Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tìm hiểu về tâm lý học lao động: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.34 MB, 109 trang )

ĐẠI


H Ọ C


Q U Ố C

G IA

H À

NỌI


Đ Ả O THỊ OANH
m

TâmI Lý' fHọc
t-ỵ

NHÀ XUẨT BẢN ĐẠI HỌC Q U Ố C GIA HÀ NỘI
I






Đ À O THỊ O A N H


IN LẦN THỨ 2

ÍHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HẢ NỘI


C h ịu tr á c h n h iê m x u ấ t b ả n




Giám đốc:

NGUYỄN

VÁN

THỎA

Tổng biên tập: NGUYỄN THIÊN GIÁP

N g ư ờ i n h ậ n xét:

TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

B iê n tâ p và s ử a b ả n in:

PHẠM NGỌC TRÁM

T r ìn h b à y bìa:


NGỌC ANH

T Â M L Ý HỌC L A O Đ Ộ N G
Mã số: 02.09.ĐK 2003
In 1000 cuốn tại N h a in Đ ạ i h ọc Q u ố c gia Hà Nội
Số xuất bản: 319 /27/

CXt>.

Sơ trích ngany

In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2003.

T\

K H /XB


C hương I

LAO Đ Ộ N G VÀ ĐỐI TƯ Ơ NG
CỦA TÂM LÍ HỌC LAO Đ Ộ N G


$

»

1. Khái n iệm lao đ ỏ n g
Để hiểu rõ hơn đơi tượng của tâm lí học lao động (TLHLĐ)

và q trình phát triển của nó, trước hết chúng ta phải định

nghĩa khải niệm lao động và phân tích nó một cách toàn diện.
Hiểu theo nghĩa rộng, lao động là một hoạt động thực tiễn
nào đó do con người tiến hành theo một nhiệm vụ xác định,
nhằm đạt được một mục đích nhất định. Trong tác phẩm kinh
điển “Vai trị cùa lao động trong q trình chuyển liố từ vượn
thành ngưòr, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng: “lao độĩỉg là điều kiện
cơ bản đầu tiên của tồn bộ đời sơng lồi người ... lao động đã
sáng tạo ra bản thần con người”. [C. Mác và P.Ảnghen: Tồn
tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 20. 641]
C.Mác đã nêu ra một định nghĩa kinh
điển vể lao động và
*
vai trò của nó trong sự hình thành con người như sau : “Lao
động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự
I
3


nhiên, một q trình trong đó bàng hoạt động của chính mình
COI1 người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đồi chất
giữa họ và tự nhiên...”. [C. Mác và P.Ãnghen: Tồn tập, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 23, 266J
Có thể xem xét khái niệm “lao động” ở nhiều goc độ khác
nhau để hiểu rõ hơn nội dung của nó.
Trước hết, lao động của con người có tính chất xã hội. Ngay
từ đầu, lao động của con ngưịi đã là cơng việc của nliững nhóm
xã hội chứ không do một cá nhân riêng lẻ thực hiện và mục đích
của bất kỳ hình thức lao động nào cũng có tính ''hất xã hội.

Trong tác phẩm “Tư bản” , C.Mác đã xác định ban chất xã hội
và mục đích chung của lao động như sau : “Lao động là một hoạt
động có mục đích để tạo ra những giá trị sử dụng”.
Xét về phương diện sinh lí học, theo ý kiến của

C.Míic:

“Dù các dạng lao động có ích có khác nhau như thế nào, dù
những hoạt động sản xuất có khác nhau đến đâu thì về phương
diện sinh lí học, đó vẫn là

những chức năng của cơ tliể con

người, và mỗi một chức năng ấy, dù nội dung và hình thức cua
nó như thế nào về thực chất vẫn cliỉ là sự tiêu hao não, thần
kinh, cơ bắp và các cơ quan cảm giác

[Phạm Tất Dong, Tám

lý học lao động - Tài liệu dùng cho học viên cao học, viện KHGD,
1979]
Việc hiểu bản châ't xã hội và bản chất sinh lí học của lao
động giúp chúng ta hiểu rõ liơn bản chất tâm lí của lao động bởi
vì cái tâm lí trong lao động khơng thể tách rời và có lập với
những hiểu biết về những bản chất đó.
4


Trong lao động cái tâm lí chung nhất được bộc lộ ra là tírtli
(ích cực, tính mục đích, là những hình ảnh nảy sinh trong đầu

CO',1 người mà nhờ nó con người xác định được kết quả hoạt động
cua ninh.
Dù hoạt động lao động có khác nhau về mục đícli, đối
iư ợ n g ,

công cụ và điều kiện như thế nào chăng nữa, bao giờ nó

eủnc gồm hai cơ chế đặc thù: trước hết đó là q trình đơi tượng
liố sức mạnh bản chất của con người. Nói clio cùng, mọi sản
p h ẩ n lao động đều là những biểu hiện cụ thể của tài năng, đức
(tộ. tinh cảm ... con người. Cái tâm lí đã hố thân vào tồn bộ
I h<ấ £Ìới đồ vật do con người tạo ra. Kết quả của q trình đơl
t ượnỉ hố sức mạnh bản chất con người trong lao động là lồi
ng ưa có được một nền văn liố xã hội - lịch sử ngày càng phát
triểi . Đến lượt mình, nền văn hố đó lại là hiện thân trực tiẽp
của íự tiến hố của lồi người - một bình thức tiến hố đặc thù ở
]oồũ agưịi - sự tiến hố theo quy luật xã hội - lịch sử. Lao động
củ a con ngưòi cứ từng bước thay đổi thế giới đồ vật xung quanh
]iọ. Cứ mỗi thay đổi được ghi dấu trong thê giới đồ vật này đều
có tie được coi như là một điều kiện góp phần vào việc tạo ra
nil ữr.g bưởc phát triển của loài người.
Song, để thực hiện được q trình đối tượng hố sức mạnh
Ịtảìn íhất cùa mình, con người lại phải sử dụng cơng cụ lao động
(m à :ông cụ lại là kết quả của q trìnli đơi tượng hóa nói trên),
ph ải nắm được cách thức sử dụng cơng cụ lao động thì lúc đó
(ƠLig cụ mới tồn tại với đúng tư cách là một công cụ. Người ta
phải học cách sử dụng cơng cụ. Thực chất của q trình học cách

5r



.-'ứ dụng công cụ là sự lĩnh hội cái tâm lí chứa bên trong cơi.g cụi
đó. Ta gọi q trình này là sư người hoá sức mạnh bân chà' cua
con người trong lao động.
2. Câu t r ú c c ủ a h o ạ t đông lao đ ô n g
Hoạt động lao động là đôi tượng nghiên cứu của Eliiều
khoa học trong đó có tâm lí học. Đơi với các nhà tâm lí học, ìicm
cơ bản trong lao động mà họ quan tâm là tính mục đích, tú h tự
giác, tính tích cực của con người. Hoạt động lao động



sự taốũg

nhất của cái tầm lí và cái sinh lí. Trong khái niệm hoạt độn? lao
động, những hiện tượng tinh thần (động cơ, mục đích, ầứng
thú,...) bao giờ cũng ở trong một thể thông nhất hữu cc với
những biểy hiện bề ngoài của chúng là những vận động thực
hiện. Vì vậy, phải nghiên cứu hoạt động lao động với đầ/ đủ
những thành phần nêu trong cấu trúc của nó.
Hoạt động lao động là một dạng hoạt động đặc biệt củi con
người. Khi tiến hành lao động, con người sử dụng cônf cụ.
Phương pháp, cách thức và nghệ thuật sử dụng công cụ được £ọi là
kỹ thuật lao động. Hoạt động lao động của con người b ao giờ ;ũũg
nhằm đạt được một mục đích nhất định do họ tự giác đặt ra.
*

I

Mục đích của hoạt động lao động là hình ảnh về kết q uả

cơng việc sắp được tiến hành. Hình ảnh đó tồn tại trong đểu óc
con ngựời trước khi họ thực sự bắt tay vào công việc. Mục đílao động nảy sinh trong ý thức trên cơ sở những nhu cầu tinh
•:hần và nhu cầu vật chất của con người. Sự nẩy sinh mục đích
lao động cịn phụ thuộc vào kinh nghiệm lao động đã tícl liuỹ
6


(tược Mục đích có thể là gần nhưng cũng có thể là xa. Song,
nhìn chung hoạt động lao động bao giờ cũng có mục đích xa, bao
trùn lên những mục đích gần có tính chất bộ phận. Q trình
tiến là n h một hoạt động lao động là quá trình đạt từ mục đích
bộ phận này sang mục đích bộ phận khác cho đến khi đạt được
mục đích cuối cùng. Nl vậy, ta có được một sơ đồ giản lược, mơ
tả mit- q trình hoạt động như sau :
Mục đích có tính chất bao trùm các mục đích bộ phận
china là động cơ của hoạt động. Mục đích bao trùm (động cơ) có
lác cụng thúc đẩy việc thực hiện các mục đích bộ phận được kết
lại tià n h một hệ tliổhg. Chính vì vậy, khi nói đến một hoạt
(tộỉng, bao giờ người ta củng xét đến động cơ tương ứng với nó.
Một hoạt động diễn ra trong từng giai đoạn đạt' được
nhữrg mục đích nhất định. Q trình hoạt động để đạt được
111Ị1Cđích bộ phận được gọi là hành động.
Hành động là yếu tố của hoạt động, cụ thể hơn, đó là một
(tơ?Q /ị của hoạt động. Kết quả của hành động là đạt đến một
Mục đích 1 —» Mục đích 2 -> .... -» Mục đích cuối cùng
111 vue đích cụ thể nào đó mà con người đã nhận thức được. Có thể

Iióii, nỗi liànli động bao giờ cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ
sơ CỂP cơ bản, nghĩa là nhiệm vụ không thế phân nhỏ hơn được


nữ;a. Như vậy là, muôn xem một hoạt động lao động có bao nhiêu
hà)nt động, ta cần phải xác định có bao nhiêu nhiệm vụ sơ cấp cơ
bảỉQ írong đó. hoặc có bao nhiêu mục đích cụ thể. Vì vậy, khi tổ
chức một hoạt động sản xuất, điều quan trọng bậc nhất là phải
7


chỉ ra cho được những mục đích bộ phận và trình tự đạt ;ớì
những mục đích đó.
Trong lao động sản xuất, mn đạt tới mục đích, người ta
cần tính xem phải hành động theo phương thức nào (bằng cơQg
cụ gì ? Với những phương tiện nào ? Cách thức sử dụng cơng cụ
ra sao ? ...).
Nói đến phương thức thực hiện hành động là nói đến thao
tác. Trong cơng nghiệp, thuật ngữ “thao tác” có khi được dùng
để chỉ một yếu tố của một q trình cơng nghệ được thực hiện
trên một vị trí làm việc, do một hoặc nhiều nhóm cơng nhân tiến
hành để làm ra một chi tiết hoặc một sô' các chi tiết được gia
công đồng thời, hoặc tạo ra một số bán thành phẩm cho đến khi
chuyển sang những chi tiết sau.
Trong hoạt động lao động, thao tác là “đơn vị cơ động” càa
hành động. Một hành động có thể có một hoặc nhiều thao tác.
Nhưng, để xác định được số lượng những thao tác trong một
hành

động, ta phải căn cứ vào công cụ và phương thức thực

hiện hành động đó. Cùng một hành động, người ta có thể dùng
một hệ thống thao tác này hoặc .một hệ thống thao tác khác.

Điều đó phụ thuộc vào điều kiện trang bị kỹ thuật. Như vậy là,
một hành động được tiến hành thông qua một hoặc nhiều thao
tác. Nhiều thao tác khác nhau có thể dẫn đến một mục đích như
nhau. Chính vì vậy ta nói thao tác là đơn vị cơ động của hành
động.
Nội dung của mỗi thao tác là do đặc điểm cấu trúc của
công cụ quy định. Tuỳ thuộc vào hình dáng, kích thước và những
8


cỉặđộng (dộng tác) phù hợp. Như vậy, trong mỗi thao tác cụ thể có
một hệ thống những tư thê và vận động riêng. Tư thê cũng có
th ể coi là một dạng của động tác. Hơn nữa, động tác cũng chưa
p h ả i là yếu tô hợp thành nhỏ nhất trong thao tác. Người ta còn

p h ân động tác thành những "vi động tá c ’.
Một hành động lao động được lặp lại nliiểu lần trong quá
t r ìn h lu yện tập và trở nên tự động koá được gọi là kỹ xảo. T u y
n h iê n , khi người công nhân thực hiện thành thạo, điêu luyện các
t hao tác trong hành động khơng có nghĩa là ý thức của họ không
k i ể m tra lại cách thức tiến hàn h thao tác. T a gọi là sự tự động
bioá củ a kỹ xảo chỉ với n gh ĩa là thao tác đã thành thạo, không
c ầ n sự tập trung chú ý mà v ẫ n bảo đảm độ tin cậy, độ chính xác.

3». Đ ịn h nghĩa, đỏi tương, n h iệ m vụ của T âm lí học lao đơng
Như trên ta đã th ấ y, lao động là một hình thức cơ bản của
s ự tác động qua lại có ý thức giữa con người với hiện thực xu n g
qịuanh. H iệu quả c ủ a lao động phụ thuộc vào rấ t nhiều các yếu
t'ơ bên trong v à bên ngồi. T h ậm chí, các yếu tơ" bên ngồi (thiết

b)ị k ỹ thu ật, sự tổ chức, môi trường v ậ t lí v à x ã hội v.v...) quy
đtịnh. phần 1Ớ11 hiệu qu ả lao động thông qua các yếu tô’ bên trong
(.năng lực, tri thức, k in h nghiệm , động cơ, hứng tliú, th á i độ...).
Như vậy, n gh iên cứu lao động được đặt trên yếu tố tru n g
t;âm - con người, cần x u ấ t phát từ việc nhận thức các quy lu ậ t
đliều k h iể n hành vi con người trong lao động. Theo n gh ĩa n ày,
tíâni lí học lao động là một khoa học n hằm x â y dựng một hệ

9


thông tri thức thông nhất và hệ thông liành động của con ugưỉá
trong lao động. A.Rogar nhấn mạnh rằng, bằng vai trị khoa học
của mình, nhà tâm lí liọc lao động quan sát, mơ tả và tìm cácU
giải thích hành, động của con người trong tư cách họ là nliững người lao
động.
Đồng thời, việc hiểu một hiện tượng không thể là một niụe
đích tự thán. Hiểu biết về một hiện tượng là nhằm làm thay đối
nó cho phù hợp với những mục đích nhất định. Chính vì vậy,
tâm lí học lao động sử dụng những hiểu biết vê hành động của
con ngitời trong lao động cùng với những tri thức cùa các chuyên
ngành khoa học khác nhằm làm thay đổi lao động theo nghĩa
hồn thiện nó.
Nói cách khác, tâm lí học lao động vừa là một khoa học
vừa là một cơng nghệ kỹ thuật. Việc phân biệt hai thành phần
đó trong hoạt động của nhà tâm lí học lao động là cần thiết
nhưng khơng nên đối lập chúng vói nhau: trong khi những hiểu
biết về lao động giúp chúng ta làm thay đổi lao động thì việc
thay đổi đó sẽ làm tăng nhận thức của chúng ta về lao động. Từ
góc độ thuần t tâm lí học, có thể quan tâm tới việc thiết lập

một sô' quan hệ giữa các chức năng tâm lí, tới việc phát hiện
một sơ cơ chế tâm lí của những hành động lao động. Từ góc độ
ứng dụng, có thể điía các tri thức thu được của tâm lí lao động
vào nghiên cứu hồn thiện một sô tiêu chuẩn đánh giá lao động.
Các tiêu chuẩn có thể rất khác nhau : sự an tồn, sự thuận tiện,
tốc độ thực hiện, thòi gian học tập v.v... Để hồn thiện được các
tiêu chuẩn này cần có sự góp phần của một sơ ngành khoa học
và kỹ th u ậ t khác.
10


Tâm lí học lao động đề cập tới hành động lao động nói
chung. Do hoạt động của con ngưịi được diễn ra trong các lĩnh
vực rất khác nhau nên tâm lí học lao động cũng bao hàm một
phạm vi rộng lớn, gồm : tâm lí học cơng nghiệp, tâm lí học giao
thong, tâm lí học nơng nghiệp, tâm lí học kinh doanh, tâm lí học
hành chính.
Trong tài liệu này chúng ta chỉ quan tâm tới tâm lí học lao
động cơng nghiệp, ớ lĩnh vực này, liành động lao động

nằm

t rong phạm vi tác động tương hỗ giữa con người - các đối tượng
và mơi trường vật lí, xã hội của lao động, tức là trong hệ thông
người - máy - mơi trường. Do đó, tâm lí học lao động cơng
n g h iệp

L ới

nhằm nghiên cứu và hoàn thiện sự tác động qua lại này


mục đích nhân bản hố lao động, tăng năng suất và chất

lượng lao động, sự an toàn của các hệ thống kỹ thuật xã hội,
tăng hiệu quả và tăng sự thuận tiện trong lao động.
Trong việc nghiên cứu sự tác động qua lại giữa người máy và mơi trường, các chức năng tâm lí của con người (tri thức,
thoi quen, ý mn, chú ý, tình cảm, động cơ, hứng thú v.v...)
đlóng một vai trị đặc biệt quan trọng. Nhưng, hiệu quả lao động
khàng chỉ phụ thuộc vào những khả năng hay những hạn chê
c ủa con người, vào cliất lượng các chức năng tâm lí của người đó,
mà phụ thuộc vào tấtcả các yếu tơ vật chất và xã hội của mơi
t.riíờng lao động. Vì vậy, tâm lí học lao động cơng ngliiệp, trong
khi nghiên cứu trước hết là con người với tư cách là thành tố chủ
yếu trong hệ thông, đã xuất phát từ luận đề cho rằng: hiệu quả
v/ận hành của hệ thông người - máy - môi trường phụ thuộc vào

11


phương tliức thích ứng lẫn nhau giữa các thành phần của nó : người,
máy, mơi trường vật lí và xã hội.
Từ đó có thể rú t ra được đơi tượng của tâm lí học laJ
động cơng ngliiệp: nghiên cứu và áp dụng các tri thức n h ằ n
thích ứng, về mặt tâm lí học, con người với máy móc, với tnci
trường làm việc của mình, đồng thời thích ứng máy móc và mói
trường làm việc với những đặc điếm tâm lí của con người. Các
phương tiện chủ yếu của sự thích ứng lẫn nhau này là : a) Định
hướng, tuyển chọn, đào tạo và thích ứng nghề nghiệp cho con
người; b) Thích ứng các đặc điểm cấu trúc và vận hành của máy
móc, các yếu tơ" của mơi trường vật lí và xã hội, u tơ" tổ chức

lao động với những đặc điểm tâm lí của con người. Như vậy, ró
ràng là, sự thích ứng lẫn nhau trong hệ thống sẽ chỉ được bao
quát đầy đủ khi có sự tham gia của tất cả các bộ môn khoa học
nghiên cứu về lao động.
Như vậy, hoạt động của nhà chuyên mơn trong lĩnh vực
tâm lí học lao động cơng nghiệp bao gồm những vấn đề rất
phong phú và đa dạng . Nhà tâm lí học cần phân tích bản chất
thao tác và hành động của các nhiệm vụ lao động, phân tích yêu
cầu của các chức năng tâm lí trong q trình thực hiện các
nhiệm vụ đó. Từ đây, phải nghiên cứu và xác định kliả năng:
cũng như những giới hạn tâm lí của con người (được hiểu như là
một kênh truyền thông tin). Trong khi lưu ý đến cấu trúc và bản
chất của các nguồn thông tin, cùa tất cả các yêu tô vật chất và
xã hội, nhà tâm lí liọc sẽ xác định các cd chế tầm lí cùa những

12


liàỉili động đúng và những hành động sai. xác định mức độ huy
động tôi ưu. sự yêu cầu một cách hợp lí và cân bằng của các chức
năng tám lí và những khả năng sáng tạo của người lao động.
Trên cơ sở những nghiên cứu này, chuyên gia tám lí học
lao động phải xác lập họa đồ tâm lí ngliê nghiệp với những yêu
crui của công việc, xây dựng các phương pháp đo nghiệm nhằm
kiểm tra năng lực và nhân cách của những người dự tuyền để
tuyển dụng và đào tạo nghê nghiệp (hướng nghiệp, lựa chọn,
hướng nghiệp lại, phán phôi, huy động). Tương tự, phải để ra các
yêu cầu, phương pháp và những tiêu chuẩn đào tạo nghề nghiệp
cũDg như đánh giá việc đào tạo và hoà nhập nghề nghiệp.
Đồng thời, cùng với những chuyên gia khác trong lĩnh vực

nghiên cứu lao động, nhà tâm lí học lao động cơng ngliiệp góp
phần làm cho các thiết bị kỹ thuật, các yếu tô' môi trường vậ tổ
chức phù kợp với những khả năng cũng như hạn chê của con
người (trong giai đoạn thiết kế hoặc chỉnh sửa những hệ thông
hiện có, trong việc phân bơ" các chức năng thao tác giữa người
và máy). Và, vì người cơng nhân là thành viên của một tập thể
líio động cho nên cần thiết phải nghiên cứu phân cơng nhiệm vụ
một cách hợp lí, nghiên cứu tổ chức các môi quan hệ người người, nghiên cứu sự tác động và giáo dục các động cơ, thái độ
cho người lao động.
Trên đây đã trình bày về cơ bản các hướng cliínli của tồn
bộ vấn đề mà nhà tâm lí học !ao động cơng nghiệp quan tâm
nghiên cứu.

13


Qua việc tìm hiểu đối tượng và những nliiệm vụ cơ bản của
tâm lí học lao động, ta có thể khẳng định rằng, tri thức của khoa
học này rất cần thiết cho nhiều nhà chun mơn của nhiều lình
vực khác nhau như tâm lí học, giáo dục học, y học, kỹ thuật •
Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nghiên cứu tâm lí học lao động
là cần thiết đối với nhiều người. Cơng việc đó có liên quan và
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động nhằm xây dựng còng
nghiệp hiện đại, đẩy mạnh nhịp độ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
4. T â m l í h o c la o đ ô n g v ớ i các c h u y ê n n g à n h tâ m lí h o c
k h á c và v ớ i các k h o a h ọ c k h á c về la o đ ô n g

4.1 Với các ch u yên n g à n h tâ m lí hoc k h á c
Trong hệ thơng các khoa học tầm lí hiện đại, tâm lí học lao
động thuộc vào một trong những chuyên ngành phát triển mạnh

nhất. Những vấn đề lí luận và thực tiễn mà tâm lí học lao động
đề cập tới ngày càng được mở rộng. Tính chất ứng dụng câa nó
ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của
mình, tâm lí học lao động ln luôn nằm trong môi quan hệ và
tác động qua lại mật thiết với các chuyên ngành tâm lí học khác
cũng như với các khoa học lân cận.
Tâm lý học lao động có quan hệ qua lại với Tâm. lí học đại
cương. Giữa chúng có sự chuyển đổi lẫn nhau ở hai nghĩa : từ
tâm lí học lao động đến tâm lí học đại cương và ngược lại. Đổi
với tâm lí học đại cương, tâm lí học lao động là một chuyên
ngành đề cập thường xuyên và cụ thể tới một lioạt động chủ yếu
của con người - hoạt động lao động. Đến lượt mình, tâm lí học
lao động lại sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau của
14


tâm lí học đại cương như : phương pháp lâm sàng (quail sát,
phán tích trực tiếp hành vi lao động), phương pháp thực nghiệm,
ch ẩn đoán (bằng trắc nghiệm). Và, trong khi nghiên cứu các
chức năng tám lí khác nhau (tri giác, trí nhớ, tư duy,..), tâm lí
học lao động góp phần làm phong phú thêm cho những tri thức
của tâm lí học đại cương, làm cho phần lí luận của tâm lí học đại
cương được chứng minh chặt chẽ hơn.
Đơi với vấn đê định hướng, tuyển chọn và hồ nhập nghề
nghiệp, tâm lí học lao động dựa trên những tri thức của Tâm l í
học sai biệt (là một chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm
lí của cá nhân) và dựa trên Tâm l í học người g ià (là chuyên
ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của q trình lão hố).
Trong việc đào tạo nghề nghiệp, tâm lí học lao động sử
dụng các quy luật phát triển tâm lí ở các lứa tuổi của Tâm l í học

p h á t triề n . Chính nhò tâm lí học dạy lao động, những quy luật

truyền thụ tri thức sản xuất, tri thức kỹ th u ậ t ngày càng được
snng tỏ và đó là tài liệu cần thiết cho tâm lí học phát triển. Bởi
vì, hoạt động lao động của con người được diễn ra trong một tập
thể» trong phạm vi của một tổ chức (hệ thơng kỹ thuật xã hội) và
tổ chuc này lại có liên quan với những yếu tơ' bên ngồi cho nên
tâm lí học lao động có quan hệ chặt chẽ với Tâm l í học xã hội,
Tăm l í học tố chức và Tâm l í học k in h tế.

Tầm lí học lao động và Tâm lí học xã hội có vấn đê chung
rấ t quan trọng: học thuyết về nhóm và tập thể. Ta biết rằng, về
phương diện lịch sử, cả tập thể lẫn con người đều hình thành
trong lao động. Trong bất kỳ nhóm lao động nào, những mối

15


quan hệ liên nhân cách cũng nảy sinh. Đó là địi tượng nghiên
cứu cùa cả tâm lí học lao động lẫn tâm lí học xã hội. Cùng với
việc nghiên cứu các loại nhóm và các mối quan hệ liên nhân
cácli trong nhóm, tâm lí học lao động cịn để cập tới sự tương
hợp nhóm (cịn gợi là sự phù hợp nhóm), những hiện tượng tâm
lí của đám đơng trong lao động tập thể ... Nliững vấn đê ây
củng được tâm lí học xã hội quan tám nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học tổ chức là những vấa
để tâm lí học trong việc lãnh đạo và tổ chức các tập thể lao động
cũng là những khía cạnh mà tâm lí học lao động quan tâm nhằm
mục đích hồn thiện các quan hệ lao động, trên cơ sở đó tăng
năng xuất lao động. Cịn đơi tượng của tâm lí học kinh tế là

những yếu tố tầm lí của các môi quan hệ giữa người sản xuất và
người tiêu dùng (người tiêu thụ). Đây cũng là vấn đề TLHLĐ có
ịÀ1

ja. ạ '

đê cập đen.
Tâm lí học lao động có quan hệ với Tâm l í học quân sự
trong mọi vấn đề lao động trong quân đội, nhất là lao động với
những khí tài hiện đại. Ngày nay, những vũ khí trong quân đội
đã được hiện hoá. Các chiến sĩ đều phải tiếp xúc và điều khiểũ
các loại máy móc hết sức đa dạng. Ở đây, cần nghiên cứu chiến
sĩ sử dụng vũ khí hiện đại giơng như đổi với việc nghiên cứu
thao tác viên bên những máy móc, thiết bị tối tân. Quan hệ
người - máy cần được đi sâu nghiên cứu. Những quy luật tâm ]í
rút ra từ những cơng trình nghiên cứu tâm lí học lao động có
nhiều tác động cho việc tiến hành nghiên cứu tâm lí học quân sự
và giúp trực tiếp vào việc đào tạc, liuấn luyện chiến sĩ mới

16


troỉtg mòi quan hệ với kỹ thuật. Các lĩnh vực tâm lí học hàng
khcng. tám lí học vũ trụ đã gắn với tâm lí học lao động bằng
nhfng mơi liên hệ hợp tác chặt chẽ.
Tám lí học lao động cũng có những mối liên hệ nhất định
v<3i Tâm lí học tội phạm . Chẳng hạn, tâm lí học tội phạm để cập
tời những hành động sai lầm và những đặc điểm nhân cách
trong môi liên hệ yới những hành động phạm pháp. Đảy cũng là
v.ấE đề rất gán với việc nghiên cứu các hành động sai và những

ngv.yên nhân gây ra hành động ^ai trong lao động. Nhưng, mối
liêr quan cbặt chẽ hơn cả được thể hiện ở chỗ, trong khi tâm lí
h ọc lao động nghiên cứu sự hồn thiện nhân cách trong lao động
nghề nghiệp, thì tầm lí học cải tạo phạm nhân lại nghiên cứu
qmá trình cải tạo nhân cách đang suy thối bằng hình thức lao
(ỈỘDg sản xuất.
Tâm lí học lao động có rất nhiều vấn đề cần giải quyết
cùng với Tâm lí học y học. Trước khi đi vào hàng loạt vấn đê của
giiáai định lao động, tâm lí học lao động khơng thể tách rời khỏi
têìir. lí học y học : vấn đề tuyển chọn người vào các nghề với các
điặc điểm bệnh lí cụ thể. ở đây, cần có sự kết luận về những
b(ậna mà nghề kiêng tránh, vê sự phù hợp nghề của nliững người
tàm tật, về những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động hoặc
híỏEg hóc kỹ thuật mà nguồn gốc là từ những đặc điểm chịu sự
chê ước sinh lý cụ thể ở mỗi người, về những liệu pháp y tế cần
thiiết cho những trường hợp đi vào nghề.
4.-2. Với các k h o a hoc k h á c vê lao đ ơ n g
Bởi vì lao động khơng thể được nghiên cứu chỉ dưới khía
cạini tâm lí của nó, cho nên-, cũng giơng như các chun ngành
tâm lí học kliác, tâm lí học lao động cố jpian hệ cả với nkững
I OA! HGC o '.Á I GIA HA HỢI


khoa học khác về lao động như: Sinh lí học và vệ sinh lao động,
Nhân trắc học, Kinh tê lao động và tơ chức, Kinh tê chính trị
học, Xã hội học (đặc biệt xã hội học công nghiệp). Môi liên hệ
giữa các ngành khoa học này được thể hiện rõ trong phạm vị của
Cơng thái học (Ergonomie). Chính ở trong công thái học - được
định nghĩa như một khoa học và kỹ thuật liên ngànli về lao động
- sự thích ứng lẫn nhau một cách hoàn chỉnh giữa người, máy và

mơi trường có thể được thực hiện. Cơng thái học sử dụng những
tư liệu của tâm lí học lao động và các cứ liệu của hàng loạt cúc
khoa học khác để giải quyết việc thiết kế các trạm, các bộ phận
điều khiển, bơ' trí nơi làm việc theo những thơng số ánh sáng, độ
ẩm, độ thơng gió, kích thước... Có thể nói rằng, tâm lí học lao
động đã và đang

góp phần không nhỏ vào việc định mức kỹ

thuật, xác định nhịp độ tối ưu trong lao động, xác lập chế độ làm
việc và nghỉ ngơi, chông lại những ảnh hưởng tiêu cực của sự
đơn điệu trong lao động đến tâm lí và sinh lí con người cùng với
nhiều vấn đề khác nữa mà khoa học tổ chức lao động đề cập đến.
5. Sơ lược lịch s ử p h á t t r i ể n c ủ a t â m lí h ọ c lao d ộ n g
Tầm lí học lao động xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi đó
được gọi là “kỹ th u ật tâm lí học” gắn liền trực tiếp với thực tiễu,
với nhu cầu giải quyết một số vấn đề của con người và xã hội.
Những tác phẩm công bô đầu tiên về TLHLĐ đã xuất hiện
không lâu trước chiến tranh thê giới I. Pliần lớn các sách này
đều đề cập đến những phương pháp và kết quả thu được trong
quá trình hoạt động thực tiễn. Các tác giả của những cuốn sách
ấy đều nghiên cứu các vấn đề do xí nghiệp mà họ làm việc ở đó
18


đề ri như: những vấn đề về việc tuyển chọn cơng nhân, vấn đề
díìy nghê cho cơng nhân, sự sắp đặt nơi làm việc, vấn đê vê các
n h ải tơ gáy ra các triíờng hợp bất hạnh hay những nhân tơ có
ảnh hưởng đến năng suất lao động kể từ sự chiếu sáng đến các
môi quan hệ của con người. Theo nghĩa này, năm 1959,

H.Vallon đă nhấn m ạnh rằng, những ứng dụng' thực sự đầu
tiên của tâm lí học vào lĩnh vực lao động đã không xuất phát từ
một chướng trình lí thuyết mà xuất phát từ những u cầu của
nển cơng nghiệp và lịng mong muốn nâng cao hiệu quả sản
XI lấ,.
Dể đạt được nguyện vọng này, tâm lí học lao động cơng
nghệp đă phát triển theo ba hướng chủ yếu : a) Định hướng và
tuyén chọn nghề nghiệp', b) Hợp lí hố lao động; c) Tâm lí học
cú.a 'ác mối quan hệ liên nhân cách.
Đối với hướng thứ nhất, một trong những nhà sáng tạo ra
tâm lí học lao động cơng nghiệp là H.Miinsterberg cho rằng,
bằ.ní việc thích ứng con người với những điều kiện lao động (tức
là,, ì>ằng việc tuyển chọn nghề nghiệp) những mục đích của
ch iựên Iigành khoa học mới này có thể đạt được. Đó là : tìm ra
điìíỢí người cơng nhân tốt nhất, tiến hành lao động trong những
đi«ều kiện tốt nhất và thu được những kết quả tốt nhất có thể
đuiỢc. Ong đã tiến hành kiểm tra tuyển chọn trong hàng ngũ các
sĩ quan hải quân, vô tuyến điện. Các kỹ th u ậ t kiểm tra đã phát
triiểĩ và được phổ biến rộng rãi trong thòi gian chiến tranh thế
gicới lần thứ nhất khi người ta tuyển lựa hơn một triệu rưỡi tân
biinl cho quân đội. Để phục vụ cho hướng' nghiên cứu này, ở

19


phương Tây và Liên Xô cũ đã xuất hiện nhiều phòng hướng
nghiệp. Phòng hướng nghiệp đầu tiên đã được thành lập ở
V i

*


Bostơn năm 1915. Từ 1916, những cơ quan clniyên môn wề
hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh và Italy.
Chẳng hạn, ở Đức năm 1925-1926 đã có 567 phịng tư vấn nghề
nghiệp đặc biệt, đã nghiên cứu gần 400.000 thanh thiếu niển
trong 1 năm. Vào thời kỳ này, công tác tư vấn đã rất được chú ý
ở Anh - nước đã thành lập một Hội đồng Quốc gia đặc biiệt
nghiên cứu về vấn đề này.
Về vấn đề hợp lí hố lao động, khoảng cuối thế kỷ trước, lsỹ
sư F.W.Taylor đã bắt đầu quan tâm đến việc tổ chức hoạt động
lao động trên cơ sở chia các thao tác ỉao động thành những đdto
vị đơn giản để loại bỏ những động tác thừa và như vậy sẽ làitn
giảm thời gian thực hiện các thao tác (“Phương pháp T aylo r”
liay “Dây chuyền Taylor”). Việc cải tiến thao tác, cải tiến ttổ
chức, cải tiến công cụ, mặc dù phải chi thêm những khoản tiê n
để tạo ra các điều kiện lao động mới nhưng thời gian bốc dỡ m ật
tấn hàng đã giảm từ 7 - 8 giờ xuông 3 - 4 giờ, sô' công nliâ.n
trong một nhà kho từ Õ00 giảm xng cịn 140 người, và t ắ t
nhiên tiền lãi mà nhà tư bản thu được là rất lớn. Cũng vàto
khoảng thời gian đó, F.B.Gilbreth (một kỹ sư) và vự ơnig
L.M.Gilbreth (một nhà tâm lí học) trong khi nghiên cứu việc hợip
lí hố các động tác lao động, đă đưa ra một số kỹ thuật phân tíc:h
mới : chụp ảnh và quay phim các thao tác lao động. Họ đã xátc
định được 17 yếu tô động tác được bao hàm trong các thao táic
lao động. Năm 1911, F.B.Gilbreth đã xuất bản cn sácli tạii
New York có tiêu đề: “Nghiên cứu các động tác. Kinh nghiệnn
20


tăng cường hiệu suất lao động của công n hân ”. Những nghiên

cứu này đã được R.M.Barnes tiếp tục và năm 1937 ông đã xác
lặp .tược các nguyên tắc tiết kiệm động tác và 22 quy tắc hợp lí
ho á ỉộng tác lao động.
Thuộc hướng này đã xuất hiện nhiều nghiên cứu đề cập tới
sức àm việc của con người: Chắng hạn, trong khoảng thời gian
từ :901 - 1903. bằng những thực nghiệm của mình, I.M.
Xèsónốp đã cơ gắng nêu lên cơ sở sinh lý của các q trình tâm
lí qi.yết định chất lượng của quá trình lao động. Và sau khi xác
địnl. các tiêu chuẩn về thời gian tối ưu của một ngày lao động,
Xêiscnơp đă đặt nền móng cho học thuyết về sự nghỉ ngơi tích
cực aià bây giờ sinh lí học lao động và TLHLĐ dựa vào đó để
ch ơrg lại sự mệt mỏi.
Nám 1905, F.Kraepelin đã sử dụng các phương pháp thực
nghiệm vào nghiên cứu lao động và đề xuất việc đo đạc sự mệt
ni(ỏi. Nám 1910, J.M.Laky quan tâm đến các điều kiện lao động
củ a các cơng nhân sắp chữ trong nhà in, tìm tịi các dấu hiệu
kbiáíh quan của sự mệt mỏi trong ìao động trí óc theo tinh thần
ch ốr.g lại quan điểm Taylor.
Để phục vụ cho các nghiên cứu về tâm lí học lao động,
tron! hầu hết các nhà máy lớn hoặc trong các cơ sở công nghiệp
thiúc các ngànli lao động cơng nghiệp đều hìnli thành các phịng
th:í rgliiệm tâm - sinh lí của mình. Ở đó đã tiến hành có kết quả
nhiiêu cơng trình về TLHLĐ. Tuy nhiên, có một sơ’ phịng thí
ug;h:ệm lại do những người khơng được đào tạo về chuyên môn

21


đảm nhận nên khơng đem lại những lợi ích thiết thực(đặc biệt là
ở Liên Xơ cũ).

Vì vậy, tiếp theo là thời kỳ người ta tỏ ra dồ dặt đối với
những nghiên cứu đó bởi vì chúng đã bỏ qua những kliía cạnh
rất quan trọng của các q trình tri giác, tư duy và xem con
ngươi thuần tuý như một “động cơ sông'’ với những hậu quả tiêu
cực về mặt tâm lí xã hội.
Sự phát triển nhanh chóng của các thiết bị quân sự trong
thời gian “Chiến tranh thê giới thứ II” đã ngay lập tức lôi kéo sự
chú ý của các nhà chuyên môn (các kỹ sư, các nhà tâm lí học,
các nhà qn sự) bởi vì hiệu quả sử dụng và độ tin cậy cùa các
thiết bị mới không đạt tới mức hoàn thiện về kỹ thuật. Việc
ế
tuyển chọn và đào tạo các thao tác viên trong quân đội chưa đáy
đủ, bởi vì các thiết bị quân sự đã khơng lưu ý tói khả năng cũng
như những giới hạn của con người đã được quan tâm. Lần nảy
đặc biệt là vấn đề về những giới hạn của coủ người đã được qtn
tâm. Con người khơng cịn bị xem như một “động cơ sông” đđn
giản chỉ thực hiện những động tác, mà như một kênh tniyển
thơng tin. Từ đó, bắt đầu thời kỳ phôi hợp chặt chẽ giữa các nhà
tâm lí học và các nhà kỹ thuật trong các lực lượng quán sự của
Mỹ. Tâm lí học kỹ sư đã ra đời như vậy. Đó là chun ngành
tâm lí học quan tâm nghiên cứu những khả năng, những giới
hạn tâm lí của con người và làm sao cho những đặc điểm cấu tụo
của máy móc phù hợp với những khả năng tâm lí đó. Tâm lí học
kỹ sư là một nhánh của tâm lí học lao động và nó ra địi từ trong
lịng tâm lí học thực nghiệm hơn là từ tâm lí học cơng nghiệp, ở

22


giai đoạn đầu, tâm lí học kỹ sư hầu như chỉ quail tâm đến việc

thích ứng những thiết bị đo đạc, các bộ phận điểu khiển, sự
phân bô"các bộ phận này v.v...
Vào cuối giai đoạn 1950 - 1960, xuất hiện một sự thay đổi
trong quan điểm của tâm lí học lao động công nghiệp, cũng như
trong Công thái học, theo nghĩa : việc nghiên cứu phải được “tập
trung vào hệ thông” , sự vận hành của hệ thông phụ thuộc vào
sự vận hành của con người và của máy móc. Như vậy, đơi tượng
cùa tám lí học lao động cơng' nghiệp được mở rộng và đặc biệt đa
dạng cả trên bình diện lí luận lẫn thực tiễn.
Đơi với tâm lí học của các mối quan hệ người - người, khởi
đầu của những nghiên cứu này được biết đến dưới tên gọi “các
Uịgbiên cứu của nhóm Harvard”, là các nghiên cứu được E.Mayo
klhoi xướng và lãnh đạo vào năm 1927 ở “Công ty điện lực miền
T ây” (Mỹ). Nhân dịp này, người ta đã làm sáng tỏ một điều,
rầ n g : ngồi những yếu tố vật lí, cịn có những yếu tơ' tâm lí xă
h(ội cũng ảnh hưởng tới hiệu suất lao động. Các nghiên cứu tiếp
theo đã hoàn chỉnh danh sách những yếu tố này và đã làm rõ
Víai trị của từng yếu tơ như: động cơ; hứng thú; nhu cầu được
k hảng định và đánh giá; thái độ; dư luận; sự tkoả mãn trong lao
điộng; các mồi quan hệ liên nhân cách (hấp dẫn - xa lánh; sự lịch
tlỉiiệp; sự thân thiện; sự bàng quan, tliờ ơ); cấu trúc của nhóm
laio động (độ lớn, thành phần, tổ chức, giao tiếp, lãnh đạo, quyết
đỉịnh); việc tổ chức nhà máy như một hệ thông kỹ thuật xã hội
tlỉiôug nhất và có liên quan với các hệ thơng khác v.v... Trên cơ
S(ỏ những nghiên cứu đó, năm 1933, Mayo đă viết cuốn “Nliững

23


vấn đề cou người của nền văn minh công ngi


ụ . Trong đó ơng

đã kliảng định rằng, lí thuyết hiện đại về công tác quản lý phải
dựa trên nền tảng của những thành tựu tâm lý học. Và cái gọi là
học thuyết vể "các môi quan hệ của con người’' do Mayo xây
dựng từ những thực nghiệm ở Hotoóc nơ vẫn còn giá trị đồn
ngày nay.
Như vậy, tất cả các hướng nêu trên bao hàm những vấn (tề
rộng lớn của tâm lí học cá nhân và tâm lí học xã hội trong lao
động cơng nghiệp. Nghiên cứu lí luận và ứng dụng tất cả những
vấn đề đó cùng với những nghiên cứu thuộc các chuyên ngành
khoa học khác có tác dụng tối ưu hoá và nhân bản hoá lao động.
ở Việt Nam, ngành sinh lí học lao động mới bắt đầu hoật
động thực sự từ năAi 1963. Tuy còn non trẻ nhưng sinh lí bọc lao
động Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sản xuất và
chiến đấu.Trong mấy chục năm qua, chúng ta đã có hàng trăm
cơng trình nghiên cứu có giá trị về nhiều lĩnh vực như : “Cường
độ lao động từng lúc trong lao động” (Tô Như Khuê, Bùi Thụ);
“Đánh giá sự mệt mỏi trong và sau lao động, chiến đấu” (Bùi
Thụ, Bùi Thu Nguyên, Phạm Quý Soan ...); “Khả năng thích
nghi của những người làm việc lâu năm ở chỗ nóng” (Ngơ Đưc
Hưởng, Bùi Thụ, Nguyễn Hùng ...).
Năm 1971, “Viện nghiên cứu khoa học, kỹ thuật bảo hộ lao
động” được thành lập. Trong chương trình nghiên cứu của viện
có đề cập tới tấm lí học lao động (vấn đê hướng nghiệp, lao đỘDg
sư phạm ...). Năm 1975, cuốn sách đầu tiên, khá đầy đủ về
Ergonomie ở nước ta ra đời - cuốn “Khoa học lao động" của
V.


24


×