KINH TẾ VĨ MÔ
1. Tổng quan về nợ công
1.1Khái niệm
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách
tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải
chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường
được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của
bốn nhóm chủ thể bao gồm: (1) nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành
trung ương; (2) nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) nợ của Ngân hàng trung
ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu
trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Cách định nghĩa này cũng tương
tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của Liên
hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ
Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ Chính phủ là
khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành
nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký
kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao
gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ
chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính
quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là
hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Nhận định này cũng được nhiều chuyên gia uy tín trong
lĩnh vực chính sách công thừa nhận.
Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi
chính phủ phát hành 1 tỷ đô la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng
[NHÓM4] Trang 1
KINH TẾ VĨ MÔ
nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký một khoảng vay 2 tỷ đô với một
ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của chính phủ, có thể có người sẽ nghĩ đó
là nợ doanh nghiệp, đâu phải là nợ công.
Ngoài ra còn chú ý thêm khái niệm “ nợ nước ngoài của quốc gia”, là tổng các khoản nợ
nước ngoài của chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức
khác vay theo phương thức tự vay, tự trả. Vốn vay từ ngân hàng phát triển Châu Á hay
ngân hàng thế giới đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối
tác nước ngoài vài trăm đô la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì
khoản tiền đó vẫn được tính vào tổng nợ nước ngoài của một quốc gia.
Thước đo nợ công thường là phần trăm so với GDP. Nợ thường được tính tại từng thời
kỳ, từng giai đoạn. So sánh tổng nợ nước ngoài với GDP là nhằm so sánh nợ với những
gì một quốc gia làm ra, để xác định khả năng trả nợ của quốc gia đó.
Thông thường nợ công là hệ quả của thâm hụt ngân sách chính phủ và quy mô nợ công
đúng bằng quy mô thâm hụt ngân sách tích tụ qua các năm. Về nguyên tắc, để bù đắp
thâm hụt ngân sách, các chính phủ phải đi vay trong và ngoài nước chứ không được phát
hành tiền để tránh nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Tuy nhiên nợ công ở một số nước đang
phát triển, chẳng hạn như Việt Nam, còn do chính phủ vay nợ để tài trợ cho các dự án
đầu tư của mình, nên quy mô nợ công thậm chí còn cao hơn nữa. Nguồn để trả nợ công
bao gồm các khoản thu trong tương lai bao gồm cả thu ngân sách và thu từ các dự án đầu
tư bằng nguồn vốn vay ( nếu có).
1.2Bản chất kinh tế của nợ công
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá
khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn
và điều đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến
hành vay vốn và Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công
phải bắt nguồn từ quan niệm về việc Nhà nước đi vay là như thế nào.
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách nhà nước được
các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp
luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển,
[NHÓM4] Trang 2
KINH TẾ VĨ MÔ
ngân sách thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý
nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính
trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết
định các khoản thuế12.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi xướng
và ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công. Và chính vì thế, các nhà
kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu13.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh giá là có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những
người ủng hộ mình (gọi là trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc
biệt là khi nền kinh tế suy thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước
cần ổn định đầu tư bằng cách vay tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia
vào các dự án đầu tư công cộng như đường xá, cầu cống và trường học, cho đến khi nền
kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại14. Học thuyết của Keynes (cùng với sự chỉnh sửa nhất
định từ những đóng góp cũng như phản đối của một số nhà kinh tế học sau này là Milton
Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết các Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng
hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế.
Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách tài khóa
nhằm tăng chi tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm phát trong thời
suy thoái vì người dân thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu nhập thường xuyên chứ
không phải thu nhập hiện tại và mọi chính sách đều có độ trễ nhất định. Thay vì thực hiện
chính sách tài khóa thiếu hụt, Nhà nước nên thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả15. Còn
Paul Samuelson, đã có những bổ sung quan trọng trong quan niệm về chính sách tài khóa
của Keynes. Ông cho rằng, để kích thích nền kinh tế vượt qua sự trì trệ, cần thiết phải
thực hiện cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt.
Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân sách thăng
bằng, nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng nhắc như quan
niệm của các nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn. Ví dụ, theo quy định
[NHÓM4] Trang 3
KINH TẾ VĨ MÔ
của pháp luật Việt Nam, các khoản chi thường xuyên không được vượt quá các khoản thu
từ thuế, phí và lệ phí; nguồn thu từ vay nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay
nợ của Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của Keynes, nhưng có hai
điều chỉnh quan trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản
vay không được thực hiện vĩnh viễn, bởi lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các
khoản vay chỉ có ích trong ngắn hạn còn về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó
Nhà nước cần phải có giới hạn về mặt thời gian trong việc sử dụng các khoản vay; và hai
là, các khoản nợ công phải được kiểm soát kỹ lưỡng nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng,
đồng thời hạn chế những tác động không mong muốn từ việc sử dụng các khoản vay.
Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất,
đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
1.3 Phân loại nợ công
Việc phân loại nợ công dựa vào hai tiêu chí: Theo nguồn gốc và theo thời hạn của các
khoản nợ.
Theo nguồn gốc:
Nợ trong nước: Các khoản vay từ người cho vay trong nước
Nợ nước ngoài: Các khoản vay từ người cho vay nước ngoài
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ nước ngoài
là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính
quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước
ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ
công không phải là nợ trong nước.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ.
Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân
thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm
bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng
ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo thời hạn của khoản nợ:
[NHÓM4] Trang 4
KINH TẾ VĨ MÔ
Nợ ngắn hạn: Các khoản nợ có kỳ hạn dưới một năm
Nợ trung hạn: Các khoản nợ có kỳ hạn từ một đến mười năm
Nợ dài hạn: Các khoản nợ có kỳ hạn trên 10 năm
Theo phương thức huy động vốn:
Nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực
tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy
động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định,
thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc
dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công
Nợ công có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương
mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ:
Nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là
các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo
lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay
không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ:
Nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công của chính quyền địa
phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo
lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay
nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm
2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân
sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ
đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
1.4Tác động của nợ công
Như trên đã phân tích, nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác
động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực,
[NHÓM4] Trang 5
KINH TẾ VĨ MÔ
hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về
quản lý nợ công.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát
triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong
giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng
nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ
công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó
gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một
bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà
những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả
khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài
trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng của các nước
phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế
song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều
nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn,
đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực
nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ
ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả
và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử
dụng và quản lý nợ công.
1.5 Các hình thức vay nợ của chính phủ
1.5.1 Vay nợ trong nước của chính phủ
1.5.1.1Trái phiếu chính phủ
a. Tín phiếu kho bạc nhà nước
[NHÓM4] Trang 6
KINH TẾ VĨ MÔ
Là loại trái phiếu (Giấy vay nợ ngắn hạn) có kỳ hạn dưới một năm do kho bạc nhà nước
phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm:
Lãi suất cao, chiết khấu hoặc mang mệnh giá, thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1
năm với nhiều mức mệnh giá. Hình thức phát hành là đấu thầu, phát hành trực tiếp qua
kho bạc, phát hành qua đại lý trên thị trường thứ cấp, tính thanh khoản cao và mức độ rủi
ro thấp.
Ở Việt Nam năm 2008 huy động được 20.730 tỷ đồng, năm 2009 là 10.714 tỷ đồng, năm
2010 huy động được 8.350 tỷ đồng
b. Trái phiếu công trình
Huy động vốn cho công trình đầu tư cụ thể thường là để xay dựng những công trình cơ sở
hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Ví dụ dự án đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh
Bình do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành, có kỳ hạn từ một
năm trở lên.
c. Trái phiếu ngoại tệ
Là loại trái phiếu chính phủ có kỳ hạn từ một năm trở lên, nhưng được thể hiện dưới dạng
ngoại tệ (thường là ngoại tệ mạnh có cầu lớn). Nhằm huy động tiền ngoại tệ của dân
chúng. Rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán,
thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái. Loại trái phiếu này không phổ
thông
d. Công trái xây dựng tổ quốc
Việc phát hành công trái xây dựng tổ quốc được phát hành từng đợt, không mang tính
thường xuyên mà chỉ gắn với những lĩnh vực nhất định, chẳng hạn công trái phục vụ cho
lĩnh vực giáo dục, giao thông…Nó có tính chất như trái phiếu nhưng lãi suất thấp hơn vì
nó không mang tính chất vay vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách mà để động viên người
dân cho chính phủ vay vốn để đầu tư vào các dự các đầu tư trọng điểm của nhà nước. Ví
dụ năm 2005, nhà nước phát hành công trái giáo dục có thời hạn 5 năm, lãi suất 8.5%năm
1.5.1.2 Trái phiếu chính quyền địa phương
Là các loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên do chính quyền địa phương phát hành
để huy động vốn cho các dự án đầu tư như công trình cơ sở hạ tầng hay phúc lợi công
[NHÓM4] Trang 7
KINH TẾ VĨ MÔ
cộng của địa phương. Việc phát hành trái phiếu này do ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy
quyền cho kho bạc nhà nước hoặc tổ chức tài chính tín dụng trên địa bàn phát hành trái
phiếu này và chịu trách nhiệm bố trí ngân sách tỉnh, thành phố để trả nợ.
1.5.2 Vay trực tiếp
Chính phủ có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc
gia (ví dụ: Quỹ tiền tệ quốc tế). Hình thức vay nợ này thường được chính phủ của các
nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát
hành trái phiếu Chính phủ của họ không cao.
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà
không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì Vậy, biện pháp này được
xem là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Tập trung được khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi trong dân cư, tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.
Nhược điểm:
Việc khắc phục thâm hụt ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng
nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP tiếp tục
tăng. Hơn nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc
tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước. Chứa đựng nguy cơ kìm
hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
1.6Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tính toán nợ công
Lạm phát
Lạm phát là thuật ngữ dùng để chỉ tình huống, trong đó mức giá chung của nền kinh tế
tăng lên. Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến việc tính toán lãi vay do chính phủ trả những
khoản lãi vay theo lãi suất danh nghĩa ( lãi suất danh nghĩa tổng lãi suất danh nghĩa và tỷ
lệ lạm phát) Theo phương trình Fisher, tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ làm lãi suất danh nghĩa
tăng 1%.
Tài sản đầu tư
Các nhà kinh tế cho rằng nên trừ tổng tài sản của tài sản chính phủ trong tính toán nợ
công. Tuy nhiên rất khó để xác định đâu là tài sản chính phủ và giá trị của chúng là bao
nhiêu
Các khoảng nợ tiềm tàng
[NHÓM4] Trang 8
KINH TẾ VĨ MÔ
Bao gồm các khoảng chi trả, trợ cấp cho hưu trí, bảo hiểm xã hội… hay các khoảng vay
được Chính phủ đứng ra bảo lãnh nếu trong tương lai không có khả năng thanh toán.
Những khoản chi này cũng được tính vào nợ công. Bởi lẽ suy cho cùng đó cũng là các
khoảng tiền mà chính phủ phải chi ra.
2.Thực trạng nợ công của các nước hiện nay, liên hệ tới Việt Nam
2.1 Tình hình nợ công chung của thế giới
Khủng hoảng nợ Mỹ Latin thập niên 80 được gọi là "Thập kỷ mất mát" từ những năm
1970. Trong giai đoạn đó, Brazil, Argentina và Mexico phát triển khá mạnh, chủ yếu do
vay nước ngoài quy mô lớn để nâng cấp công nghiệp trong nước và cải thiện cơ sở hạ
tầng.
Tuy nhiên, đến đầu thập niên 80, các nước Mỹ Latin bắt đầu gặp khó khăn trong việc trả
nợ. Kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979, 1980 đã tác động tiêu cực đến tăng
trưởng và xuất khẩu của các nước này. Một nguyên nhân khác là các khoản vay bị sử
dụng thiếu thận trọng và có liên quan đến tham nhũng. Từ giữa năm 1975-1982, các
khoản nợ công của các nước Latin đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới
tăng với tỷ lệ gộp hàng năm lên đến trên 20%, khiến tổng nợ vay đã tăng từ 75 tỷ USD
năm 1975 lên đến hơn 315 tỷ USD năm 1983, trong đó, thanh toán lãi suất và trả vốn gốc
tăng mạnh, từ 12 tỷ USD năm 1975 lên 66 tỷ USD năm 1982 (The berge 1999).
Hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối hoặc giảm cho vay
các nước châu Mỹ Latin khác. Trong khi đó, các khoản nợ vay của chính phủ các nước
lại chủ yếu là ngắn hạn và các nước gặp khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức
cho vay từ chối gia hạn các khoản vay. Hàng tỷ USD nhanh chóng đến hạn thanh toán và
các dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nước không còn có
thể vay thêm.
Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico tuyên bố vỡ nợ. Tiếp
đó là Brazil, Venezuela, Argentina và Bolivia. Trong suốt những năm đầu của khủng
hoảng, tăng trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%.
Để có tiền trả nợ, họ đã cầu viện những tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
và Ngân hàng Thế giới (WB). Đổi lại, các nước phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng, phá
[NHÓM4] Trang 9
KINH TẾ VĨ MÔ
giá nội tệ hay tự do hóa thương mại để cải thiện nền tài chính. Hậu quả là kinh tế tăng
trưởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm và chênh lệch giàu nghèo ngày càng
tăng. Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ Latin mới lắng dịu.Sau này, Mexico
tiến hành tự do hóa thương mại và dần áp dụng thể chế kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
kinh tế phát triển lại đi kèm bùng nổ tín dụng thiếu kiểm soát. Tăng trưởng bắt đầu giảm
sút năm 1993 và nợ xấu cũng tăng mạnh. Năm 1994, Mexico dần phá giá đồng peso để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các nhà đầu tư đã mất niềm tin với nước này.
Đỉnh điểm là sau tuyên bố dự trữ ngoại hối cạn kiệt và đồng peso bị thả nổi. Vốn bị rút ồ
ạt đã châm ngòi cho khủng hoảng tài chính tại đây.Tuy nhiên, Mỹ, IMF, WB, và Ngân
hàng Thanh toán Quốc tế đã kịp thời hỗ trợ gần 40 tỷ USD cho Mexico. Đổi lại, nước này
phải thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ, đồng thời tư nhân hóa và tự do hóa các hoạt
động kinh tế. Đến năm 1996, Mexico bắt đầu phục hồi.
- Tại Đông Á và Đông Nam Á, khủng hoảng đến ngay sau thời kỳ tăng trưởng kinh tế
ấn tượng. Nguyên nhân cũng là bùng nổ tín dụng từ các nguồn vốn từ nước ngoài được
sử dụng thiếu kiểm soát khi phần lớn đổ vào bất động sản và chứng khoán.Khủng hoảng
tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự sụp đổ của đồng bath Thái do
các dòng vốn ồ ạt rút mạnh khỏi quốc gia này. Tại thời điểm đó, Thái Lan đã có gánh
nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản trước khi
đồng bath sụp đổ.Hiệu ứng lan tỏa khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút mạnh vốn,
khiến tiền tệ các quốc gia khác trong khu vực lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và
công ty, đặc biệt về bất động sản, vỡ nợ.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Khủng
hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm trọng. Đồng tiền các
quốc gia bị phá giá, lạm phát gia tăng, các tổ chức tài chính và công ty phá sản, nợ xấu
lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia tăng. GDP của Indonesia giảm
tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia cũng giảm xấp xỉ 10%, trong khi
Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu của năm 1998. IMF đã phải khởi động chương trình
[NHÓM4] Trang 10
KINH TẾ VĨ MÔ
cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối năm 1997 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động
mạnh nhất bởi khủng hoảng. Đổi lại, các nước thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài
chính hoặc giảm can thiệp vào kinh tế thị trường. Đến đầu năm 1999, khu vực này mới
dần hồi phục.
- Cuộc khủng hoảng nợ công gần đây nhất và kéo dài nhất là tại khu vực đồng euro.
Khủng hoảng bắt đầu khi các thành viên eurozone không thể tự ứng phó với vấn đề mất
cân bằng tài khóa trong nước. Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ công đã
bắt đầu từ năm 2009. Đến tháng 11, sau khủng hoảng nợ ở Dubai, quan ngại về tình hình
nợ công ở các nước châu Âu bắt đầu lớn dần lên. Dấu hiệu khủng hoảng bắt đầu rõ hơn
sau khi Hy Lạp thừa nhận (vào tháng 12) tổng dư nợ lên tới 300 tỷ euro (tương đương
113% GDP), dù bác bỏ việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ này. Đến nay, cuộc
khủng hoảng đã kéo dài sang năm thứ 5 và vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc.
Một nguyên nhân là tăng chi hoặc giảm thu ngân sách thiếu kiểm soát của các Chính phủ.
Xét rộng hơn, việc này còn do chính sách của các nước chưa hài hòa và cơ chế phối hợp
ứng phó còn bất đồng. Cuộc khủng hoảng đã làm tổn thất hàng nghìn tỷ USD thu nhập tài
chính của các nước thành viên EU, do đồng euro liên tục mất giá. Ngày 4/5, Ủy ban châu
Âu (EC) dự đoán GDP eurozone sẽ giảm 0,4% năm nay. Tỷ lệ thất nghiệp toàn khu vực
cũng lên cao kỷ lục trong tháng ba với 12,1%. Nợ công eurozone đạt 8.600 tỷ euro năm
ngoái, tương đương 90% GDP. Tuy nhiên, các biện pháp ứng phó ở châu Âu mới chỉ
thiên về chống chọi với khó khăn tài chính trước mắt ở các quốc gia, nhằm tránh tác động
lây lan ở cả khu vực. Từ năm 2009, các nước như Pháp, Tây Ban Nha, Ireland và Hy Lạp
đã phải thắt lưng buộc bụng để giảm thâm hụt ngân sách.Dù vậy, tình hình tại đây vẫn
chưa có dấu hiệu cải thiện. Đến nay, 5 nước đã phải xin cứu trợ tài chính là Hy Lạp, Bồ
Đào Nha, Ireland, Tây Ban Nha và Síp. Nghiêm trọng hơn, khủng hoảng cũng đang lan
từ các nước vùng rìa châu Âu sang các nền kinh tế mạnh như Đức và Pháp.
Toàn cảnh nợ công thế giới tính đến tháng 9/2012
Cứ mỗi giây, số nợ mà một người trên trái đất phải nhận lại tăng lên, góp phần khiến tổng
nợ thế giới tăng thêm hàng triệu USD.
[NHÓM4] Trang 11
KINH TẾ VĨ MÔ
Đồng hồ nợ và bản đồ nợ của thế giới do trang Economist xây dựng. (nguồn: Economist)
Theo số liệu do Economist cập nhật tính đến tháng 9/2012, châu Phi là châu lục nghèo và
kém phát triển nhất thế giới, song lại là châu lục có tổng nợ thấp nhất. Ngoài ra, châu Phi
cũng là châu lục có số quốc gia mắc nợ thấp nhất thế giới. Trong khi đó, khu vực Bắc Mỹ
là khu vực có tổng nợ lớn nhất. Tính đến tháng 9 năm nay, tổng nợ của Canada là 1.516
tỷ USD, trong khi Mỹ nợ tới 11.110 tỷ USD. Khu vực Bắc Mỹ cũng nằm trong danh sách
những khu vực có tỷ lệ nợ công trên GDP cao nhất. Châu Á cũng là khu vực có tổng nợ
khá cao, chỉ đứng sau Bắc Mỹ và eurozone. Trong đó, Nhật Bản là nước mắc nợ nhiều
nhất với 12.642 tỷ USD, xếp sau đó là Trung Quốc, Ấn Độ và Australia. Tính đến tháng
9, nợ Trung Quốc là 1.267 nghìn tỷ USD, Ấn Độ là 942 tỷ USD trong khi Australia là
394 tỷ USD.
Việt Nam cũng xếp vào nhóm những nước có nợ công ở mức trung bình, 67 tỷ USD. Khá
thấp so với các nước khu vực Đông Nam Á như Indonesia (217 tỷ USD), hay Malaysia
[NHÓM4] Trang 12
KINH TẾ VĨ MÔ
(162 tỷ USD). Tuy nhiên, nợ công Việt Nam lại chiếm tới 50% GDP, xếp hàng cao nhất
trong châu Á, chỉ đứng sau Malaysia.
Tại châu Mỹ Latinh, Brazil - nền kinh tế lớn nhất khu vực cũng đồng thời là nước có nợ
công cao nhất, với 1.302 tỷ USD, tiếp sau đó là Argentina với 182 tỷ USD. Tổng thể, khu
vực châu Mỹ Latinh có tổng nợ nằm vào khoảng giữa của thế giới.
Châu Âu, đặc biệt là eurozone là khu vực có nhiều quốc gia mắc nợ nhất. Chẳng hạn,
Pháp nợ tới 2.316 tỷ USD, Tây Ban Nha nợ 998 tỷ USD và Đức nợ 2.795 tỷ USD. Châu
Âu cũng là nước có tỷ lệ nợ trên GDP cao nhất, trung bình trên 70%. Cá biệt có những
quốc gia trên 100% như Italia và Hy Lạp.
Trên toàn thế giới, những quốc gia có tổng nợ trên GDP cao nhất gồm có Nhật Bản
(219,9%), Hy Lạp (159,3%), Italia (120,5%), Anh (89,2%), Canada (87%), Pháp (88,5%)
và Tây Ban Nha (71,9%).
Ý tưởng về một chiếc đồng hồ tính nợ cho từng quốc gia từ lâu đã không còn là điều quá
mới mẻ với những ai từng đặt chân tới Quảng trường Thời đại của nước Mỹ, nơi các
khoản nợ công được công khai tiết lộ với công chúng.
Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng thể hơn về tình trạng nợ công của thế giới, mới đây tờ
Economist đã cho ra đời một chiếc đồng hồ điện tử. Dưới đây là cập nhật hầu hết các
khoản nợ chính phủ tính theo USD của toàn cầu (tính đến tháng 9/2012).
Bên cạnh bảng đồng hồ tổng nợ, tờ Economist còn tạo ra một bản đồ về tương quan nợ
cho từng quốc gia, với các tiêu chí nợ công, nợ công trên đầu người, dân số, nợ công trên
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tỷ lệ thay đổi hàng năm của tổng nợ.
Tình hình công nợ mới nhất năm nay:
Châu Phi có số nước mắc nợ ít nhất, Nhật Bản có tổng nợ, nợ trên GDP và bình quân đầu
người đều cao nhất thế giới. Việt Nam thuộc nhóm nước có mức nợ trung bình.
>>Xem bảng thống kê nợ một số nước trên thế giới
[NHÓM4] Trang 13
KINH TẾ VĨ MÔ
Bảng thống kê nợ một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia Tổng nợ (USD)
Nợ
trên
GDP
Nợ bình
quân
đầu người
(USD)
Thay đổi
so với năm trước
1 Nhật Bản 12.642.984.699.454 220% 100.158,71 2%
2 Mỹ 1.110.645.901.639 72% 35.433,93 14%
3 Đức 2.795.357.923.497 83% 34.227,90 0%
4 Italy 2.
90.597.
814.20
8
121%
40.893,97 -1%
5 Phá
2.316.762.295.
2
89%
36.471,97 4%
6 Anh 2.161.772.131.148 89% 34.307,32 11%
7 Canada 1.516.260.109.290 87% 43.837,30 5%
8 Brazil 1.302.275.956.284 54% 6.708,45 9%
9 Trung Quốc 1.
67.922.
950.82
0
16%
955,61 17%
10 Tây Ban
Nha .9
21.587,91 7%
[NHÓM4] Trang 14
KINH TẾ VĨ MÔ
998.658.46
72%
11 Ấn Độ 942.687.431.694 49% 776,22 13%
12 Hy Lạp 423.741.530.055 159% 37.501,57 -7%
13 Australia 394.522.950.820 27% 17.334,49 7%
14 Indonesia
217.79
5.081.9
67
25%
880,44 12%
15 Thái Lan 170.985.792
35
47%
2.491,43 15%
16 Malaysia 162.098.360.656 56% 5.612,28 16%
17 Nga 156.985.245.902 8% 1.111,03 13%
18 Nam Phi 141.275.409.836 36% 2.890,74 11%
19 Philippines 121.373.224.044 50% 1.176,11 9%
20 Việt Nam 67.588.524.5
0%
756,92
11%
21 Lybia 2.061.202.186 3% 343,63 -18%
22 Estonia 1.538.797.814 7% 1.182,71 25%
[NHÓM4] Trang 15
KINH TẾ VĨ MÔ
Đối với người dân Mỹ, chiếc đồng hồ nợ công tại Quảng trường Thời đại ở New York đã
trở nên quen thuộc. Những năm gần đây, tạp chí kinh tế nổi tiếng The Economist cũng tạo
ra một chiếc đồng hồ đo nợ toàn cầu, đồng thời phác thảo bản đồ nợ công của nhiều nước
trên thế giới. Số liệu ở đây cập nhật theo thời gian thực và tất cả được quy đổi ra USD.
Đối với mỗi quốc gia, nợ được tính chi tiết với tổng nợ, nợ bình quân đầu người, nợ trên
GDP và tỷ lệ thay đổi hàng năm. Các nước màu đỏ đậm có tỷ lệ nợ cao nhất và màu xanh
đậm là thấp nhất. Qua các năm. Nợ công năm nay là hơn 48.771 tỷ USD, tăng khoảng
6,3% so với năm 2011 (45.900 tỷ USD). Dự kiến đến hết năm 2013, con số này sẽ là trên
51.471 tỷ USD. Trong cả ba năm, nợ công chủ yếu tập trung ở Nga, các nước châu Á,
Bắc Mỹ và eurozone.
Tổng nợ năm 2011 của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình với hơn 60 tỷ USD,
sau đó tăng lên lần lượt là 67 tỷ USD; 75 tỷ USD năm 2012 và 2013. Nợ bình quân đầu
người theo đó cũng cao dần, từ 687.07 USD năm 2011 lên 756.92 năm 2012 và 840.69
năm 2013. Tuy nhiên, nợ trên GDP lại được dự đoán cải thiện khi giảm từ 52,9% năm
ngoái xuống 50% và 48,7% hai năm sau đó. Xu hướng này trái ngược với số liệu gần đây
của Bộ Tài chính khi tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2011 được công bố là 54,6%, dự kiến
năm 2012 là 58,4% và hết năm 2015 sẽ vào khoảng 60% - 65%. Nếu xét trên tổng nợ
quốc gia, Nhật Bản là nước dẫn đầu với hơn 12.642 tỷ USD, theo sau là Mỹ với trên
11.110 tỷ USD. Các nước châu Âu, đặc biệt là khu vực đồng euro, đều có mức nợ công
cao như Đức (2.795 tỷ USD), Pháp (2.316 tỷ USD), Italy (2.490 tỷ USD) hay Anh (2.161
tỷ USD). Ở châu Á, Trung Quốc là quốc gia có tổng nợ lớn thứ hai sau Nhật Bản với trên
1.267 tỷ USD, theo sau là Ấn Độ với khoảng 942 tỷ USD. Châu Phi có số quốc gia mắc
nợ ít nhất thế giới. Nước nợ nhiều nhất ở đây là Nam Phi với 141 tỷ USD.Nếu tính tỷ lệ
nợ công trên GDP, Nhật Bản vẫn cao nhất thế giới với 220%, Hy Lạp đứng thứ hai với
159,3% , tiếp đó là Italy với 121%. Quốc gia có nợ bình quân đầu người cao nhất cũng
vẫn là Nhật Bản với trên 100.000 USD. Theo sau là Italy với xấp xỉ 40.893 USD.
2.2 Thực trạng nợ công một số nước tiêu biểu
Thực trạng nợ công tại Hy Lạp:
[NHÓM4] Trang 16
KINH TẾ VĨ MÔ
Từ những ngày đầu gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 1/2001 sau khi
gây áp lực nhằm vượt qua tiêu chuẩn nợ công 3% GDP của eurozone, Hy Lạp có một
thời kỳ dài thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP đạt 4,3% (2001 - 2007), cao hơn so với
mức trung bình của eurozone là 3,1% nhưng chi tiêu chính phủ Hy Lạp tăng tới 87%
trong khi mức thu chỉ tăng 37%. Sau công cuộc đầu tư "khủng" cho Thế vận hội Athens
năm 2004, Hy Lạp còn lại một ngân sách rỗng với tỷ lệ bội chi khoảng 8%, cao gấp gần 3
lần tiêu chuẩn của eurozone.
Năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành công nghiệp chủ đạo
của Hy Lạp đều bị ảnh hưởng mạnh. Ngành du lịch và vận tải biển đều có mức sụt giảm
doanh thu tới 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế, Chính phủ lại buộc phải
tăng chi tiêu công nhằm kích thích tăng trưởng. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của Hy
Lạp ước đạt 216 tỷ euro, nợ lũy kế bằng 130% GDP. Trong gần một thập kỷ, chính phủ
Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD và đầu tư dàn trải vào cơ sở hạ
tầng trong khi không hề có kế hoạch trả nợ. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài
khiến Hy Lạp dễ chịu tổn thương khi niềm tin nhà đầu tư thay đổi "Giọt nước tràn ly"
trong trường hợp của Hy Lạp là việc bị phanh phui những dối trá trong số liệu báo cáo
của chính phủ tiền nhiệm. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George Papandreou khẳng
định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải ở mức 12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn
cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Nhiều dự báo ngay lập tức được đưa ra
cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121-125%
GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy
Lạp trên thị trường tài chính. Ngày 7/12/2009, S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với
triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch đánh tụt điểm số của nền kinh tế này từ
A- xuống còn BBB+.
Không còn bức tranh kinh tế đầy màu hồng và những lời hứa hẹn về chính sách khắc
phục tình trạng thâm hụt ngân sách, Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để có tiền cho ngân
sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47%
[NHÓM4] Trang 17
KINH TẾ VĨ MÔ
vào tháng 1/2010, lên 9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm
vào tháng 7/2011.
Lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm.
Những ngày cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách với dự
báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín nhiệm quốc gia này tiếp tục bị đánh tụt về mức BBB-
của S&P. Một lần nữa, Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách về
8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài bất ổn xã
hội do làn sóng biểu tình phản đối của người dân. Nội lực không đủ vực dậy nền kinh tế
lớn thứ 27 thế giới, Hy Lạp trở thành mắt xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không
thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền
chung và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino. Tháng 5/2010, các nhà
lãnh đạo eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị
giá 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010, IMF cho Hy Lạp vay thêm
2,5 tỷ euro (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà IMF dành để ngăn
chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ euro (tương đương 13,98 tỷ USD).
Từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã mua khoảng 45 tỷ euro
[NHÓM4] Trang 18
KINH TẾ VĨ MÔ
trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh khoản mà ECB dành cho
các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ euro vào tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ euro
vào tháng 5/2011.
Đáp lại, ngày 21/10, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm tăng
thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162% GDP.
Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối cùng
của châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần 121%
GDP vào năm 2020.
Hình bạo loạn tại Hy Lạp khi chính phủ thông qua chính sách cắt giảm chi tiêu mới
[NHÓM4] Trang 19
KINH TẾ VĨ MÔ
Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm
khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩa vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch
và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng
bị một hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần.Châu
Âu có thể cứu được Hy Lạp với thỏa thuận hoán đổi nợ kỷ lục, với những gói cứu trợ lên
tới hàng trăm tỷ EUR, nhưng Hy Lạp không còn là vấn đề duy nhất của khu vực này.
Cơn hỗn loạn tài chính đã lan đến Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo sẽ là Italy.
Thực trạng nợ công tại Anh:
Theo phóng viên TTXVN tại London, Cơ quan thống kê quốc gia Anh (ONS) ngày 21/6
cho biết, tính đến hết tháng 5/2013, nợ công của nước này đã lên tới 1.190 tỷ bảng
(khoảng 1.900 tỷ USD), tương đương với 75,2% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Nợ công của Anh đã lên tới 1.190 tỷ bảng tính đến hết tháng 5/2013.
ONS thông báo tổng nợ công của Anh hiện đã tăng thêm 90 tỷ bảng so với cách đây một
năm, khi đó mức nợ công tương đương với 71,2% GDP. Chỉ tính riêng tháng 5/2013, nợ
công của Anh tăng thêm 12,7 tỷ bảng (20 tỷ USD), song con số này vẫn thấp mức 15,6 tỷ
bảng (25 tỷ USD) cùng kỳ năm ngoái. Cơ quan giám sát ngân sách của Chính phủ Anh
[NHÓM4] Trang 20
KINH TẾ VĨ MÔ
(OBR) dự báo nợ công của nước này trong tài khóa 2023-2014 sẽ khoảng 120 tỷ bảng
(192 tỷ USD).
Trong báo cáo mới nhất, ONS cũng điều chỉnh lại số liệu nợ công của Anh trong tài khóa
2012-2013 (kết thúc ngày 31/3 vừa qua) xuống 118,8 tỷ bảng (hơn 190 tỷ USD) từ con
số 120,6 tỷ bảng (193 tỷ USD) ước tính trước đó. Như vậy, nợ công của Anh trong 2012-
2013 chỉ cao hơn 300 triệu bảng (480 triệu USD) so với tài khóa trước. Các nhà phân tích
cho rằng số liệu nợ công vừa công bố sẽ gia tăng áp lực lên Bộ trưởng Tài chính Anh
George Osborne khi mà chính phủ nước này tiến hành đợt rà soát lại kế hoạch chi tiêu
ngân sách cho tài khóa 2015-2016 vào ngày 26/6 tới đây. Hiện ông Osborne đang đề ra
mục tiêu cắt giảm thêm 11,5 tỷ bảng (18,4 tỷ USD) từ ngân sách chi tiêu của các bộ,
ngành trong tài khóa 2015-2016 trong bối cảnh nền kinh tế Anh phục hồi chậm hơn mong
đợi trong khi nguồn thu từ thuế lại sụt giảm đáng kể.
Thực trạng nợ công tại Italy:
Ngân hàng Trung ương Italy ngày 14/12 cho biết, nợ công của nước này trong tháng 10
vừa qua đã tăng lên mức cao kỷ lục mới với 2.014 tỷ euro. Con số kỷ lục trên đã nêu bật
tình trạng tài chính mong manh của nền kinh tế Italy bất chấp một loạt biện pháp "thắt
lưng buộc bụng" và cải cách mà chính phủ của Thủ tướng Mario Monti thực hiện trong
khoảng một năm qua. Italy, nền kinh tế lớn thứ 3 trong Khu vực sử dụng đồng Eurozone,
hiện đang trong tình trạng suy thoái mặc dù chính phủ đã thực hiện các biện pháp cắt
giảm chi tiêu và tăng thuế nhằm giải quyết vấn đề nợ công. Hiện nợ công của Italy đã
tăng 3,7% kể từ mức 1.940 tỷ euro hồi tháng 1/2012. Với mức nợ công tương đương
khoảng 126% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Italy là nước có tỷ lệ nợ công cao nhất
trong Eurozone, chỉ sau Hy Lạp. Tổ chức tiêu dùng Codacons cho biết bình quân gánh
nặng nợ công chia đều cho mỗi hộ gia đình ở Italy hiện ở mức 82.192 euro, tăng
4.400 euro so với hồi đầu năm. Codacons chỉ trích Thủ tướng Monti đã không nỗ lực
nhiều hơn nữa để giải quyết tình trạng lãng phí trong nhiệm kỳ của mình. Ông Monti
được bổ nhiệm làm thủ tướng Italia tháng 11/2011 sau khi ông Silvio Berlusconi buộc
phải từ chức do các thị trường quốc tế không còn tin vào khả năng của ông trong việc cứu
[NHÓM4] Trang 21
KINH TẾ VĨ MÔ
nước này thoát khỏi một cuộc khủng hoảng nợ công theo kiểu Hy Lạp. Là một nhà kinh
tế, đồng thời là cựu Uỷ viên Liên minh châu Âu, Thủ tướng Monti và chính phủ kỹ trị
của ông đã giành lại được lòng tin trên trường quốc tế thông qua một loạt biện pháp cải
cách tài khóa và tăng thuế. Nhờ việc Ngân hàng Trung ương châu Âu đề xuất mua không
giới hạn các loại trái phiếu ngắn hạn ở những nước đang gặp khó khăn trong vấn đề nợ
công cũng như nhờ các biện pháp cải cách của ông, chi phí vay mượn của Italia đã giảm
trong những tháng gần đây. Tuy nhiên, các thị trường trong tuần này đã bị rúng động khi
ông Mônti tuyên bố sẽ từ chức, có thể sau khi quốc hội thông qua kế hoạch ngân sách
năm 2013, dự kiến trước lễ Giáng sinh. Theo ông, việc ông tiếp tục điều hành chính phủ
là không thể sau khi đảng Nhân dân Tự do (PDL) trung hữu của ông Berlusconi rút sự
ủng hộ đối với chính phủ trong 2 cuộc bỏ phiếu quan trọng hồi tuần trước. Theo kết quả
thăm dò dư luận do công ty SWG công bố ngày 14/12, chỉ có khoảng 11% cử tri Italy
ủng hộ Thủ tướng Monti tiếp tục tại nhiệm, trong đó 6% thuộc khối cử tri trung tả và 5%
thuộc khối cử tri trung hữu. Khoảng 13% nói rằng họ muốn ông Monti đảm nhiệm chức
Tổng thống Italy nhiệm kỳ tới, và có tới 44% ủng hộ ông tiếp tục phụng sự đất nước với
tư cách là Thượng nghị sĩ trọn đời, danh hiệu mà ông đã được trao ngay trước khi nhậm
chức thủ tướng tháng 11/2011.
2.3Tình hình nợ công của Việt Nam
Nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia. Nợ
công cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng
nợ công có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những
hậu quả nghiêm trọng.
Nợ công Việt Nam đang là vấn đề dư luận rất quan tâm, nhiều ý kiến cho rằng nợ
công đang có xu hướng gia tăng trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh
niên. Làm thế nào để kiểm soát và quản lý nợ công trong bối cảnh nền kinh tế còn trì trệ.
Việt Nam mở cửa kinh tế được hơn 25 năm (từ 1986), trải qua nhiều thăng trầm và đã đạt
được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm (2001-2010), GDP của
Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD năm
[NHÓM4] Trang 22
KINH TẾ VĨ MÔ
2010. Nhưng cũng trong giai đoạn này, nợ công của Việt Nam đã tăng lên gấp 5 lần, từ
11,5 tỷ USD năm 2001 lên 55,2 tỷ USD năm 2010. Cũng theo số liệu của EIU, tổng mức
nợ công của Việt Nam năm 2012 là khoảng 67,6 tỷ USD, tương đương với 50% GDP. Tỷ
lệ nợ này nếu so với tỷ lệ nợ công trên GDP của Liên hợp quốc là dưới 60% GDP vẫn
được coi là nằm trong vùng an toàn. Tuy nhiên, con số này là cao so với mức phổ biến
được khuyến cáo ở các nền kinh tế đang phát triển (từ 30 đến 40%).
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt
Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất
khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong
tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu
tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát
triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền
kinh tế hơn nữa.
2.3.1. Cơ cấu nợ công ở Việt Nam
Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả
các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ
cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 gồm nợ chính phủ chiếm 78,1%, còn lại là
nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước
ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ
trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ
được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong
nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA.
2.3.2. Quy mô nợ công ở Việt Nam
[NHÓM4] Trang 23
KINH TẾ VĨ MÔ
Hình 2.2.1. Nợ công Việt Nam 2003-2013
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2003 là 14,4 tỷ
USD, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 177 USD mỗi người. Nhưng theo
thông tin mới nhất từ Economist ngày 5 tháng 7 năm 2013 vừa qua, nợ công tăng trên
mức 74,294 tỷ USD, tương đương 48,9% GDP; bình quân nợ công theo đầu người là
826,4 USD, tăng 12,2% so với năm 2012. Như vậy, từ 2003 đến nay, quy mô nợ công đã
tăng hơn 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ 15% mỗi năm. Việt Nam được xếp vào nhóm
nước có mức nợ công trên trung bình. Nếu tiếp tục với tốc độ này thì đến năm 2016, nợ
công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào
khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên
100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô
nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như
Việt Nam.
Tính đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%; nợ
công là 57,3%. Cũng theo Economist đưa ra, tổng mức nợ công của Việt Nam nằm trong
nhóm nước có mức nợ công trung bình của thế giới. Cụ thể, lúc 15h30 ngày 4/9/2012, nợ
công của Việt Nam vào khoảng 67,6 tỷ USD, tương đương 50% GDP, tăng 11,2% so với
năm 2011. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam là 756,9 USD.
[NHÓM4] Trang 24
KINH TẾ VĨ MÔ
2.3.3. Thực trạng nợ công: những thách thức ngắn hạn
Từ sau cuộc khủng hoảng Đông Á 1997 – 1998, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ so với
GDP ngày càng tăng lên từ mức khoảng 21,6% năm 1998 lên mức đỉnh 33,4% năm 2009
và 32,15% năm 2010. Tỷ lệ chi tiêu so với GDP tăng lên cũng đồng nghĩa với việc nhu
cầu chi tiêu của chính phủ tăng nhanh hơn mức tăng của GDP. Nói cách khác, nhu cầu
chi tiêu của chính phủ đang có khuynh hướng tăng nhanh hơn lượng của cải mà nền kinh
tế có khả năng tạo ra. Trong khi đó, các khoản thu ngân sách hàng năm của chính phủ
luôn chiếm tỷ lệ thấp hơn trong GDP so với chi tiêu. Điều này cũng có nghĩa là Chính
phủ Việt Nam luôn phải gánh chịu bội chi ngân sách triền miên, ít nhất là từ sau cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Á đến nay. Tỷ lệ bội chi ngân sách đạt mức đỉnh điểm gần
8,9% GDP năm 2009 khi Việt Nam đối mặt với tình trạng suy giảm kinh tế và buộc phải
đưa ra gói kích thích kinh tế quy mô lớn. Tình trạng bội chi ngân sách cao và kéo dài
trong nhiều năm trong khi tăng trưởng kinh tế bình quân nhìn chung không cao đã dẫn
đến hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ trên GDP của Chính phủ cũng liên tục tăng lên.
[NHÓM4] Trang 25