnh tranh như sản xuất
điện, dịch vụ hành khách đường sắt hoặc dịch vụ viễn thông. Các quy định cần được xây
dựng để phân biệt các yếu tố của độc quyền tự nhiên với các hoạt động cạnh tranh tiềm
tàng như vậy. Ví dụ, việc cung cấp cơ sở hạ tầng viễn thông, truyền tải điện và các dịch
vụ nhà ga sân bay phải được tách biệt với các dịch vụ viễn thơng, phát điện và vận tải
hàng khơng. Chính phủ nên thành lập các doanh nghiệp nhà nước độc lập để quản lý các
công ty độc quyền tự nhiên này. Nhất quán với điều này, các chính phủ nên ban hành
các quy định về việc sử dụng "các phương tiện cần thiết" cho các công ty độc quyền tự
nhiên. Thứ nhất, các công ty độc quyền tự nhiên làm chủ "các phương tiện cơ bản" nên
được quản lý bởi các bợ phận chun mơn. Ví dụ, Bợ Giao thơng vận tải sẽ kiểm sốt
hoạt đợng của các doanh nghiệp quản lý nhà ga hàng không, Bộ Công nghiệp sẽ quản lý
các doanh nghiệp sở hữu hệ thống truyền tải điện ... là "phương tiện cần thiết" để quản
lý độc quyền tự nhiên để đáp ứng các yêu cầu sử dụng các cơng trình đó Mọi trường
hợp. Vì vậy, cần có quy định về vấn đề này. Đặc biệt, cần quy định rằng các cơng ty đó
17


khơng có trách nhiệm cung cấp "cơ sở vật chất thiết yếu" cho các doanh nghiệp khác trừ
khi cần thiết để thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả trong nền kinh tế. Ví dụ, khi mợt nhà ga
hàng khơng đang hoạt động hết công suất, nhà đầu tư độc quyền đương nhiên khơng có
nghĩa vụ cung cấp “các phương tiện thiết yếu” ngay cả khi được nhà cung cấp dịch vụ
vận tải yêu cầu. Ngoài ra, cần có quy định về việc xác định giá khi sử dụng "các phương
tiện cần thiết". Trên thực tế, các công ty nắm giữ "phương tiện cơ sở" có xu hướng tính

giá đợc qùn cho các yếu tố này. Vì vậy, để tránh tình trạng độc quyền về giá, bộ phận
tuyến cần xác định giá sử dụng các dịch vụ cơ bản này. Xác định giá bằng cách sử dụng
"phương tiện cơ bản" không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Theo kinh nghiệm của một
số nước, giá sử dụng “phương tiện thiết yếu” phụ thuộc vào một số yếu tố như phạm vi
và mức đợ sẵn có của “phương tiện thiết yếu” và kế hoạch sử dụng trong tương lai. Chi
phí xây dựng các "phương tiện cơ bản" này. Đồng thời, tác động của giá cả đối với việc
thúc đẩy sản xuất và bảo dưỡng "ơ tơ cơ bản" và vai trị quan trọng của việc khuyến
khích đổi mới cơng nghệ cũng cần được tính đến.

18


KẾT LUẬN

Việc ôn lại những chỉ dẫn này của chủ nghĩa Mác - Lê-nin sẽ giúp chúng ta có
thêm niềm tin khi dấn thân vào con đường xây dựng nhà nước kiểu mới trên cơ sở kế
thừa những giá trị của nhà nước tư sản pháp quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày nay là sáng tạo, phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kỳ
q đợ lên chủ nghĩa xã hợi.
Lý ḷn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường Việt Nam hiện nay. Nó giải thích bản chất của các tḥc tính hàng hóa, sự khác
biệt giữa các yếu tố cơ bản và các hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua bán hàng
hóa. Nó cũng là cơ sở để giải thích tính ngang giá giá trị trao đổi. Học thuyết góp phần
phân tích toàn diện bản chất của tế bào kinh tế tư bản chủ nghĩa, bản chất của nó trong
quá trình trao đổi. Đặc biệt đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là cơ sở lý luận để bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, hoàn thiện hệ thống
kinh tế, nâng cao vai trị quản lý kinh tế.
Trên đây là phần trình bày của nhóm em về “Lý luận của Lênin về độc quyền nhà
nước trong chủ nghĩa tư bản.”. Toàn bộ là từ những kinh nghiệm tham khảo, hiểu, và
vận dụng những lý thuyết vào bài tiểu luận. Tuy nhiên, cũng sẽ có nhiều thiếu xót trong

q trình thực hiện. Chúng em mong thầy có thể xem xét và gợi ý cho chúng em cách
chỉnh sửa để có thể hoàn thành bài tiểu luận này ngày càng hoàn thiện hơn. Nhóm
COCA-COLA xin chân thành cảm ơn!

19


PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ TRONG NHĨM
Nợi dung thực hiện

Sinh viên thực hiện

Nhóm tự đánh giá mức đợ
hồn thành
(Tốt / Khá / Kém)

PHẦN MỞ ĐẦU
Nợi dung 1: Lý do chọn đề

Trần Thị Thùy Dương
Phạm Ngọc Quỳnh Đan
tài, mục tiêu và phương pháp
Trần Thái Vân Hà
nghiên cứu, in tiểu luận
Phan Văn Lộc
Lê Thị Yến Nhi
Bùi Trọng Tấn
Trịnh Ngọc Thư
Đỗ Thị Mỹ Trinh
Trương Thị Thanh Trúc

Trần Thị Hoàng Yến
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN

Tốt

Nội dung 1: Nguyên nhân

Trần Thị Thùy Dương
Phan Văn Lộc
Trịnh Ngọc Thư
Trần Thị Hoàng Yến

Tốt

Trần Thái Vân Hà
Đỗ Thị Mỹ Trinh

Tốt

Nội dung 3: Sự kết hợp về

Bùi Trọng Tấn

Tốt

nhân sự giữa tổ chức đợc

Trương Thị Thanh Trúc

hình thành và sự phát triển

của bản chất độc quyền trong
chủ nghĩa tư bản
Nội dung 2: Bản chất của độc
quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản

quyền và bộ máy Nhà nước tư
sản
Nợi dung 4: Sự hình thành và

Bùi Trọng Tấn

phát triển sở hữu Nhà nước

Trương Thị Thanh Trúc

Nội dung 5: Sự điều tiết

Phạm Ngọc Quỳnh Đan
Lê Thị Yến Nhi

kinh tế của Nhà nước tư

Tốt

Tốt

bản
20



PHẦN KẾT LUẬN
Viết kết luận

Phạm Ngọc Quỳnh Đan
Lê Thị Yến Nhi

Tốt

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin
[2] Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. (2022, April 2). Lý tưởng.
/>[3] Bản chất của tư bản? (n.d.). Loigiaihay.Com. />[4] Nguyên nhân hình thành và bản chất của tư bản:
/>[5] Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản: />[6] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3 (Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr27-51,
[7] V.I.Lênin: Kinh tế và chính trị trong thời đại chun chính vơ sản.
[8] GS,TS, Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) 2011, Về các mối quan hệ lớn cần
được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Nxb CTQG, HN

22



×