Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Các lý thuyết về các nhu cầu của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.42 KB, 6 trang )

Các lý thuyết về các nhu cầu của con người
Vào năm 1943, Abraham Maslow đã đưa ra đưa ra quan điểm về nhu cầu
của con người và nhu cầu này được sắp xếp theo các thứ bậc khác nhau. Học
thuyết của ông được dựa trên những con người khoẻ mạnh, sáng tạo, những
người sử dụng tất cả tài năng, tiềm năng và năng lực trong cơng việc. Vào
thời điểm đó, phương pháp này khác biệt với các cơng trình nghiên cứu tâm
lý con người khác được dựa trên việc quan sát con người bị chi phối bởi các phiền
muộn là chủ yếu. Maslow chủ yếu quan tâm tới ý nghĩa và tầm quan
trọng trong công việc của con người, dường như là hình ảnh thu nhỏ các quan
sát của Voltaire với Candide, “lao động sẽ xua đuổi ba con quỉ khủng khiếp
nhất- sự buồn tẻ, sự đồi bại, và sự nghèo đói”. Nhân cách của mỗi con người
là tổng hợp các hành vi và việc làm của anh ta và chỉ có lao động mới giải
thốt con người khỏi cái chết. Đây có lẽ chính là bản chất của học thuyết hệ
thống nhu cầu do Maslow đề xướng.
Đối với người lao động, động lực lao động chính là nhu cầu của cịn
người thiếu hụt một cái gì đó khiến con người làm việc để đạt được điều đó.
Maslow cho rằng con người có rất nhiều nhu cầu khác nhau mà họ khao khát
được thoả mãn. Maslow chia các nhu cầu đó thành năm loại và sắp xếp theo
thứ tự bậc như sau:


+ Nhu cầu sinh lý
Là những nhu cầu cơ bản tối thiểu về thức ăn, đồ mặc, nước uống, nhà ở, tình
dục… để có thể duy trì bản thân cuộc sống con người. Rõ ràng những nhu cầu
sinh lý là có tác động mạnh nhất, đầu tiên trong tất cả các nhu cầu. Maslow quan
niệm rằng khi nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để có thể duy
trì cuộc sống thì nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy được mọi người.
Nhu cầu sinh lý được đặt ở đỉnh hệ thống phân cấp, vì chúng có xu hướng, có sức
mạnh cao nhất cho tới khi chúng được thoả mãn. Đây là những nhu cầu cơ bản của
con người. Cho tới khi các nhu cầu này chưa được thoả mãn đến mức cần thiết cho
con người có thể hoạt động, phần lớn các hoạt động của con người có lẽ sẽ ở mức


này và các nhu cầu khác sẽ ít có động cơ thúc đẩy. Nếu một người thường xun bị
đói thì đối với anh ta, các nhu cầu khác như nhu cầu giao tiếp xã hội, được yêu
thương, tôn trọng sẽ bị lu mờ, sẽ bị đẩy về phía sau. Anh ta chỉ quan tâm đến việc
làm sao để lấp đầy cái dạ dày của mình mà thơi. Tự do, tình u, giao tiếp, tơn
trọng, triết học… tất cả đều bị bác bỏ như một thứ trang trí rẻ tiền, chúng trở nên
vơ ích kể từ khi chúng thất bại trong việc lấp đầy cái dạ dày.
+ Nhu cầu về an toàn
Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể và sự đe dọa mất việc, mất tài
sản…, bao gồm an ninh và bảo vệ khỏi những nguy hại về thể chất và tình cảm. Đó
là nhu cầu được ổn định, chắc chắn, được bảo vệ khỏi những điều bất trắc hoặc nhu
cầu tự bảo vệ.
Nếu những nhu cầu sinh lý được thoả mãn một cách tương đối, thì có một nhu cầu
mới xuất hiện, gọi chúng là nhu cầu an toàn. Nếu sự an toàn hay an ninh của một
cá nhân bị đe doạ thì những điều khác dường như khơng quan trọng.
Sức khoẻ, sự binh an, sự may mắn cần được đáp ứng ở mức độ cao trong nhu cầu
an toàn. Một xã hội tốt, bình yên làm cho các thành viên của xã hội đó cảm thấy
được bảo vệ khỏi thú dữ, tội phạm, sự tấn cơng, giết chóc, sự bạo ngược… Chỉ khi
được thoả mãn thì con người mới khơng cảm thấy mong muốn, chỉ khi được đảm
bảo an toàn thì con người mới khơng cảm thấy bị đe doạ. Ta thấy nhu cầu an toàn
biểu hiện ra bên ngoài là sự mong muốn có một cơng việc ổn định và an tồn là
ước muốn để có một lượng tiền tiết kiệm bảo đảm cho rất nhiều nhu cầu khác của
cuộc sống (như là thuốc thang, chữa bệnh, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi
già).


Một khía cạnh lớn hơn của việc cố gắng tìm kiếm sự an toàn và ổn định trong thế
giới là con người thích mọi vật quen thuộc hơn là những vật xa lạ, thích những thứ
nhận thức được hơn là những thứ không thể nhận thức được.
Xu hướng đi theo một tơn giáo, triết lý sống, mà trong đó, con người được thoả
mãn bởi có sự liên kết và cuộc sống của họ có ý nghĩa, cũng là một phần của động

lực tìm kiếm sự an tồn.
Nói cách khác, nhu cầu về sự an toàn được xem như một nhân tố động và chiếm ưu
thế trong mỗi con người chỉ khi trong những trường hợp khẩn cấp như: chiến tranh,
dịch bệnh, thiên tai, sóng thần, mất trật tự xã hội, khủng hoảng thần kinh, hay sự
lặp lại của tình trạng khó khăn.
+ Nhu cầu xã hội
Nhu cầu được quan hệ với người khác để thể hiện và chấp nhận tình cảm, sự chăm
sóc, hiệp tác. Hay nói cách khác là nhu cầu bạn bè, giao tiếp. Do con người là
thành viên của xã hội nên họ cần được những người khác chấp nhận. Con người
ln có nhu cầu u thương, gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có
nhu cầu giao tiếp để phát triển.
Khi nhu cầu về sinh lý, nhu cầu an toàn đã được thoả mãn thì nhu cầu xã hội lại trở
thành nhu cầu nổi trội trong cấu trúc nhu cầu. Vì mọi người đều thành viên trong
xã hội, thế nên họ có nhu cầu muốn được thuộc về các nhóm khác nhau và được
các nhóm chấp nhận. Khi nhu cầu xã hội trở nên nổi trội, con người sẽ cố gắng xây
dựng những quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh mình. Con người ai cũng
muốn có bạn thân, có những người mình u q và nhu cầu này làm nảy sinh
những tình cảm, sự yêu thương. Một người sẽ cảm thấy buồn khi họ khơng hề có
bạn bè, có tình thương u, khơng có một người vợ (chồng), hay khơng có những
đứa con. Mối quan hệ với bạn bè, gia đình và tập thể là rất quan trọng. Nhu cầu xã
hội được thoả mãn khi bạn được bạn bè, gia đình và những người khác chấp nhận.
Để thoả mãn nhu cầu này, điều cần thiết là phải biết cho và nhận tình yêu thương,
biết chấp nhận và được chấp nhận, yêu và được yêu bởi những người xung quanh.


+ Nhu cầu được tơn trọng
Là nhu cầu có địa vị, được người khác công nhận và tôn trọng, cũng như nhu cầu
tự tơn trọng mình. Theo Maslow, khi con người bắt đầu thỏa mãn nhu cầu được
chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và muốn được người
khác tôn trọng. Nhu cầu loại này dẫn tới sự thỏa mãn như: quyền lực, uy tín, địa vị

và lịng tự tin. Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý, quan tâm và
tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là một phần trong
xã hội. Vì thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người
tơn trọng và kính nể.
Con người sẽ có nhu cầu được tơn trọng, cả sự tự trọng và sự nhận biết,được thừa
nhận từ người khác. Hầu hết mọi người đều muốn được đánh giá cao năng lực,
phẩm chất của bản thân mình, họ muốn được mọi người ghinhận sự đóng góp của
họ. Những nhu cầu này có thể được phân chia ra thành hai phần nhỏ. Thứ nhất đó
là những khao khát có được sức mạnh, thành đạt và sự tự tin đối mặt với thế giới
xung quanh, sự độc lập và tự do. Thứ hai,chúng ta có những cái gọi là danh tiếng
hay uy tín (nó là sự tơn trọng và kínhtrọng từ những người khác), được nhận ra,
được chú ý, được coi trọng và được đánh giá đúng. Như vậy, họ có cảm giác tự tin,
có uy tín, có quyền lực,và có ảnh hưởng với môi trường xung quanh. Sự thoả mãn
nhu cầu được tôn trọng dẫn đến cảm giác tự tin, có giá trị, có sức mạnh, có khả
năng và sự đủ đầy bởi có ích và cần thiết cho thế giới.

+ Nhu cầu hoàn thiện bản thân


Là nhu cầu được trưởng thành và phát triển, được biến các năng lực của mình
thành hiện thực, hoặc nhu cầu đạt được các thành tích mới và có ý nghĩa, nhu cầu
sáng tạo. Đó là nhu cầu được đào tạo,được phát triển, được tạo điều kiện để thử
sức mình trong những lĩnh vực mới, nhu cầu đạt được thành tích mới hơn, có ý
nghĩa hơn. Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp của ơng.
Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà một con người có thể đạt tới. Tức là làm
cho tiềm năng của một người đạt tới mức tối đa và hồn thành được một mục tiêu
nào đó.
Tự hồn thiện mình là nhu cầu để tăng tối đa tiềm năng của một con người.
Maslow đã nói rằng “một con người có thể là gì, thì anh ta sẽ phải là cái đó”. Tự
hồn thiện mình là nhu cầu của con người mong muốn làm điều mà người ta có thể

đạt được. Mỗi người có thể thoả mãn nhu cầu này theo cách riêng của mình. Nhạc
sỹ phải viết nhạc, hoạ sỹ phải vẽ tranh, một nhà thơ phải sáng tác nếu người ấy có
một cảm hứng nhất định. Những gì mộtngười có thể làm thì anh ta sẽ phải làm. Nó
nói lên ước muốn tự thể hiện, cụ thể là xu hướng biến khả năng tiềm tàng thành
hiện thực. Xu hướng này có thể diễn đạt mong muốn trở thành một ai đó hoặc trở
thành mọi thứ mà mình có khả năng. Nhu cầu tự hoàn thiện là khát vọng và nỗ lực
để đạt được mong muốn. Con người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một cơng
việc nào đó theo sở thích và chỉ khi cơng việc đó được thực hiện thì họ mới cảm
thấy hài lịng. Khao khát tự bên trong con người bạn sẽ không bao giờ mất đi mà
nó sẽ tìm được cách hành động và trở thành hiện thực.




×