Tải bản đầy đủ (.pdf) (347 trang)

Tìm hiểu lịch sử ngành Tâm lý học: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.84 MB, 347 trang )

Nhập môn lịch sử
^

TÂM
LY


B.R.HERGENHAHN

Nhập môn

LỊCH SỬ
TAM LY HOC
Người dich: Luu

Van Hy

NHA XUAT BAN THONG KE


NHAP DE
C

ách định nghĩa tâm lý học đã thay đổi vì tiêu điểm của
tâm lý học thay đổi. Vào những thời khác nhau trong lich

sử, tâm lý học từng được định nghĩa như là môn học về tâm
về tinh thần, hay ý thức, và gần đây hơn, là môn học hay
học về hành vi con người. Vì vậy, có lẽ chúng ta đi đến một
nghĩa có thể chấp nhận được về tâm lý học biện đại bằng
quan sat xem các nhà tâm lý học ngày nay tập trung chú


điều gì.

hồn,
khoa
định
cách
ý Vào

« Một số nhà tâm lý học chú trương tìm kiếm các sự kiện sinh

vật học tương ứng với các sự kiện tỉnh thần như cảm giác, tri

giác, hay sự hình thành

của ý tưởng.

- Một số tập trung tìm biểu các nguyên lý chí phối việc học tập
và trí nhớ.

* Một số tìm hiểu con người qua việc nghiên cứu các lồi đơng
vật.

- Một số tìm kiếm các động lực vơ thức.
- Một số tìm cách cải thiện hiệu quả tổ chức công nghiệp, hay việc

thực hành nuôi day trẻ em bằng cách sử dụng các nguyên tắc
tâm lý học.

- Một số cố gắng cắt nghĩa hành vi ứng xử của con người theo


thuyết tiến hóa.

- Một số cố gắng lý giải những khác biệt giữa các cá nhân trong

các lãnh vực như nhân cách, trí thơng minh, và óc sáng tạo.

- Một số quan tâm chủ yếu tới việc hồn thiện các cơng cụ trị
liệu hữu ích để giúp chữa tr] các cá nhân bị rối loạn tâm thần.

5


- Một số tập trung vào các kỹ thuật xứ lý thơng tín rầ người
ta sử dụng đề thích ứng với môi trường hay giải quyết các
vấn đè,
- Cũng cần cá những người khác chuyên nghiên cứu việc con người

thay đất như thê nào trong quy trình trưởng thành.

Trên đây mới chỉ là một số ít hoạt động mà các nhà tâm lý học

ngày nay dấn mình vào.

Rõ ràng là không một định nghĩa duy nhất nào về tâm lý học
có thể bao quát được phạm vi bao la các sinh hoạt mà trên 70
ngàn thành viên và chi nhánh của Hiệp Hội Tam Ly Hoc Hoa Ky,

chưa kế nhiều nhà tâm lý học khác trên khắp thế giới đang thực
hiện. Có lẽ tốt nhất nên nói đơn giản răng tâm lý học được định
nghĩa qua các hoạt động chuyên nghiệp của các nhà tâm lý học.

Các hoạt động này được đặc trưng bởi sự da đạng về phương pháp,

chủ để quan tâm, và những giả định về bản tính con người. Một

mục đích chính của sách này là xem xét các nguẫn gốc của tam ly
học hiện đại và chứng mủnh rằng phần lớn sự quan tâm của các

nhà tâm lý học ngày nay là những phát biểu về các đề tài vốn đã
là thành phần của tâm lý học trong bàng trăm, hay trong nhiều

trường hợp, hàng ngàn năm nay.

CAc VAN BE Kal VIET LICH $Ï TÂM LÝ HOC

Bất đầu từ đâu
Theo nghia den, tam ly hoc Ìà môn học vẻ tâm hồn hay tỉnh
thần, và môn học này cũng xưa như con người vậy. Ví dụ, người

thời cổ đã từng tìm cách cắt nghĩa các giấc mơ, các bệnh tâm

thần, cảm xúc, và tưởng tượng. Đó có phải là tâm lý học không?

Hay tâm lý học bắt đầu khi người ta giải thích về kinh nghiệm

nhận thức của con người, như những giải thích của các nhà triết
học thời kỳ đầu, trở thành hệ thống? Plato và Aristotle, chẳng

hạn, đã tạo ra những lý thuyết tỉnh vi để tìm cách cắt nghĩa các
quy


trình

như

trí nhớ,

tri giác, và

học

tập.



phải

đó

là khởi

điểm của tâm lý học không? Hay tâm lý học bắt đầu được xem
6


nhu la ménu học thật sự khi nó trở thành một khoa học biệt lập

vào thế kỷ 19? Thói quen phổ biến ngày nay là bắt đầu một
quyển sách về lịch sử tâm lý học ở điểm mà tâm lý học trở thành

môt khoa học biệt lập. Phương thức này khơng thỏa đáng vì hai

lý do sau: (1L) Nó bỏ qua hết những di sản triết học to lớn vốn đã
khuôn đúc tầm lý học thành loại khoa học như nó trở thành một
mơn

học

hơm

nay;

(2) nõ

gạt bỏ

hết

các khía

cạnh

tám

lý học

quan trọng nằm ở ngoài lãnh vực khoa học. Mặc dù đúng là từ thế
kỷ 19 tâm lý học phần lớn đã chọn phương pháp khoa học, nhưng
cũng từng có những nhà tâm lý học rất uy tín mà khơng hề cầm

thấy bó buộc theo phương pháp khoa học. Không thể không xét
đến cơng trình của họ.

Chúng
khơng

ta sẽ nhìn về một nội dung lịch sử tâm lý học mà sẽ

đi ngược với các khái niệm

của các tác giả cổ đại, mặc dù

chúng ta tìn rằng các khái niệm ấy nằm trong phạm vì tâm lý
học. Chúng ta khơng có đủ chỗ cho một lịch sử quá bao quát như
thế. Bù lại, chúng ta sẽ bắt đầu với các triết gia lớn của Hy Lạp,
vì các giải thích của họ về hành vi con người và các quy trình tư
tưởng là các giái thích ln ln có sự phản ứng của các nhà triết
học và tâm lý học từ thời đó đến nay.
Bao gầm

những



Một cách tiêu biểu, khi xác định phải bao gồm gì trong một
lịch sử về bất cứ điều gì, người ta thường lần ngược trở về với con
người, nối các ý tưởng và sự kiện dã dẫn tới những gì là quan
trọng trong hiện tại. Chúng

ta cũng sẽ chọn phương pháp này

bằng cách xem xét đường lối của tầm lý học hiện nay và rồi tìm
cách chứng minh bằng cách nào nó đã trở thành như hiện nay.

Lấy tình trạng hiện hành của tâm lý học như là một hướng dẫn
để viết lịch sử của nó thì sẽ ít dẫn đến ra một nguy cơ lớn. Stoek-

¡ng (1965) gọi phương pháp lịch sử này là thuyết hiện sw
(presentism). Thuyết hiện sử tương phản với thuyết duy sử,

hay sự nghiên cứu quá khứ vì chính q khứ mà khơng tìm cách
rút ra mối quan hệ giữa quá khứ với hiện tại. Thuyết hiện sử ngụ


ý rằng tình trạng hiện tại của một mơn học là tình trạng phá!
triển cao nhất của nó và các sự kiện trước nó đều trực tiếp dẫn
đến tình trạng này. Theo quan điểm này, cái gì đến sau cùng là
cái tốt nhất. Mặc dù chúng ta đang lấy tâm lý học hiện tại làm
hướng dẫn để viết về nội dung lịch sử tâm lý học, chúng ta không

tin rằng tâm lý học hiện tại tất nhiên là tâm lý học tốt nhất.
Phạm vi quá khác biệt khiến chúng ta khơng thể có một phán

đốn như thế. Hiện nay, tâm lý học đang khai thác rất nhiều dé
tài, phương pháp và giá định. Những khai thác nào có khả năng
tồn tại để được kể vào các sách lịch sử tâm lý học trong tương Ìai

thi khơng ai có thể nói được. Vì vậy việc chúng ta dùng tâm lý học

hiện tại làm khung quy chiếu khơng có nghĩa chúng ta giả thiết

rằng tâm lý học quá khứ tất yếu đã dẫn đến tâm lý học hiện tại

hay tam ly hoc hién tai JA tam lý học tốt nhất.


Mặc dù tâm lý học hiện đại cung cấp thông tin cho ta biết phải
bao gồm các cá nhân nào, ý tưởng nào, và sự kiện nào vào lịch sử

tâm lý học của chúng ta, nhưng vẫn còn vấn đề là phải chọn các
thông tin ấy một cách chỉ tiết tới mức nào. Chẳng hạn, nếu người
ta muốn

tìm ra mọi nguyên nhân

của một ý tưởng. người ta sẽ rơi

vào một cuộc tìm kiếm vơ tận. Trong thực tế, sau khi cố gắng tìm

về nguồn gốc của một ý tưởng hay khái niệm trong tâm lý học,
người ta rơi vào một ấn tượng (cảm tưởng) rằng chăng bao giờ có
gì hồn tồn mới mẻ cả. Hiếm khi một cá nhân duy nhất lại lã
nguồn gốc tạo ra một ý tưởng hay một khái niệm. Đúng hơn, các
cá nhân chịu ảnh hướng lẫn nhau, cá nhân này chịu ảnh hưởng

bởi cá nhân khác, v.v...Do đó lịch sử của bất cứ điều gì đều có thể
coi như một địng chảy khơng ngừng của các sự kiện tương quan

lấn nhau. Các cá nhân “vĩ đại” là những người tiêu biểu đã biết
tổng hợp các ý tưởng mơ hỗ hiện có để biến chúng thành một
quan điểm rõ ràng và thuyết phục. Cấ gắng liệt kê mọi dẫn chứng
liên quan đến nguồn gốc của một ý tưởng hay một khái niệm
trong một cuốn sách lịch sử sẽ đòi hải quá nhiều chỉ tiết và làm

cho cuốn sách trở nên dài dịng và nhàm chán. Giải pháp thơng


thường là loại bỏ một lượng lớn théng tin, làm cho lịch sử trở nên
có chọn lọc. Chỉ những cá nhân nào tiêu biểu có cơng nhiều nhất

8


trong việc phát triển hay phổ biến một ý tưởng sẽ được xét đến
trong sách. Ví dụ, Charles Darwin thường được gắn liền với thuyết

tiến hóa, tuy rằng trong thực tế thuyết tiến hóa đã tơn tại hàng

ngàn năm dưới hình thức này hay hình thức khác. Chứng cớ được
Darwin thu thap va báo cáo củng cấ cho thuyết tiến hóa một cách
khá vững chắc khiến người ta khó mà phủ nhận được. Mặc dù

Darwin không phải người đầu tiên phát biểu thuyết tiến hóa, ơng

đã có cơng lớn để làm cho thuyết nàv vững vàng và trở nên phổ
biến, do đó chúng ta gắn liền thuyết tiến hóa với tên tuổi của ông.
Điều này cũng áp đụng được cho Freud với khái niệm

về động cơ

vơ thức.
Trong

sách

này,


từng có cơng lớn
bất cứ lý do nào,
ý tưởng. Điều này
nhân quan trọng

chúng

ta sẽ tập

trung

vào

các cá nhãn

nào

nhất trong việc khai triển một ý tưởng, hay vì
từng được gắn liền một cách mật thiết với một
khơng có nghĩa là bất cơng đối với răt nhiều cá
khác đã bị lãng quên trong quá khứ xa xăm hay

khóng đú mạnh và xuất sắc để địi hồi được sự nhìn nhãn.
Chọn

Phương

Pháp


Sau khí đã chọn nội đưng cho một quyển lịch sử tâm lý học, ta
còn phải chọn phương pháp nữa. Người ta có thể nhấn mạnh đến
ảnh hướng cúa các nhân tố không thuộc tâm lý học như sự phát

triển trong các khoa học khác, bầu khơng khí chính trị, tiến bộ kỹ

thuật, và các điều kiện kinh tế. Gộp chung lại, các nhân tố này và
cdc nhan té khdc tao thanh mdét Zeitgeist, (tink than thoi dav),

mà nhiêu sử gia coi là quyết định để hiểu bất cứ sự phát triển lịch
sứ nào. Hoặc người ta có thể lấy phương pháp danh nhân,
bằng cách nhấn mạnh các tác phẩm của các tác giả lớn như Plato,
Aristotle, Descartes, Darwin, hay Freud. Hoặc

người ta có thể lấy

phương pháp phát triển lịch sử, bằng cách chứng minh làm
thế nào các cá nhân hay sự kiện khác nhau góp phần tạo những

thay đổi trong một ý tưởng hay khái niệm trong lịch sử. Ví dụ,

người ta có thể tập trung vào sự kiện ý tướng về bệnh tâm thần

đã thay đổi thế nào trong lịch sử.


Trong phương pháp lịch sử Lâm lý học của ông, E. G. Boring (1886
- 1968) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần thời đại
(Zeitgeist) trong viéc xác định Hệu một ý tưởng hay quan điểm có
được chấp nhận hay không và được chấp nhân tới mức nào. Rô

ràng các ý tưởng khúng từ trên trời rơi xuống. Một ý tưởng mới
muon được chấp nhận hay được xét đến, thì phải tương hợp với
các ý tưởng đã cá. Nói khác ởi, một ý tưởng mới sẽ chỉ được chấp
nhận nếu nó xuất hiện trong một mơi trường có thể hấp thu nó.
Một ý tưởng hay quan điểm xuất hiện trước khi người ta được
chuẩn bị để chấp nhận nó thì sẽ khơng được hiểu đúng để có thể

được phê bình và đánh giá, Điểm quan trọng ở đây là giá trị

không phải tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá một ý tưởng; các
nhân tố tám lý và xã hội cũng quan trọng, ít ra là cũng bằng giá
trị. Các ý tưởng mới luôn luôn được đánh giá trong bối cảnh các ý
tưởng có sẵn. Nếu các ý tưởng mới gần giịng với các ý tưởng có
sẵn, ít ra người ta có thể biết chúng; chúng được chấp nhận, bị
bác bổ hay làm ngơ lại là chuyện khác.
Phương pháp chúng ta sẽ dùng để viết lịch sử tâm lý học là
phương pháp Zeitgeist, phương pháp vĩ nhân, và các phương pháp
phát triển lịch sử. Chúng ta sẽ cố gắng chứng minh rằng đôi khi
tỉnh thần thời đại sản sinh ra các vĩ nhân và đôi khi các vĩ nhân
ảnh hướng tới tỉnh thần thời đại. Chúng ta cũng sẽ chứng minh

rằng cả các vì nhân lẫn bầu khí chung của thời đại có thể giúp
thay đối một ý tưởng hay khái niệm như thế nào. Nói khác đi,
chúng ta sẽ dùng phương pháp chọn lọc nghĩa là chúng ta sẽ
sử đụng bất cứ phương pháp nào tả ra thích hợp nhất để soi sáng
một khía cạnh của lịch sử tâm lý học.

TAI SAO HOC LICH Sil TAMLY HOC?
Viên tượng
Như chúng ta đã thấy, có một số ý tưởng ít khi vừa xuất hiện

đã đây đủ rỏi. Ngược lại, có một số khác lại thường phát triển
trải qua một thời gian. Xem xét các ý tưởng trong viên tượng lịch
10


sử của chúng sẽ giúp sinh viên đánh giá đây đủ hơn nội dung của
tâm lý học hiện đại. Tuy nhiên, xem xét các vấn để và các thắc

mắc đang được tâm lý học giải quyết như là những biểu hiện của

các vấn đề và thắc mắc kéo dài nhiều thế kỷ qua là một công việc

chán nản và đôi khi thất vọng. Xét cho cùng, nếu các vấn để cúa
tâm lý học đã được mổ xẻ qua biết bao thế kỷ, liệu bây giờ chúng

có thể được giải quyết không? Nhưng ngược lại, biết được rằng

việc nghiên cứu của mình hãm nay đã từng được chia sẻ và đóng
góp bởi những đầu óc vì đại nhất trong lịch sử lồi người thì cũng
là một điều rất hứng thú.
Hiểu

sâu hơn

Với viễn tượng lớn hơn, chúng ta sẽ có sự hiểu biết sâu hơn.

Với sự hiểu biết lịch sử, sinh viên sẽ không cẩn nhải dựa vào đức
tin để thấy được tầm quan trọng của chất liệu của tâm lý học hiện

đại. Một sinh viên có kiến thức lịch sử sẽ biết được chất liệu cửa

tâm lý học đến từ đâu và tại sao nó được coi là quan trọng. Cũng

như người ta hiểu biết rõ hơn vẻ hành vì hiện tại của một. người
nhờ tìm hiểu nhiều hơn về các kinh nghiệm quá khứ của người ấy,

vậy thì người ta cũng hiểu biết rõ hơn về tâm lý học hiện hành

bằng cách nghiên cứu các nguồn gốc lịch sử của nó.

Nhận ra các mốt nhất thời và truyền thống
Khi học lịch sử tâm lý học, người ta thường bị ấn ¿tượng mạnh

khi nhận ra rằng một quan điểm không luôn ln biên mất vì nó
sai, đúng hơn, một số quan điểm biến mất. chí vì nó khơng được
người

ta ưa chuộng.

Điều

được

ưa

chuộng

trong

tâm


lý học

thì

thay đổi theo tinh than cia thời đại. Ví dụ, khi tâm lý học lan
đầu tiên xuât hiện như một khoa học, người ta nhấn mạnh vào
tính chất khoa học “thuần túy” - nghĩa là sự đạt trí thức mà

khơng quan tâm gì đến tính hữu dụng của nó. Vẻ sau, khi lý
thuyết của Darwin trở thành phổ biến, tâm lý học chuyển sự chú

ý vào các quy trình của con người có liên quan đến sự sống cịn
hay cho phép cún người sống hiệu quả hơn. Ngày nay, sự nhấn
mạnh

chủ yếu cúa tâm lý học là nhằm

vào các quy trình nhận

1


thức và sự nhấn mạnh này một phần là do những tiến bộ gần day
trong cơng nghệ thơng tìn.
Trong hài phát biểu của bà chủ tịch Fell khi chủ tọa Hội Quốc

Tế về Sinh học Tế bào với nhan đề “Mốt thời trang trong Khoa
Sinh học Tế bào, bà Fell nêu rõ rằng nếu không nhận ra mốt

thời thượng trong khoa học, chúng ta sẽ chỉ mất thời giờ và sức

lực mà thôi.
Trong

khoa học,

cũng giếng như trong thời trang,

các mốt

van lặp đi lặp ìai Có một sự lặp di lap lait đáng buồn, 0ò là
những hậu quả đáng tiếc của số lương to lớn các nghiên cứu

uà những sách oở bao la tà khơng thể kiểm sốdt mà nó tạo
ra. Tơi xin nêu một dụ nhó 0ê loại uấn đề mà tôi dang
quan tâm. Vào thập niên 1920, một số đồng nghiệp của tơi

đã làm một loạt thí nghiệm sâu rộng đã xuất bản nó. Ít
năm trước, một báo cúo tê một nghiên cúu hậu như y hệt
Uới cùng những bết qud dã xuất hiện trên một tạp chí, mà
khơng nhắc gì đến nghiên cứu trước bía. Một đồng nghiệp
của tơi đã oiết thư trình bày điều này cho tác giả, va vi nay
trủ lời rằng ông không bao giờ trích dẫn một tàt liệu nào có
trước năm

1946.

(1960,

tr. 162ãt.)


Với các ví dụ trên đây về việc các đề tài nghiên cứu thịnh hành

rồi biến mất trong khoa học, chúng ta lại thấy được rằng “tính hiện
thực” khơng phải yếu tế duy nhất để quyết định liệu một ý tướng có
thể được chấp nhận hay khơng. Học về các yếu tố tâm lý và xã hội
liên quan tới sự tích lũy kiến thức sẽ cho phép sinh viên đặt các
kiến thức đang thịnh hành vào trong một viên tượng thực tế hơn.

Viễn tượng này sẽ cho phép sinh viên hiểu rằng tập hợp các kiến
thức được chấp nhận

là quan

trọng hay “đúng” thì cũng có một

phần chủ quan và độc đốn. Vì tỉnh thần thời đại thay đổi, nên
những gì được coi là mốt trong khoa học cũng thay đổi theo, và tâm
lý học cũng khơng nằm

ngồi quy trình này.

Tránh lặp lại sai lầm
George Santayana từng nói: “Những ai khơng biết lịch sử thì
12


tất yếu phai lặp lại lịch sử.” Sự lặp lại lịch sử như thế sẽ khá tệ

hại nếu nó chỉ lặp lạt những thành cơng, bởi vì q nhiều thữi giờ
và sức lực bị phí phạm. Tuy nhiên, nó cịn tệ hại gấp bội nêu

người ta lặp lại các sai lắm của lịch sử. Như chúng ta sẽ thấy
trong sách này, tâm lý học cũng chung số phận trong các sai lắm

và bế tắc của nó. Một sai lâm )à tìn rằng các khả năng của trí
khơn có thê được kiện cường bằng việc luyện tập, giống như người

ta luyện tập cơ bắp. Một bế tắc của cả một trường nhái cơ cấu
luận, khi các thành viên của trường phái này tìm cách nghiên cứu
các yếu tố tư tưởng bằng việc sử dụng phương pháp nội quan. Nói
chung người ta đã nghĩ rằng các cố gắng của trường phái cơ cấu
luận, tuy vơ cùng thịnh hành vào thời đó, nhưng nó nghèo nàn và
khơng hiệu quả. Nhưng một cấ gắng như thế được thực hiện là
diéu quan trong cho tam ly hoc, vi qua đó chúng ta học được bài
học rằng một phương pháp như thế không mang lại lợi ích bao
nhiều. Giống như những bài học quan trọng khác, bài học này sẽ

bị mất nếu người ta cứ lặp lại các sai lằm của quá khứ do việc
thiếu hiểu biết về lịch sử.
Một Nguồn mạch các ý tưởng giá trị
Nhờ học lịch sứ, chúng ta có thể khám phá ra các ý tưởng

đã từng được khai triển trước kia, nhưng vì một lý do nào đố bị

lãng quên.

Lịch sử khoa bọc cho thấy nhiều ví dụ về một ý

tưởng chỉ được người ta chú ý đến khi người ta tái phát hiện ra

nó một thời gian đài sau khi nó được để nghị lần đầu tiên. Đây

là sự kiện rất phù hợp với việc cắt nghĩa lịch sử bằng tỉnh
thần của thời đại, vì nó gợi ý rằng một số điều kiện thì thích
hợp cho việc chấp nhận một ý tưởng hơn là một số điều kiện
khác. Các khái niệm về tiến hóa, động cơ vơ thức, và phản xa
có điều kiện đã từng được để nghị và được đề nghị lại nhiễu
lần trước khi chúng được cống hiến trong một bầu khơng khí
cho phép có sự phê bình và đánh giá. Chắc chắn rằng nhiều ý
tưởng có tiểm năng hiệu quả trong lịch sử tâm lý học vẫn đang
chờ để được thứ lại một lần nữa trong những hồn cảnh mới

và có lề dễ tiếp thu hơn.

L5


Sự hiếu kỳ
Thay vì hỏi câu hồi “Tại sao học lịch su tam lý học?” có lẽ tốt

hơn ta nên hỏi “Tại sao không?”. Nhiều người học lịch sử nước Mỹ
vi ho quan

tâm

đến

nước

Mỹ,

và các thành


viên trong

một

gia

lớn tuổi trong gia đình. Nói khác

di,

đình thường thích thú nghe những câu chuyện về những thời kỳ
đầu của các bậc cha chú

muốn biết thật nhiều về một đề tài hay một nhân vật quan trọng,
gầm lịch sử của dé tài hay nhân vật ấy. là điều tự nhiên. Tâm lý
học cũng không phải là một ngoại lệ.

Học lịch sử tâm lý học cho phép sinh viên đặt tâm lý học hiện
đại trong viễn tượng lịch sử, hiểu tâm lý học hiện dai day du hon.
nhận ra rằng những gì thịnh hành trong tâm lý học thì thường

được quyết định bởi các yếu tố xã hội và tam lý, thấy được các sai
lảm của quá khứ để không lặp lại chúng một lân nữa, khám phá
ra các ý tưởng có ích lợi tiềm tàng, thỏa mãn sự tò mò về một
điểu được coi là quan trọng.

KHOA HOC LA Gi?
Ở nhiều thời kỳ trong lịch sử, từng có các nhà tư tưởng lớn
(ví dụ GaHleo và Kant) tuyên bố rằng tâm lý học sẽ không bao

giờ có thể là một khoa học bởi vì đối tượng của tâm lý học là
kinh nghiệm chủ quan. Nhiều nhà khoa học tự nhiên vẫn cịn
tín như thế, và một số nhà tâm lý học không muốn tranh luận

với bọ. Viết một lịch sử tâm lý học như thế để tâm lý học có thể

được coi là một khoa học hay không chỉ phối đến. Tuy nhiên, để
trả lời câu hỏi tâm lý học có là một khoa học hay không, trước

tiên chúng ta phải
hiện như một cách
bằng cách quan sát
vào các tín điều của

định
thức
trực
Giáo

nghĩa khoa học là gì. Khoa học xuất
để trả lời cdc cau hai về thiên nhiên
tiếp thiên nhiên, chứ không phải dựa
Hội, các tác giả xưa, sự mê tín, hay các

quy trình tự tưởng trừu tượng mà thỏi, Khoa học ngay từ đầu đã

đựa vào thẩm quyền cao nhất là sự quan sát thường nghiệm

(nghĩa là quan sát trực tiếp thiên nhiên), nhưng khoa học không


chỉ là quan sát thiên nhiên.

14


Muốn hữu ích, việc quan sát phái được tổ chức hay xếp loại mơt
cách nào đó vào các phạm trù, và phải ghi nhận các cách thức mà
một cuậc quan sát giống hay khác với các quan sát khác như thế
nào. Sau khi ghi nhận những tương đồng và dị biệt với các quan
sát khác, nhiều nhà khoa học đi thêm một bước nữa là cố gắng
giải thích điều họ đã quan sát được. Vì vậy khoa học thường được
mơ tả vấi hai thành phần chính: (1) quan sát thường nghiệm và

(2) lý thuyết. Theo Hull, có thể thấy hai khía cạnh này của khoa
học ngay từ những cố gắng rất xa xưa nhất của con người để tìm
hiểu thế giới:

Con người ln ln đấn mình uờo một hoạt động mang
hat khía cạnh là quan sát 0à suu đó tìm cách giải thích

những điều họ thấy. Mọi con người bình thường ở mọi thời

đợi đều đã từng quan sát mặt trời mọc 0à lặn va cde chu
kỳ khác nhau cúa mặt trăng. Những người có tư duy hơn
thì bắt đâu đặt câu hỏi: “Tại sao? Tợi sao một trăng khi
tròn khi

khuyết?

Tại sao mặt


trời lúc mọc

lúc lặn,

uà nó

lặn vé đâu?” Ở đây chúng ta có hai yếu tố của khoa học
thời cận dai: viée quan sát tạo thònh yếu tố thường nghiệm

hay sự biện, uờ cố gắng hệ thống để giải thích các sự kiện

này tạo thành yếu tố lý thuyết. Khi khoa học phát triển,
thì có sự chun mơn hóa, hay phản công; một số người
dành thời giờ chủ yếu.cho uiệc quan sót, trong khi một số
it hon chuyén lo cdc van đề giút thích.

Hai thành phần chính của khoa học cũng. có thể thấy được

trong định nghĩa của Stevens về khoa học: “Khoa học cố gắng tạo
ra các mệnh đề có thể xác nhận được qua việc làm cho một hệ
thống ký hiệu hình thức (ngân ngữ, tốn học, luận lý) ăn khớp với
quan sát thường nghiệm.”

Phối hợp thuyết Duy lý với thuyết Duy nghiệm
Điều làm cho khoa học trở thành một dụng cụ mạnh

như thế

chính là nhờ nó kết hợp hai phương pháp nhận thức cổ xưa: thuyết

Duy lý và thuyết Duy nghiệm. Người duy lý tin rằng phải sử
15


đụng các hoạt động hay
thể đạt tới kiến thức. Ví
một số mệnh đề là đúng
quy luật hợp lý. Người

các nguyên tắc cúa tỉnh thần trước khi cá
dụ, người đuy lý nói rằng có thể xác định
hay sai bằng cách áp dụng cẩn thận các
duy nghiệm thì nói rằng nguồn gốc của

mọi tri thức là sự quan sát bằng giác quan. Vì thế tri thức đích
thực chỉ có thể bắt nguồn từ kinh nghiệm giác quan. Sau hàng thế
kỷ tìm tịi, người ta khám phá rằng bản thân mỗi học thuyết

(thuyết Duy lý và thuyết Duy nghiệm) đều có tính hữu dụng giới
hạn cả. Khoa học đã kết hợp hai thuyết này và từ đó đã tích lũy
trị thức với một tốc độ gia tăng theo cấp lũy thừa.
Khía cạnh duy lý của khoa học giữ cho nó khải trở thành một
sự sưu tập bất tận các sự kiện thường nghiệm vời rạc. Vì nhà

khoa học cách nào đó phải cho thấy ý nghĩa của điều họ quan sát,
nên

họ

làm


ra các công

thức.

Một

lý thuyết

khoa

bọc

có hai

chức năng chính: (1) Nó tổ chức sắp xếp các quan sát; (2) nó trở
thành sự hướng đẫn cho các quan sát tương lai. Chức năng thứ
hai này cứa lý thuyết khoa học tạo ra cái ma Stevens goi là các

mệnh đề có thể xác nhận được. Nói cách khác, một lý thuyết đưa
ra các mệnh để có thể chứng minh bằng kinh nghiệm. Nếu các
mệnh để mà

một ìý thuyết đưa ra được xácnhận hằng thí nghiệm,

thì lý thuyết ấy có giá trị; nếu khơng được xác nhận bằng thí

nghiệm, lý thuyết Ấy khơng có giá trị. Nếu một lý thuyêt có quá

nhiều mệnh đề sai, nó phải được xét lại hay loại bỏ. Như thế các

lý thuyết khoa học phải có thể trắc ngbiệm được. Nghĩa là chúng
phải tạo ra các giả thuyết có thể được minh chứng một cách thực

nghiệm là có giá trị hay khơng. Vì vậy trong khoa học sự quan sát
trực tiếp là quan trọng, nhưng sự quan sát này thường được hướng

dẫn bởi lý thuyết, làm cho việc quan

sát có kiểm

sốt trở

thành mật khía cạnh quan trọng của khoa học. Quan sát có kiểm

sốt thì đẳng nghĩa với thí nghiệm và đa số thí nghiệm trong
khoa học đều được hướng dẫn bởi lý thuyết.
Tìm kiếm
Một

khía

Định luật
cạnh

đặc

trưng

khác


của

khoa

học

là nó

tìm

cách

khám phá ra các mối quan hệ hựp pháp. Một định luật khoa học
16


có thể định nghĩa như là sự quan hệ được quan sat một cách nhât
quán giữa hai hay nhiều loại sự kiện thường nghiệm. Ví dụ, khi X

xảy ra thì Ÿ cũng sẽ xảy ra. Do đó, khoa học dùng các lý thuyết để
tìm ra và giải thích các sự kiện thường nghiệm hợp lý. Bằng cách
nhấn

mạnh

tính

chất hợp

khoa


học

khơng

lý, khoa

học nói lèn

sự quan

tâm

tới

riêng hay

độc

nén nó có thể chứng minh bằng sự quan

sát

trường hợp phể quát hơn là trường hợp đặc thù. Trong truyền
thống,

quan

tâm


tới các sự kiện

nhát. quan tâm tới các quy luật phổ quát chúng ta có thể quan sát
và kiểm chứng một cách công khai. Nghĩa là, một định luật khoa
học thì phổ qt và vì nó mơ tả sự quan hệ giữa các sự kiện

thường nghiệm,
cơng

khai,

Có hai loại định luật khoa học phổ quát. Một loại là các định
luật tương quan. mô tả các loại sự kiện cùng biến đổi như thế

nào theo một hệ thơng nào đó. Ví dụ, các chỉ số trong trắc nghiệm

trí thơng minh thường tương ứng tích cực vái các chỉ số trong trắc
nghiệm về óc sáng tạo. Với đữ liệu này, người ta chỉ có thể dự
đốn. Nghĩa là, nếu người ta biết chí sơ của một người trong trắc
nghiệm trí thơng mình, ngươi ta có thể du đốn được chỉ sé của
người ấy trong trắc nghiệm óc sáng tạo và ngược lại. Một loại
định

luật

có sức mạnh

là các định

luật


nhân

quả;

chúng

xác

định các biến cố có tương quan nhân quả với nhau như thế nào. Ví
dụ, nếu người ta biết các nguyên nhân của một căn bệnh, người ta

có thể dự đốn uở kiểm sốt bệnh ấy - ngăn ngừa các nguyéền
nhám của căn bệnh thì sẽ ngăn ngừa được căn
định luật tương quan cho phép dự đốn, cịn
quả cho phép đự đốn và kiểm sốt. Vì thế các
mạnh hơn các định luật tương quan và do

bệnh. Như thế, các
các định luật nhãn
định luật nhân quả
đó thường được ua

chuậng hơn. Một rnục tiêu quan trọng của khoa học là khám pha
các nguyên nhân của hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên Việc xấc

định các nguyên nhân của các sự kiện tự nhiên thì rất phức tạp
và thường đöi hải việc nghiên cửu chủ yếu bằng thực nghiệm. Ví
dụ, khơng thể giả đính rằng sự giống nhau cho thay có sự quan hệ
nhân quả. Nếu trời mưa sau một buối khiêu vũ mùa mưa, không

thể kết luận rằng khiêu vũ tất yếu tạo ra cơn mưa. Nó cũng còn

17


phic tap bai vì các sự kiện thường ít khi cbì có một ngun nhân
duy nhất: thơng thường chúng có nhiều nguyên nhân. Các câu hỏi

như Cái gì gây ra Thế Chiến II? Cái gì gây ra bệnh tâm than

phân liệt? Đó là các câu hỏi càn lâu mới có câu trả lời. Kể cả các
câu hái đơn giản hơn như “Tại sao anh Ba bó việc làm?” hay “Tại
sao chị Tư cưới anh Ba?” đó là những câu hải võ cùng phức tạp.

Những giả thiết của tất định luận
Vì mật mục tiếu chính của khoa học ìà khám phá ra các mối
quan hệ hợp lý, nèn khoa học giả thiết rằng điều đang được tra

cứu là hợp lý. Ví dụ, nhà hóa học giả thiết rằng các phản ứng hóa
học là hợp lý và nhà vật lý giả thiết rằng thế giới vật lý là hợp
lý. Sự giả định rằng điều đang được nghiên cứu có thế hiển theo
các luật nhân quả thì gọi là tất định luận (thuyết tất định),
Thuyết tất định giả thiết rằng mọi sự xẩy ra đều tuân theo một
số nguyên nhân và nếu biết các ngun nhân này, thì có thể đự
đốn hồn tồn chính xác một sự kiện. Tuy nhiên, khơng cân

thiết phái biết mọi nguyên nhân của một sự kiện; người theo
thuyết tất định chỉ hiểu ngầm là có các nguyên nhân ấy và vì thế
càng biết nhiền nguyên nhán thì sự dự đấn càng chính xác hơn.


Ví đụ, hầu như mọi người đều nhất trí rằng thời tiết thay đổi theo

các biến số nhất định như các vệt đen ở mặt trời, các luỗng gió
mạnh trên cao và áp lực của khí quyến: nhưng các du báo thời tiết
ln ln mang tính xác suất bởi vì các biến số này thay đổi
khơng ngừng và có nhiều biến số chúng ta khơng biết. Tuy nhiên,
giả thiết đặt làm cơ sở cho việc dự báo thời tiết là giá thiết của
thuyết tất định. Mọi khoa hục déu la gid thiết thuyết của tất định.

MET LAL QUAN DIEM TRUYEN THONG VE KHOA Hoc
Quan

điểm truyền thống cho răng khoa học baa gỏm quan sát

thường nghiệm, phát biểu lý thuyết, trắc nghiệm lý thuyết, xét lại lý
thuyết, đự đốn, kiểm sốt, tìm kiếm các tương quan hợn lý và giả
thiết của thuyết tất định. Tuy nhiên một số nhà triết học khoa học

có uy tín đạt vấn đẻ về một vài khía cạnh của quan điểm truyền
thống về khoa học. Trong số họ có Karl Popper va Thomas Kuhn.
18


Karl

Popper

Karl Popper không đồng ý với việc mô tả truyền thống vẻ khoa
học trong hai khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, ông khâng đẳng ý rằng


hoạt động khoa học bắt đầu với quan sát thường nghiệm. Theo
Popper, quan niệm cũ về khoa học ngụ ý rằng khoa học chỉ loanh
quanh với việc quan sát rồi tìm cách cắt nghĩa những gì họ đã
quan sát được. Popper cho thấy quan niệm ấy gặp phải vấn đề gì:

Hai mươi lăm năm trước tơi đã cổ gắng cắt nghĩa cho một

nhóm sinh uiên uật ly ở Vienna hiểu ra điều này bằng cách

bắt đầu một bài giảng với lời hướng dẫn sau: "Hãy lấy viet

chì uà giấy ra: quan sát cấn thận, rồi 0iết ra điều anh chị đã

quan sát được!” Đương nhiên họ bởi tơi muấn họ quan saf
cái gì. Rõ ràng lời hướng dẫn, “hãy quan sát!” là 0á lý...

quan sát ln ln có tính chọn lọc. Nó cần chọn một đôi
tương, một nhiệm vu nhất định, một quan tâm, một quan
điểm, một uấn đề.

Vì vậy theo Popper, hoạt động khoa hoc bat đầu với một vấn đề.
va van đê này xác định các nhà khoa học sẽ có những lơi quan sát

nào. Bước kế tiếp là để nghị những giải pháp cho vấn đề, và sau đó
có các eð gắng để tìm xem các giải pháp được để nghị có khuyết

điểm gì khơng. Popper thấy phương pháp khoa học bao gồm ba giai

đoạn: các vấn đề, lý thuyết (giải pháp đẻ nghị) và phê bình.
Nguyên


tốc ĐÊ sự sat

Theo Popper, cái phân biệt một lý thuyết khoa học với một lý
thuyết. phi khoa học Ìà nguyên tắc về sự sai. Một lý thuyết khoa

học có thể bị bác bỏ. Ngược với điều mà nhiều người tưởng, nếu
một quan sát nào phù hợp với
chứ không mạnh. Popper dành
lý thuyết của Freud và Adler
ngoại lệ nào, mọi điều mà một

một lý thuyết, lý thuyết ấy yếu,
rất nhiều thời giờ để phê bình các
chính là vì lý do này. Khơng có
người làm đều có thể được coi như

củng cố cho mỗi lý thuyết này. Popper đối chiếu các lý thuyết này

với lý thuyết của Einstein, lý thuyết này dự đốn điều gì phải xảy
ra bay không xảy ra nếu lý thuyết là đúng. Như thế, không giống
19


các lý thuyết của Freud và Adler, lý thuyết của Einstein có thể bị
bác bỏ và vì thế là một lý thuyết khoa học. Popper tóm tắt các

quan điểm của ông vẻ lý thuyết khoa học như sau:

(1) Đối với hầu hết các lý thuyết, khơng khó để đạt được sự xác

nhận hay kiểm chứng - nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự xác nhận.

(2) Các sự xác nhận chỉ có giá trị nếu đó là kết quá của những
dự đoán mạo hiểm; nghĩa là, nếu chúng ta dự đoán có thể xảy ra

một sự kiện trái ngược với lý thuyết ấy - một sự kiện có thể bác

bỏ ý kiến ấy.

(3) Mọi lý thuyết “tất” đầu là một sự cấm đốn: nó ngăn cấm

một số điều khơng được phép xảy ra. Một lý thuyết càng cấm
đoán nhiều, càng là một lý thuyết tốt.

(4) Một lý thuyết khơng có khả năng được chứng minh là sai bới

bất cử sự kiện nào có thể nghỉ ra được, thì là một lý thuyết phi khoa

học. Tính chất khơng thể bác bỏ khơng phải là ưu điểm của một lý
thuyết (như người ta thường nghĩ) mà là một nhược điểm của nó.
(5) Mọi trắc nghiệm chân chính về một lý thuyết là một cố

gắng để chứng minh lý thuyết ấy sai, hay để phủ nhận lý thuyết
ấy. Tính trắc nghiệm là tính có thể chứng minh lý thuyết sai:

một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm nhiều hơn, dễ bị bác bỏ

hơn một số lý thuyết khác: có thể nói, chúng có nhiều rủi ro hơn.

(6) Chứng cớ xác nhận chỉ có giá trị nếu nó là kết quả của một


trắc nghiệm chân chính về lý thuyết; và điều này có nghĩa là nó
có thể được eoi như một cế gắng nghiêm túc nhằm bac bo ly

thuyết nhưng không thành công.

(7) Một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm chân chính, sau
khi bị chứng mình là sai, vẫn cịn được chấp nhận bởi những
người

ngưỡng

mộ

chúng

- ví đụ, bằng viêc dua vao tam

thời một

vài giả định phụ thuộc, hay bằng cách ?øm thời cắt nghĩa lại lý
thuyết sao cho nó tránh được sự bác bỏ. Phương thức này có thể
sử dụng, tuy cứu được lý thuyết nó ln ln hủy điệt hay ít ra là hạ

thấp giá trị khoa học của lý thuyết ấy.
20


Như thế, theo Popper. môt lý thuyết muốn là lý thuyết khoa học
thì phải làm các dự đốn mạo hiểm - các dự đốn có nguy cơ thịrc

sự là sai. Các lý thuyết mà không đưa ra các du dodn mạo hiểm hay
chỉ giải thích các hiện tượng sau kbi chúng đã xảy ra, thì theo
Popper, khơng phải )à khoa học. Một vấn đề lớn gặp phái trong
nhiều lý thuyết tâm lý học (như của Freud và Adler) là chúng làm
cơng việc hậu đốn (phơng đốn sau khì các hiện tượng đã xảy ra)
thay vì dự đốn trước. Vì các lý thuyết này khơng mạo hiểm làm
các dự đốn frước. nên chúng không gặp nguy cơ bị chứng minh là
sai và vì vậy chúng khơng có tính khoa học.
Theo quan diém Popper, moi ly thuyết khoa học cuối cùng sé bi
chứng minh là sai và được thay thế bằng các lý thuyết đầy đủ
hơn; vấn đề chỉ là thời gian. Vì vậy, theo Popper, địa vị cao nhất
của một lý thuyết khoa học là ở chỗ ná chưa bị phủ

nhận.

Khoa

học Popper là một sự tìm kiếm khơng bao giờ kết thúc hầu có các

giải pháp hay giải thích ngày càng tốt hơn cho các hiện tượng.
Brett đã tóm tắt rất hay điểm trên đây:
Chúng

ta có khuynh

hợp trí thức” bắt đầu

hướng

được


coi khoa

hoc

nhu

la một

“tập

tích lũy khi con người tìm rũ

“phương pháp bhhoa học.” Đây là một quan niệm mê tín. Cải
nhìn phù hợp hơn uới lịch sử tư tưởng là mô tả khoa học

như là cúc huyén thoai
chứng mình là sai.

vé thế giới mờ

chưa

bị người

ta

Phải ching Popper tin rằng các lý thuyết phi khoa họe là vơ
dụng? Tuyệt đối khơng! Popper nói.


Xét dưới khía cạnh lịch sử, mọi lý thuyết khoa học đều bắt
nguần từ các huyền thoại, và... một huyền thoại có thể chứa đựng
trước các khám phá quan trọng của các lý thuyết khoa học... Như

thé tai (cam thấy) rằng nếu một lý thuyết bị chứng minh là phi
khoa hạc, hay là “siêu hình”.,, thì điều đó khơng có nghĩa rằng lý
thuyết ấy khâng quan trọng, hay không đáng kể, hay “vô nghĩa”,

hay "và lý.”

Papper dùng nguyên tắc về sự sai để phân biệt giữa lý thuyết
21


khoa học và lý thuyết phi khoa học chứ không phải giữa Ìý thuyết

hữu ích và lý thuyết vơ ích. Nhiều lý thuyết trong tâm lý học
khéng

théa man

nguyên

tắc về sự sai của Popper

bởi

vì hoặc

chúng được phát biếu một cách quá tổng quát khiến cho chúng


được xác nhận bởi hầu như mọi quan sát, hoặc chúng làm việc
hậu đốn thay vì tiên đốn. Các lý thuyết này thiếu tính nghiêm

khắc khoa học nhưng vẫn cịn rất ích lợi. Lý thuyết của Freud là
một ví dụ.

Thomas

Kuhn

Mãi tới gần đây, nhìn chung người ta vẫn cịn tìn rằng phương
pháp khoa học bảo đảm tính khách quan và khoa học tạo ra
những

thơng tin một

cách vững

chắc và tiệm

tiến. Người

ta tin

rằng trong bất cứ khoa học nào cũng đều có các “chân lý” có thể
biết. được, và nến áp dụng các phương pháp khoa học thì người ta
sẽ tiếp cận được các chân lý ấy một cách có hệ thống. Thomas
Kuhn (1973) đã thay đổi quan niệm này, về mặt khoa học, bằng
cách chứng minh rằng khoa học là mơt hoạt động có tính chủ

quan rất cao.
Các khuôn

mẫu

uà khoa học thông thường

Theo Kuhn, trong khoa học vật lý, một quan điểm thường được

đa số các thành viên của một khoa bạc chấp nhận. Trong vật lý
học hay hóa học, đa số các nhà nghiên cứu đều cùng chia sẻ mật

tập hợp gồm các giả định chung hay các niềm tin chung về dé tài
của-họ. Kuhn gọi quan điểm được chấp nhận rộng rãi này là một

khuôn mẫu. Với các nhà khoa học chấp nhận mật khuân mẫu,
khuán mnẫu này trở thành cách họ quan niệm và phân tích đề tài
của khoa học của họ. Một khi khn mẫu được chấp nhận, hoạt
động của những

người

chấp nhận

nó chỉ cịn là khai thác các hệ

lụy của khn ấy. Kuhn gọi các hoạt động này là khoa học thông
thường. Khoa học thông thường cung cấp cái mà Kuhn gọi là
hoạt động “dọn


dẹp” cho một khuôn

mẫu. Trong

khi đi theo một

khuôn mẫu, nhà khoa học khai thác chiều sâu của các vấn đề đã
được khuôn
22

mẫu ấy xác định và sử dụng các kỹ thuật do khuôn



×