TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
BÀI TẬP THẢO LUẬN
Đề tài: “MQH 2 chiều giữa mức sinh, mức chết và sự phát triển
kinh tế - xã hội. Ảnh hưởng đối với định hướng của các chính
sách phát triển kinh tế, xã hội.”
Sinh viên thực hiện: Lê Linh Chi - 11190821
Trần Thị Diệp - 11191049
Nguyễn Duy Khánh - 11192569
Nguyễn Thị Tuyết - 11195653
Nguyễn Thị Thảo Vân - 11195732
Hà Nội, tháng 3 năm 2021
TIEU LUAN MOI download :
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
I - LÝ THUYẾT
1, Mức sinh và các thước đo đánh giá mức sinh.
2, Mức chết và các thước đo chủ yếu.
3, Phát triển Kinh tế - xã hội.
II - LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ 2 CHIỀU GIỮA MỨC SINH,
MỨC CHẾT VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.
1, Mối quan hệ giữa mức sinh và phát triển kinh tế xã hội.
a, Mức sinh ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
b, Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến mức sinh.
2, Mối quan hệ giữa mức chết và phát triển kinh tế - xã hội.
a, Mức chết có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
b, Ảnh hưởng của phát triển kinh tế - xã hội đến mức chết.
3, Sự tác động của mức sinh, mức chết tới định hướng các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội.
II - THỰC TRẠNG VIỆT NAM
1, THỰC TRẠNG VIỆT NAM (tình hình phát triển kinh tế - xã hội,
mức sinh, mức chết)
a, Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của VN trong những năm vừa
1
TIEU LUAN MOI download :
qua.
b, Mức sinh ở Viêti Nam.
c, Mức chết ở Việt Nam
2, Định hướng chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện
nay.
3, Giải pháp của nhóm đưa ra.
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
2
TIEU LUAN MOI download :
Sinh, chết và di cư là ba nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình tăng trưởng
dân số. Thực tế cho thấy, tỷ lệ gia tăng dân số hiện tại của nhiều quốc gia trên thế
giới, bao gồm cả các nước đang phát triển và các nước phát triển, phụ thuộc vào
mức sinh và mức chết hơn là di dân quốc tế. Đặc biệt, ở các nước đang phát triển,
mức chết đã giảm xuống đáng kể và cịn có thể giảm nữa trong tương lai, trong khi
đó mức sinh lại không giảm một cách tương ứng dẫn đến việc gia tăng dân số quá
nhanh, đe dọa sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, để đảm bảo quá trình phát triển
lâu dài, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều hướng tới sự phát triển dân số phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Và Việt Nam cũng khơng phải một
ngoại lệ.
Việc phân tích sâu về mức độ, xu hướng, những khác biệt của mức sinh và
mức chết và mối quan hệ 2 chiều giữa mức sinh, mức chết và sự phát triển kinh tế
- xã hội sẽ là công cụ giúp các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu đánh giá những
thành tựu, hạn chế của các chính sách liên quan, từ đó có căn cứ để xây dựng các
chương trình, chiến lược và chính sách dân số phù hợp với sự phát triển của đất
nước. Đề tài “MQH 2 chiều giữa mức sinh, mức chết và sự phát triển kinh tế - xã
hội. Ảnh hưởng đối với định hướng của các chính sách phát triển kinh tế, xã hội” sẽ
nghiên cứu về thực trạng, xu hướng biến động của mức sinh, mức chết cũng như
lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số
khuyến nghị tới chính sách nhằm duy trì mức sinh, mức chết ở Việt Nam phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
I - LÝ THUYẾT
3
TIEU LUAN MOI download :
1, Mức sinh và các thước đo đánh giá mức sinh.
- Mức sinh: Phản ánh mức độ sinh sản của dân số, nó biểu thị số trẻ em sinh
sống mà một phụ nữ có được trong suốt cuộc đời sinh sản của mình. Mức sinh phụ
thuộc vào rất nhiều các yếu tố sinh học, tự nhiên và xã hội (Sự sinh sống là sự kiện
đứa trẻ tách khỏi cơ thể mẹ và có dấu hiệu của sự sống như hơi thở, tim đập, cuống
rốn rung động hoặc những cử động tự nhiên của bắp thịt.
- Các thước đo cơ bản:
+ Tỷ suất sinh thô (CBR)
+ Tỷ suất sinh chung (GFR)
+ Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR)
2, Mức chết và các thước đo chủ yếu.
- Mức chết: Chết là một trong những yếu tố của quá trình tái sản xuất dân số,
là hiện tượng tự nhiên, không thể tránh khỏi đối với mỗi con người. Nếu loại bỏ sự
biến động cơ học, tăng tự nhiên dân số bằng hiệu số sinh và số chết. Vì vậy, việc
tăng hay giảm số sinh hoặc số chết đều làm thay đổi quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng
tự nhiên của dân số. Đồng thời trong quá trình tái sản xuất dân số, các yếu tố sinh
và chết có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Sinh đẻ nhiều hay ít, mau hay
thưa, sớm hay muộn đều có thể làm tăng hoặc giảm mức chết. Ngược lại mức chết
cao hay thấp sẽ làm tăng hoặc giảm mức sinh.
- Các thước đo chủ yếu:
+ Tỷ suất chết thô (CDR):
+ Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDR)
+ Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (IMR)
3, Phát triển Kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế (Economic development) là quá trình thay đổi theo hướng
tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm sự thay đổi cả về lượng và về chất, là
q trình hồn thiện cả về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia.
Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự gia tăng tổng thu nhập của nền kinh tế và
thu nhập bình quân đầu người trong dài hạn.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hợp lý. Đối với các nước
đang phát triển, đó là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Đó khơng chỉ là q trình thay đổi trong cơ cấu kinh tế theo
ngành, theo hướng tiến bộ, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao
4
TIEU LUAN MOI download :
chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc đạt được tiến bộ xã hội một cách sâu rộng.
- Các vấn đề xã hội được giải quyết theo hướng tốt hơn: Thay đổi cơ cấu xã
hội theo hướng tích cực, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, xóa đói,
giảm nghèo, bảo đảm cơng bằng xã hội.
Phát triển kinh tế địi hỏi phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, sử dụng tối ưu các
nguồn lực, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, phát triển nền kinh tế
tri thức, không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm, của doanh nghiệp, của ngành và toàn bộ nền kinh tế nhằm đảm bảo tăng
trưởng kinh tế lâu dài, ổn định.
Phát triển kinh tế (Economic development) là quá trình thay đổi theo
hướng tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm sự thay đổi cả về lượng và về
chất, là q trình hồn thiện cả về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia.
AI - LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ 2 CHIỀU GIỮA MỨC SINH, MỨC
CHẾT VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.
1, Mối quan hệ giữa mức sinh và phát triển kinh tế xã hội.
a, Mức sinh ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Mức sinh và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Mức sinh tăng (giảm) sẽ làm tăng (giảm) quy mô dân số và thay đổi cơ cấu dân số,
có những thời kỳ và trong các quốc gia phát triển sẽ trở thành điều kiện để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Mức sinh thấp ở các quốc gia phát triển dẫn tới già hóa dân số
và tình trạng thiếu nguồn lao động, các tiềm năng phát triển không được khai thác,
ảnh hưởng không nhỏ tới nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, các nước nghèo có dân số đơng,
mức sinh cao, trẻ em được sinh ra nhiều, cấu trúc dân số trẻ, mức phụ thuộc cao,
gánh nặng kinh tế của những người trong độ tuổi lao động tăng lên, điều kiện để cải
thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn. Giarm sinh đối với
các nước ở khu vực này trở nên quan trọng, vì mức sinh giảm, tỷ số phụ thuộc thấp
tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện chất
lượng cuộc sống dân cư.
Mức sinh khơng chỉ ảnh hưởng gián tiếp mà cịn tác động trực tiếp tới tăng
trưởng kinh tế. Tại thời điểm mức sinh cao, số phụ nữ sinh đẻ nhiều, mức độ và thời
gian để tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ trẻ trong độ tuổi đang có
5
TIEU LUAN MOI download :
cường độ và năng suất lao động cao tại thời điểm đó giảm sẽ tác động đến những
ngày nghề sản xuất, nhất là những ngành cần nhiều lao động nữ. Điều đó ảnh hưởng
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, mức sinh đẻ cao, số trẻ em sinh ra
nhiều, các khoản chi tiêu của ngân sách quốc gia cho việc trợ cấp sinh đẻ, nuôi con,
học hành từ lúc mới sinh ra cho đến tuổi trưởng thành sẽ tăng theo. Điều này sẽ ảnh
hưởng đến nguồn tài chính, nguồn vốn đầu tư cho việc tái sản xuất mở rộng và chắc
chắn ít nhiều hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cũng không ngoại trừ
một số ngoại lệ, khi mức sinh cao, số trẻ em sinh ra nhiều hơn sẽ hình thành nên
một thị trường tiêu dùng tiềm năng cả hiện tại lẫn tương lai. Điều này tất yếu sẽ kích
thích nhiều ngành sản xuất phát triển, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn.
b, Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến mức sinh.
Trong các yếu tố tác động đến khả năng sinh sản, đóng góp của yếu tố kinh tế
đối với q trình biến đổi mức sinh là rất tích cực. Tăng trưởng kinh tế đạt tới một
mức độ nhất định, làm cơ sở cho những chuyển biến trong quan niệm, nhận thức về
sinh sản.
- Phát triển kinh tế, thu nhập được cải thiện, tác động tới mức sinh. Theo kinh
tế học vi mơ, trẻ em được coi như một hàng hóa thơng thường nên khi thu nhập tăng
tạo ra nhu cầu cao hơn đối với trẻ em. Do đó, khi cha mẹ có thu nhập cao thì mức
sinh sẽ gia tăng. Nhưng gia tăng đến một mức độ nhất định thì thu nhập tăng sẽ làm
giảm mức sinh, vì khi đó chi phí cơ hội cho việc sinh con tăng lên cao hơn so với
những hàng hóa khác.
- Phát triển kinh tế, thu nhập được cải thiện tạo điều kiện về vật chất để giảm
mức chết trẻ em, tạo tiền đề cho việc hạ mức sinh một cách vững chắc. Ở những
nước nghèo, kinh tế kém phát triển, mức chết trẻ em thường rất cao vì nhiều ngun
do như khơng được tiếp cận y tế, nước sạch… cho nên người dân thường có quan
niệm sinh nhiều con để tránh rủi ro. Nhưng khi kinh tế được cải thiện, mức chết trẻ
em giảm đáng kể thì quan niệm đó dần được thay đổi dẫn tới giảm sinh một cách
vững chắc.
- Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề vật chất cho việc
thay đổi nhận thức, trình độ dân trí được cải thiện, người dân biết áp dụng các biện
pháp tránh thai, kế hoạch hóa gia đình giúp giảm mức sinh. Theo Tổng cục Thống
kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 đã thu thập thông tin về lịch sử sinh của
phụ nữ từ 10 - 49 tuổi thuộc các địa bàn điều tra mẫu, về tổng tỷ suất sinh - TFR,
phụ nữ có trình độ đại học có TFR thấp nhất (1.85 con/ phụ nữ), tiếp đến là phụ nữ
có trình độ cao đẳng (1.91 con/ phụ nữ). Phụ nữ chưa bao giờ đi học có
6
TIEU LUAN MOI download :
TFR khá cao (2.59 con/phụ nữ) và phụ nữ có trình độ sơ cấp có TFR cao nhấp
(3.71 con/phụ nữ)
- Kinh tế phát triển, dựa trên công cụ sản xuất hiện đại, cơ giới hóa, tự động
hóa thường có nhu cầu lao động ít đi về số lượng nhưng lại có nhu cầu cao hơn về
lao động chất lượng cao. Điều này sẽ làm thúc đẩy các gia đình sinh để ít đi để tập
trung nguồn lực chăm sóc con cái về sức khỏe, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp. Do
vậy khi phát triển kinh tế - xã hội sẽ tác động làm giảm mức sinh. Theo số liệu của
Worldbank năm 2018 thì những quốc gia cơng nghiệp lớn trên thế giới thì thường
có tổng tỷ suất sinh TFR ở mức rất thấp như Nhật Bản với TFR là 1,4 con/ phụ nữ,
Trung Quốc là 1,7 con/ phụ nữ, Đức là 1,6 con/ phụ nữ, Anh là 1,7 con/ phụ nữ,
Singapore là 1,1 con/ phụ nữ…
- Theo lý thuyết của Caldwell. J (1982) đề xuất rằng các quyết định sinh sản
ở tất cả các xã hội đều phản ánh phản ứng hợp lý về mặt kinh tế đối với sự chuyển
giao của cải trong gia đình. Sự chuyển dịch mức sinh từ cao xuống thấp là kết quả
của một sự thay đổi trong cấu trúc gia đình có sự chuyển giao tài sản các thế hệ từ
dưới lên thành từ trên xuống. Do đó, khi phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập người
dân tăng lên và có tài sản tích lũy khi về già họ sẽ có xu hướng sinh ít con đi thay vì
phải sinh nhiều con để có người phụng dưỡng khi về già như trước đây nữa tương
ứng)
2, Mối quan hệ giữa mức chết và phát triển kinh tế - xã hội.
a, Mức chết có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Mức chết tăng cao :
- Mức chết gia tăng cao, nhất là những người trong độ tuổi lao động, những
người có chun mơn trình độ cao, các nhà khoa học các chuyên gia giỏi sẽ ảnh
hưởng đến nền kinh tế rất lớn, kìm hãm sự phát triển kinh tế trong tương lai.
- Những người là trụ cột gia đình chết khiến ảnh hướng tương lai trẻ em, trẻ
mồ côi gia tăng, kéo theo đó là những tệ nạn xã hội => ảnh hướng tới sự phát triển
của xã hội.
- Giảm thiểu được sự gia tăng dân số và việc quá đông dân cư trong khi đất
đai hẹp lại => chất lượng cuộc sống sẽ tốt hơn; nhiều cánh rừng sẽ không bị phá để
xây dự án=> bớt thiên tai lũ lụt, hiệu ứng nhà kính=> tiết kiệm chi phí cho nhà
nước, giảm bớt sự mất mát về tài nguyên, tài sản, con người. (Tính đến ngày
22/11/2020, thiên tai đã làm 346 người chết, mất tích và 874 người bị thương. Đồng
thời, ảnh hưởng của thiên tai cịn làm 3.424 ngơi nhà bị sập, 333.042 nhà bị hư hại,
tốc mái, cần phải di dời khẩn cấp; 509.793 lượt nhà bị ngập).
7
TIEU LUAN MOI download :
- Tuy nhiên, chết tăng làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế đất nước (do
thiếu hụt lực lượng lao động, tệ nạn xã hội gia tăng) nhưng cũng một phần nào đó
làm giảm sự gia tăng dân số chóng mặt và những hệ lụy đi kèm.
Mức chết thấp tạo ra những ngành nghề mới cho xã hội nhưng theo đó
khiến dân số ngày càng một đơng đúc kèm theo những hệ lụy đi kèm.
Tác động kinh tế gây ra bởi tình trạng dân số bị lão hóa là điều đáng chú
trọng. Người lớn tuổi có xu hướng tiết kiệm cao hơn người trẻ, nhưng mức chi tiêu
cho hàng tiêu dùng lại ít hơn. Tùy vào độ tuổi diễn ra sự thay đổi này, một đất nước
có dân số lão hóa có thể chứng kiến tình trạng lãi suất thấp và tỷ lệ lạm phát thấp.
Cũng bởi người cao niên sẽ tiêu dùng ít hơn, các nước với tỉ lệ dân số già cao
thường có mức lạm phát thấp. Đồng thời, việc thiếu hụt lao động trẻ khiến tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế, cải tiến kỹ thuật cũng bị sụt giảm.
Dân số bị lão hóa cũng buộc cơng cuộc cải tiến công nghệ phải được đẩy
mạnh, bởi sự sụt giảm lực lượng lao động sẽ được bù đắp phần nào bởi hiện tượng
thất nghiệp do công nghệ hay bởi tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, việc cải tiến
công nghệ khơng phải lúc nào cũng có thể thực hiện được, và ln địi hỏi một chi
phí rất lớn.
Nhiều khoản chi tiêu bị đội lên do hiện tượng lão hóa dân số, bao gồm những
khoản từ nguồn tài chính cơng. Lĩnh vực chi tiêu lớn nhất ở nhiều nước hiện nay
dành cho chăm sóc y tế sẽ tăng lên chóng mặt kèm hiện tượng lão hóa dân số.
Tóm lại, trong tương lai, cùng với sự phát triển toàn cầu, việc mức chết thấp
sẽ tốt hơn việc mức chết tăng cao bởi chúng ta đang vận động người già làm việc
tác động không nhỏ đến nền kinh tế đất nước cả về trực tiếp lẫn gián tiếp.
b, Ảnh hưởng của phát triển kinh tế - xã hội đến mức chết.
- Kinh tế khơng chỉ tác động đến mức sinh mà nó còn ảnh hưởng mạnh mẽ
đến mức chết. Một quốc gia kém phát triển, kinh tế lạc hậu thì khơng tránh khỏi tình
trạng tỷ lệ nghèo đói cao, đi theo đó là tình trạng suy dinh dưỡng, mù chữ, y tế kém
phát triển…Những yếu tố này sẽ nâng cao tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Ví dụ Hội nghị
quốc tế khẩn cấp ở Rôm/I-ta-ly-a hôm 25/7/2011 nhằm ngăn chặn “nạn đói thế kỷ”
đang cướp dần mạng sống của hơn 11 triệu người tại Sừng Châu Phi, hàng triệu
người dân nước này đang có nguy cơ bị chết đói và hầu hết trẻ em đang
ở tình trạng suy dinh dưỡng cấp độ 4. Hoặc nạn đói năm 1945 tại VN đã cướp đi
hơn 2 triệu mạng sống.
8
TIEU LUAN MOI download :
- Theo John C Caldewell (1986): Đối với quốc gia có kinh tế phát triển, thu
nhập tăng cao tạo điều kiện vật chất để mở rộng mạng lưới y tế cơng cộng, hồn
thiện hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho trẻ em và người già (những đối tượng nhạy cảm) đã tăng lên, không chỉ về
số lượng và chất lượng. Trẻ em được tiêm phịng, chăm sóc trong những điều kiện
khá tốt, những bệnh trước đây dễ lây truyền đã được phòng ngừa, chữa trị đơn giản
hơn. Người già đến với những dịch vụ chăm sóc tốt hơn, đa dạng và đảm bảo hơn
giúp cho thể lực càng được tăng cường. Những điều đó làm giảm mức chết của dân
cư xuống, tăng tuổi thọ trung bình của dân cư… do đó làm giảm mức chết.
- Cũng theo John C Caldewell: Kinh tế-xã hội phát triển cũng đồng nghĩa là
trình độ học vấn cũng phát triển. Trình độ học vấn của phụ nữ tác động mạnh mẽ
đến mức chết. Những phụ nữ có trình độ học vấn thấp thường ít hiểu biết cách ni
con và phịng chống các bệnh tật, có thu nhập thấp nên khơng có điều kiện để chăm
sóc con tốt hơn khi bị ốm đau, dẫn đến tử vong tăng cao.Tóm lại, trình độ học vấn
có ảnh hưởng rất mạnh đến mức chết của dân số.
Tuy nhiên trình độ học vấn là một trong các nhân tố thuộc yếu tố kinh tế xã
hội, chỉ tác động đến mức chết thông qua các yếu tố trung gian như tuổi của bà mẹ
khi sinh, khoảng cách giữa hai lần sinh, số con sinh ra trong gia đình và tỷ lệ thực
hiện các biện pháp tránh thai, điều kiện chăm sóc khi ốm đau bệnh tật chứ khơng
tác động trực tiếp.
- Sự đánh đổi cho một nền kinh tế phát triển đó là mơi trường tự nhiên ngày
càng ơ nhiễm nặng. Khi công nghiệp phát triển, đô thị được mở rộng, những điểm
dân cư sống đông đúc ngày càng tăng, nếu không quy hoạch các nhà máy, khu công
nghiệp, không có hệ thống thải lọc tốt thì sức khỏe con người sẽ bị đe dọa và có
nguy cơ dẫn đến tử vong.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng khá mật thiết tới
mức chết, cải thiện mức chết, đem tới một chất lượng dân số tốt hơn trên nhiều mặt
nhất là về sức khỏe và tuổi thọ bình quân
3, Sự tác động của mức sinh, mức chết tới định hướng các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội.
Căn cứ vào cơ cấu dân số và tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia và các
nước khác trong khu vực để đưa ra các chính sách duy trì và hướng tới mức cơ cấu
dân số vàng (số người trong độ tuổi lao động tăng gấp hai lần số người phụ thuộc)
9
TIEU LUAN MOI download :
Cụ thể: nước có mức sinh cao/ thấp cần có các chính sách để giảm/ tăng sinh
(Ví dụ như các chính sách giảm sinh: chỉ đạo cuộc vận động thực hiện mỗi gia đình,
cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, hỗ trợ người dân thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia
đình, bao gồm phương tiện tránh thai, bồi dưỡng, hỗ trợ người thực hiện nhiệm vụ
cung cấp dịch vụ, người vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình…; các chính
sách tăng sinh: xây dựng mơ hình quản lý phát triển kinh tế, gia đình, hỗ trợ cung
cấp các dịch vụ hơn nhân và gia đình, hỗ trợ phụ nữ khi mang mang thai, sinh con
và sinh đủ 2 đứa,...)
Nước có mức chết cao/thấp cần có các chính sách để giảm/ tăng chết (nhưng
các chính sách tăng chết trái với chuẩn mực đạo đức nên bị lên án => khơng được
phép sử dụng) (Ví dụ chính sách giảm chết: phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em, phát triển viện dưỡng lão,..)
II - THỰC TRẠNG VIỆT NAM
1, THỰC TRẠNG VIỆT NAM (tình hình phát triển kinh tế - xã hội, mức sinh,
mức chết)
a, Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của VN trong những năm vừa qua.
* Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao.
Theo Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 tăng
trưởng đạt 6,8%/ năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt
trên 2% , bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/ năm. Tính chung cả
thời kỳ Chiến lược 2011 - 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/ năm,
thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP
tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 268,4 tỷ USD vào năm 2020. GDP
bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm
2020.
* Cơ cấu kinh tế
Thực trạng về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành tại Việt Nam
trong những năm gần đây được đánh giá là có sự thay đổi rõ rệt. Điều đó được thể
hiện ở sự giảm tỷ trọng ở khu vực I và tăng tỷ trọng ở khu vực II, III. Cụ thể là ở
khu vực I, tỷ trọng về ngành trồng trọt, chăn ni giảm, cịn ngành thủy sản tăng
lên. Ở khu vực II, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng lên mạnh mẽ, còn
10
TIEU LUAN MOI download :
cơng nghiệp khai thác thì có xu hướng giảm nhẹ. Khu vực III, các lĩnh vực liên
quan đến kết cấu hạ tầng và phát triển đơ thị có xu hướng tăng nhanh chóng…
* Phát triển xã hội
Phát triển văn hố - xã hội, xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích
cực.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm
2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) và giảm từ
9,2% năm 2016 xuống dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Cơ sở
hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được
tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Thu nhập bình quân đầu người
tăng 3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019. Thực hiện
nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Tỷ lệ thất
nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị có xu hướng giảm
dần, từ mức 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm 2020 do
tác động của dịch bệnh Covid-19 nhiều doanh nghiệp phải giãn, dừng, chấm dứt
hoạt động, tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng. Quan hệ lao động ngày
càng hài hoà, tiến bộ; số vụ tranh chấp lao động tập thể, đình cơng giảm dần qua các
năm .
Thực hiện tốt các chính sách người có cơng, bảo đảm an sinh xã hội. Phát
huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, huy động tồn xã hội tham gia chăm sóc
gia đình chính sách, người có cơng. Thực hiện hiệu quả các chính sách bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động; mở rộng và thực hiện
tốt các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất. Nhà nước đã dành
nhiều nguồn lực đối phó với đại dịch Covid-19; thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ
người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn; giảm, giãn thuế, phí, lệ phí; giảm giá điện,
nước, dịch vụ viễn thông; khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất tín dụng…
Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh vực từ chính trị, kinh
tế, văn hố, xã hội. Cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân được
quan tâm. Y tế dự phịng được tăng cường, cơ bản khơng để dịch bệnh lớn xảy ra.
Việt Nam từng bước kiểm soát được dịch bệnh Covid-19, không để lây lan trên diện
rộng, được ghi nhận, đánh giá cao. Mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp, năng
lực, chất lượng khám, chữa bệnh và y đức được nâng lên; y tế cơ sở được chú trọng.
Nhiều bệnh viện công lập được thực hiện tự chủ.
11
TIEU LUAN MOI download :
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện,
thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. Đã
hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được đánh giá là
điểm sáng trong lĩnh vực giảm nghèo, y tế, giáo dục và tích cực triển khai thực hiện
các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
b, Mức sinh ở ViêtkNam.
Năm 2019 nước ta đã có cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở nhằm thu thập
thông tin về lịch sử sinh của phụ nữ từ 10-49 tuổi thuộc các địa bàn điều tra mẫu để
ước lượng các chỉ tiêu về mức sinh. Những số liệu về mức sinh dưới đây sẽ cho
thấy bức tranh tổng thể về thực trạng mức sinh tại VN thời gian qua.
Kết quả số liệu về TFR giai đoạn 2001 - 2019 của Việt Nam có xu hướng
giảm đều qua các năm, từ 2,25 con/ phụ nữ năm 2001 xuống 1,99 con/phụ nữ năm
2011; giai đoạn 2012 - 2019, đạt bằng hoặc dưới mức sinh thay thế (dao động từ
2,04 đến 2,10 con/phụ nữ).
Năm 2019, TFR của Việt Nam thấp hơn so với TFR trung bình của các nước
Đông Nam Á (TFR của khu vực Đông Nam Á năm 2019 là 2,2 con/phụ nữ). TFR
của Việt Nam chỉ cao hơn bốn nước trong khu vực Đông Nam Á là Bru-nây và Malai-xi-a (1,9 con/phụ nữ), Thái Lan (1,5 con/phụ nữ) và Xin-gapo(1,1con/phụnữ)
(Nguồn
số
liệu:
/>12
TIEU LUAN MOI download :
Theo kết quả TĐT năm 2019, TFR của khu vực thành thị(1,83 con/phụ nữ)
luôn thấp hơn mức sinh thay thế trong khi TFR của khu vực nông thôn(2,26
con/phụ nữ) luôn cao hơn mức sinh thay thế trong gần hai thập kỷ qua.Sự chênh
lệch này có thể là do các cặp vợ chồng ở thành thị được tiếp cận với các nguồn
thông tin dễ dàng hơn, nhận thức tốt hơn về lợi ích của gia đình ít con mang lại so
với các cặp vợ chồng ở nông thôn và việc dễ dàng tiếp cận các cơ sở y tế cung cấp
các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cũng giúp họ tránh mang thai và sinh con ngoài
ý muốn. Bên cạnh đó, điều kiện sống ở khu vực thành thị tốt hơn khu vực nông
thôn nên tỷ lệ chết sơ sinh và chết trẻ em ở thành thị thấp hơn ở nơng thơn, từ đó
góp phần làm giảm nhu cầu sinh thay thế ở khu vực này.Kết quả thống kê cũng cho
thấy, trong những năm qua, TFR ở nông thôn giảm khá nhanh từ 2,38 con/phụ nữ
năm 2001 xuống còn 2,26 con/phụ nữ năm 2019, trong khi con số này ở thành thị
gần như thay đổi không đáng kể, xoay quanh mức 1,80 con/phụ nữ trong gần hai
thập kỷ qua. Rõ ràng là trong thời gian qua, có sự thay đổi rất tích cực trong nhận
thức về lợi ích sinh ít con của phụ nữ nông thôn.
Mức sinh ổn định ở dưới mức sinh thay thế trong hơn một thập kỷ qua (trừ
năm 2013 và năm 2015 có TFR= 2,10 con/phụ nữ) một lần nữa khẳng định sự thành
công của Chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, Chương trình dân số và phát
triển và nhiều chương trình, chiến dịch chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là
sức khỏe sinh sản ở khu vực nông thôn. Tuy vậy, mức sinh ở nông thôn vẫn cao hơn
khá nhiều so với ở thành thị và đang cao hơn mức sinh thay thế. Do vậy, trong thời
gian tới vẫn cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe sinh
sản, kế hoạch hóa gia đình kết hợp với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhằm phát triển khu vực nông thôn.
* Tổng tỷ suất sinh theo vùng kinh tế-xã hội:
Biểu 1: Tổng tỷ suất sinh theo vùng kinh tế - xã hội, 2009-2019
TIEU LUAN MOI download :
Nguồn: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2019, Nhà xuất bản
Thống kê – 2019, trang 78
Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên là các vùng có mức sinh cao; cao hơn mức
sinh thay thế. Hai vùng có mức sinh thấp và thấp hơn mức sinh thay thế là Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
* Tổng tỷ suất sinh theo nhóm mức sống ngũ phân vị:
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, phụ nữ có trình độ học vấn càng
cao thì TFR càng thấp. Thấp nhất là đại học (1,85 con/phụ nữ), đến cao đẳng (1,91),
đến chưa bao giờ đi học (2,59) và cuối cùng là sơ cấp (3,71). Phụ nữ thuộc nhóm
“Giàu nhất” có mức sinh thấp nhất (2,00 con/phụ nữ) và cao nhất là phụ nữ thuộc
nhóm “Nghèo nhất” (2,4 con/ phụ nữ), cao hơn nhiều mức sinh thay thế. Phụ nữ
thuộc 3 nhóm (“Giàu”, “Trung bình” và “Nghèo”) có số con trung bình là 2 con.
Điều này cho thấy cần đầu tư hơn nữa để nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cho phụ nữ thuộc nhóm “Nghèo nhất”.
* Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR)
ASFR cho biết bình quân cứ 1000 phụ nữ trong một độ tuổi (hoặc một nhóm
tuổi) nhất định có bao nhiêu trẻ sinh sống trong thời kỳ nghiên cứu, thường là 12
tháng trước thời điểm điều tra.
14
TIEU LUAN MOI download :
Biểu 2: Tỷ suất sinh đặc trưng theo nhóm tuổi, 1999-2019
Nguồn: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2019, Nhà xuất bản
Thống kê – 2019, trang 81
Theo kết quả từ cuộc TĐT, ASFR của phụ nữ nhóm 25-29 tuổi có mức sinh
cao nhất, bình qn cứ 1000 phụ nữ trong nhóm tuổi này thì có 130 trẻ sinh sống;
tiếp đến là nhóm phụ nữ từ 20-24 tuổi với ASFR là 120 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ;
và nhóm phụ nữ từ 30-34 tuổi có ASFR là 84 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ. Như vậy,
phần lớn phụ nữ Việt Nam sinh con ở độ tuổi từ 20 đến 29.
Mơ hình sinh có sự thay đổi trong thời kỳ 1999 - 2019: Mức sinh cao nhất
dịch chuyển từ nhóm tuổi 20-24 với 158 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ năm 1999 sang
nhóm tuổi 25-29 với 133 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ năm 2009 và tương tự ở nhóm
tuổi 25-29 với 130 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ năm 2019. Mức sinh có khác biệt rõ
rệt ở độ tuổi 15-19 với 24 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ năm 2009 so với 35 trẻ sinh
sống/1000 phụ nữ năm 2019. Kết quả cho thấy, mơ hình “sinh muộn” năm 2019
được duy trì ở nhóm tuổi 25-29, tương tự như kết quả năm 2009.
Tỷ suất sinh đặc trưng theo nhóm tuổi và thành thị, nông thôn
15
TIEU LUAN MOI download :
ASFR của khu vực thành thị không những thấp hơn mà cịn có độ “trễ” so
với khu vực nơng thơn, nghĩa là phụ nữ thành thị sinh muộn và sinh ít con hơn phụ
nữ nông thôn. Ở thành thị, mức sinh cao nhất thuộc về phụ nữ 25-29 tuổi với 127
trẻ sinh sống/1000 phụ nữ; trong khi ở nông thôn, mức sinh cao nhất thuộc về nhóm
tuổi 20-24 với 147 trẻ sinh sống/1000 phụ nữ. Nếu so với mức sinh của phụ nữ
cùng nhóm tuổi 20-24 ở thành thị thì con số được sinh ra của những phụ nữ sống ở
nông thôn cao gần gấp đôi (147 trẻ em sinh sống/1000 phụ nữ so với 78 trẻ em sinh
sống/1000 phụ nữ).
Một điểm khác biệt nữa là nhóm tuổi vị thành niên (15-19 tuổi) ở nơng thơn
có ASFR cao gần gấp ba lần so với thành thị (tương ứng là 45 và 16 trẻ sinh
sống/1000 phụ nữ). Điều này có thể là do phụ nữ ở nơng thơn khơng có nhiều cơ
hội để theo học trình độ cao hơn như phụ nữ ở thành thị nên họ thường kết hôn và
sinh con sớm hơn phụ nữ ở thành thị; hoặc có thể do phong tục, tập quán tại các
vùng nông thôn vẫn cịn hiện tượng tảo hơn nên dẫn đến phụ nữ ở nông thôn sinh
con sớm, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa.
* Sinh con ở tuổi chưa thành niên
TĐT năm 2019 thu thập thơng tin về tình hình sinh con của trẻ em nữ chưa
thành niên (từ 10 đến 17 tuổi), nhóm tuổi đang trong q trình phát triển về thể chất
lẫn tinh thần và chưa phù hợp để làm mẹ, nhằm cung cấp căn cứ chính xác đánh giá
thực trạng trẻ em gái sinh con ở độ tuổi này, từ đó có cơ sở để có thể hoạch định các
chính sách bảo vệ cần thiết. Theo kết quả TĐT năm 2019, ở Việt Nam vẫn còn tồn
tại nhiều trường hợp trẻ em nữ chưa thành niên sinh con trong 12 tháng trước thời
điểm điều tra.
Trên phạm vi toàn quốc, phụ nữ chưa thành niên sinh con chiếm tỷ trọng
3,3‰, trong đó cao nhất ở Trung du và miền núi phía Bắc (9,7‰), cao hơn 8,5 lần
so với vùng Đồng bằng sông Hồng (1,1‰). Tây Nguyên là vùng cao thứ hai
(6,8‰). Nguyên nhân khiến hai vùng này có tỷ lệ phụ nữ sinh con ở độ tuổi chưa
thành niên cao hơn hẳn so với các vùng khác một phần là do điều kiện sống khó
khăn, cơng tác tun truyền nâng cao nhận thức về sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe
sinh sản, ảnh hưởng của kết hôn và sinh con sớm tới sức khỏe bà mẹ trẻ em cịn hạn
chế; ngồi ra là do phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số về việc lấy
chồng và sinh con sớm. Tỷ lệ phụ nữ từ 10-17 tuổi sinh con ở khu vực nông thôn là
4,2‰, cao hơn ba lần so với khu vực thành thị (1,3‰). Điều này chứng tỏ nữ chưa
thành niên ở khu vực nơng thơn có xu hướng sinh con sớm hơn khu vực thành thị.
* Tỷ suất sinh thô (CBR)
16
TIEU LUAN MOI download :
CBR biểu thị số trẻ em sinh ra sống trong thời kỳ nghiên cứu, thường là 12
tháng trước thời điểm điều tra, tính bình qn trên 1.000 người dân có đến thời
điểm điều tra. Tỷ suất này tính trên tồn bộ dân số (tức là bao gồm cả những người
có khả năng và khơng có khả năng sinh con).
Kết quả TĐT năm 2019 cho thấy, CBR của Việt Nam năm 2019 là 16,3 trẻ
sinh sống/1000 dân. CBR của khu vực nông thôn là 16,3 trẻ sinh sống/1000 dân,
cao hơn 0,1 điểm phần nghìn so với CBR của thành thị (16,2 trẻ sinh sống/1000
dân). CBR của toàn quốc cũng như khu vực thành thị và nơng thơn có xu hướng
giảm dần từ năm 2009 đến 2018 và tăng nhẹ năm 2019.
* Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số
này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Bất kỳ sự thay đổi
đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những
can thiệp có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn
định dân số của quốc gia và toàn cầu.
17
TIEU LUAN MOI download :
Nguồn số liệu: Theo Tổng cục thống kê
SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ
năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt
Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm
2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên
nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với
phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên
cũng như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng,
miền và việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi
khi mang thai hoặc chuẩn đốn giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa
chọn giới tính,…
Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới
sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu
trúc gia đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới
tính hiện nay, tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc
gia sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
=> KẾT LUẬN CHUNG:
Xét một cách tổng quát, Việt Nam có tổng tỷ suất sinh duy trì ở gần mức sinh
thay thế, phụ nữ có trình độ càng cao thì mức sinh con càng thấp và phụ nữ có trình
độ sơ cấp có mức sinh cao nhất.
Tuy nhiên vẫn còn mất cân bằng trong tỷ lệ trẻ sơ sinh nam/nữ, tỷ lệ sinh có
sự thay đổi giữa các vùng miền, khu vực.
c, Mức chết ở Việt Nam
* Tỷ suất chết thô
Tỷ suất chết thô vẫn ở mức thấp trong khi xu hướng già hóa dân số tăng lên.
Tỷ suất chết thô năm 2019 thấp hơn so với năm 2009 ở cả khu vực thành thị, nông
thôn và các vùng kinh tế - xã hội. Tỷ suất chết thô (CDR) là một trong những chỉ
tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để phản ánh mức độ tử vong của dân số. CDR cho
biết trung bình cứ mỗi 1000 dân thì có bao nhiêu người chết trong một thời gian
nhất định, thường là 12 tháng trước thời điểm điều tra. CDR bị ảnh hưởng bởi cơ
18
TIEU LUAN MOI download :
cấu dân số theo tuổi và giới tính của dân số quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực hay
một tập hợp dân số.
Theo kết quả của Tổng điều tra năm 2019, CDR của cả nước là 6,3 người
chết/1000 dân, trong đó CDR của thành thị là 5,1 người chết/1000 dân và khu vực
nông thôn là 6,9 người chết/1000 dân. CDR năm 2019 thấp hơn so với năm 2009 ở
cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Do CDR bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cơ cấu
tuổi của dân số nên trước khi đánh giá sự tác động của cơ cấu tuổi đến CDR cần
phải tiến hành chuẩn hóa mức chết của các năm theo cơ cấu dân số của một năm
nhất định. Kết quả dưới đây là ước lượng CDR cho các năm 1999, 2009 và 2019
dựa trên mức chết được chuẩn hóa theo cơ cấu dân số của năm 2009.
Biểu 3: Tỷ suất chết thô theo thành thị, nơng thơn, 1999 – 2019:
Tồn Quốc
Thành Thị
Nơng Thơn
CDR tồn quốc chuẩn hóa theo cơ cấu tuổi 2009
Nguồn: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2019, Nhà xuất bản
Thống kê – 2019, trang 88
CDR chuẩn hóa của năm 2019 tăng 0,1 điểm phần nghìn so với năm 2009
(lần lượt là 6,9 người chết/ 1000 dân và 6,8 người chết/ 1000 dân). Điều này cho
thấy, mặc dù CDR chưa chuẩn hóa của năm 2019 thấp hơn so với năm 2009 (6,3
người chết/ 1000 dân so với 6,8 người chết/ 1000 dân) nhưng điều đó khơng có
nghĩa mức chết trong năm 2019 thấp hơn so với năm 2009 mà ngược lại có sự tăng
nhẹ. CDR tăng lên khơng có nghĩa là Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề
về chăm sóc sức khỏe, dịch bệnh hay chiến tranh, thiên tai mà nguyên nhân ở đây
chủ yếu là do thay đổi về cơ cấu tuổi của dân số. Kết quả Tổng điều tra năm 2019
cho thấy, tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên (nhóm có tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi
cao) tăng 1,3 điểm phần trăm trong vòng 10 năm qua (năm 2009 là 6,4%, năm 2019
là 7,7%) đã làm CDR của Việt Nam tăng nhẹ. Khi phân theo thành thị và nông thôn,
CDR ở thành thị thấp hơn ở nông thôn. Các năm gần đây CDR của thành thị có xu
hướng giảm dần cịn ở nơng thơn vẫn cao. Những con số trên thể
19
TIEU LUAN MOI download :
hiện sự thành cơng rất lớn của các chương trình và chính sách về y tế, đặc biệt là
cơng tác chăm sóc sức khỏe người dân đi kèm với phát triển kinh tế. Ở thành thị
kinh tế phát triển đi song song là các dịch vụ y tế giúp người dân có sức khỏe và
sống lâu hơn.
Biểu 4: Tỷ suất chết thơ theo giới tính và vùng kinh tế - xã hội
Tồn Quốc
Trung du và miền núi phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền 6,8
Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng sông Cửu Long
(*): CDR các vùng chuẩn hóa theo cơ cấu tuổi của tồn quốc năm 2019
Nguồn: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2019, Nhà xuất bản
Thống kê – 2019, trang 89
CDR chưa chuẩn hóa có sự khác nhau rất rõ giữa các vùng và theo giới tính.
Trung du và miền núi phía Bắc có CDR cao nhất cả nước (7,2 người chết/ 1000
dân) và Đơng Nam Bộ có CDR thấp nhất (4,7 người chết/ 1000 dân). Vùng Đông
Nam Bộ là nơi thu hút di cư của cả nước, đa số là người trẻ tuổi, với chỉ số phụ
thuộc chung thấp (35,4%) là nguyên nhân dẫn đến tỷ suất chết thô của vùng này
thấp nhất cả nước. CDR của nam giới cao hơn so với CDR của nữ giới, tương ứng
là 7,1 người chết/ 1000 dân và 5,6 người chết/ 1000 dân. Sự khác biệt về CDR của
nam giới tương tự CDR chung giữa các vùng, tức là Trung du và miền núi phía Bắc
cao nhất cả nước trong khi Đông Nam Bộ thấp nhất, lần lượt là 8,6 người chết/
1000 dân và 5,2 người chết/ 1000 dân. Đối với nữ giới, CDR cao nhất tại Đồng
bằng sông Cửu Long (6,7 người chết/ 1000 dân) và thấp nhất tại vùng Tây Nguyên
(4,2 người chết/ 1000 dân). CDR được chuẩn hóa theo cơ cấu tuổi của cả
20
TIEU LUAN MOI download :
nước năm 2019 cho thấy CDR của Tây Nguyên cao nhất và của Đông Nam Bộ thấp
nhất (lần lượt là 7,4 người chết/ 1000 dân và 5,6 người chết/ 1000 dân).
* Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi.
Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) là số đo mức độ chết của trẻ em
trong năm đầu tiên của cuộc sống, phản ánh tình hình cung cấp chất lượng các dịch
vụ và phương tiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đánh giá mức độ tử vong
của nhóm dân số có mức độ chết cao và tác động mạnh đến tuổi thọ trung bình tính
từ lúc sinh.
Số liệu trong Biểu 5 cho thấy mức độ chết trẻ em của toàn quốc đã giảm đáng
kể trong 19 năm qua (2001 - 2019). Ở khu vực thành thị, IMR giảm từ 20,4 xuống
còn 8,2 trẻ em tử vong trên 1000 trẻ em sinh sống, trong khi đó ở nông thôn IMR đã
giảm từ 32,5 xuống 16,7 trẻ em tử vong trên 1000 trẻ em sinh sống trong vòng 19
năm qua (2001 – 2019). Trong 19 năm qua, mặc dù sự giảm điểm phần nghìn của
IMR ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị nhưng cường độ của hai khu
vực này không khác nhau nhiều, tương ứng thành thị giảm 40,2%, cịn nơng thơn
giảm 51,4%. Mặt khác, năm 2001, IMR của khu vực nông thôn cao gấp 1,6 lần IMR
của khu vực thành thị và đến năm 2019, sự khác biệt đó tăng khơng đáng kể (2 lần).
Điều đó cho thấy, sự sụt giảm IMR thời kỳ 2001 – 2019 diễn ra tương đối đồng đều
ở cả khu vực thành thị và khu vực nông thơn nhưng khơng có dấu hiệu của sự thu
hẹp khoảng cách về tỷ suất này giữa hai khu vực. Trong suốt 19 năm, mức độ chết
của trẻ nam luôn cao hơn so mức độ chết của trẻ em nữ và khoảng cách thì cũng
khơng có dấu hiệu thu hẹp.
Biểu 6: Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi chia theo thành thị/ nơng
thơn/ giới tính, 2001-2019
Tổng số
2001
29,5
2005
17,8
2010
15,8
2015
14,7
2019
14,0
TIEU LUAN MOI download :
Nguồn: Số liệu theo Tổng cục thống kê
Mặc dù IMR của cả nước đạt mức thấp, giảm ở tất cả các vùng trong hơn hai
thập kỷ qua, tuy nhiên sự khác biệt giữa các vùng vẫn còn lớn. IMR của Tây
Nguyên và Trung du và miền núi phía Bắc vẫn còn cao, đặc biệt IMR của Tây
Nguyên cao nhất cả nước (23,4), cao hơn gần ba lần so với IMR của Đơng Nam Bộ
(8,1 - vùng có IMR thấp nhất cả nước). Do đó, cơng tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ sơ sinh cần được quan tâm đặc biệt và đầu tư thỏa đáng ở các vùng miền núi
xa xơi, nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
thai sản góp phần giảm IMR.
So với các nước trong khu vực, tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi của nước
ta cao hơn so với Singapore là 2 phần nghìn, Thái Lan là 8 phần nghìn, Malaysia là
7 phần nghìn nhưng thấp hơn Campuchia là 23 phần nghìn, Indonesia là 20 phần
nghìn và Philipin là 22 phần nghìn. (Số liệu theo nguồn worldbank)
* Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỷ suất chết của trẻ em
dưới 5 tuổi của Việt Nam năm 2019 giảm hơn một nửa so với năm 1999, tuy vậy,
vẫn còn khoảng cách lớn giữa khu vực thành thị, nông thôn và giữa các vùng kinh
tế - xã hội.
Trong khi IMR liên quan nhiều đến điều kiện thai sản của bà mẹ thì tỷ suất
chết của trẻ em dưới 5 tuổi (U5MR) chủ yếu phản ánh về tình trạng dinh dưỡng và
phịng chữa bệnh cho trẻ em.
Biểu 7: Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi theo giới tính, thành thị,
nơng thơn và vùng kinh tế - xã hội
Đơn vị tính: Trẻ dưới 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ sinh sống
Tồn quốc
Thành thị
Nơng thôn
Vùng kinh tế - xã hội
Trung du và miền núi phía Bắc
TIEU LUAN MOI download :
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2019, Nhà xuất bản
Thống kê – 2019, trang 91
Trong vòng hai thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt thành tựu đáng ghi nhận trong
việc chăm sóc y tế và phòng chống bệnh tật cho trẻ em. Điều này được thể hiện qua
việc giảm nhanh tỷ lệ chết của trẻ em dưới 5 tuổi. U5MR của Việt Nam năm 2019 là
21,0 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ sinh sống, giảm hơn một nửa so với năm
1999 (56,9 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ sinh sống). Tuy vậy, vẫn còn
khoảng cách lớn giữa các khu vực thành thị và nông thôn và giữa các vùng kinh tế xã hội: U5MR của khu vực nông thôn cao gấp hơn hai lần so với khu vực thành thị
(tương ứng là 25,1 và 12,3 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ sinh sống); U5MR
của các vùng kinh tế kém phát triển như Trung du và miền núi phía Bắc và Tây
Ngun cịn khá cao (tương ứng là 31,5 và 35,5 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ
sinh sống), gấp gần ba lần so với Đông Nam Bộ và gấp đôi so với Đồng bằng sông
Hồng.
* Tỷ số tử vong mẹ
Tỷ số tử vong mẹ (MMR) phản ánh mức độ chết theo nguyên nhân chết liên
quan đến quá trình thai sản. Chỉ tiêu này đánh giá tính hiệu quả của hệ thống y tế
trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trước, trong và sau khi
sinh. Chỉ tiêu này được xác định bằng tương quan giữa số phụ nữ chết vì những
ngun nhân có liên quan đến thai sản trong năm và số trường hợp mới sinh trong
năm. Khác với các chỉ tiêu nhân khẩu học khác, tỷ số chết mẹ khơng tính theo đơn
vị phần nghìn mà tính theo đơn vị phần trăm nghìn. Chỉ tiêu này cho biết, cứ
100.000 trẻ sinh sống trong năm, có bao nhiêu người mẹ bị chết vì những ngun
nhân có liên quan đến thai sản. MMR năm 2019 là 46 ca trên 100.000 trẻ sinh sống,
giảm 23 ca trên 100.000 ca sinh sống so với năm 2009 (69 ca trên 100.000 ca sinh
sống) theo kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. So với các nước
trong khu vực Đông Nam Á, MMR của Việt Nam cao hơn Brunei, Ma-lai-xi-a, Xinga-po, Thái Lan và thấp hơn các nước còn lại trong khu vực.
23
TIEU LUAN MOI download :
* Sự thay đổi tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh.
Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh (cịn gọi là triển vọng sống trung bình khi
sinh hay tuổi thọ trung bình, được ký hiệu là e 0 ) là chỉ tiêu thống kê chủ yếu của
Bảng sống, biểu thị triển vọng một người mới sinh có thể sống được bao nhiêu năm
nếu như mơ hình chết hiện tại được tiếp tục duy trì. Tuổi thọ trung bình được sử
dụng rộng rãi trong phân tích dân số, phản ánh mức độ chết của dân số không bị tác
động của cơ cấu dân số theo độ tuổi.
Biểu 8: Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh chia theo giới tính, 2001 - 2020
Năm
N
2001
6
2005
6
2010
7
2015
7
2020
7
Nguồn: 2001 – 2018: Số liệu theo worldbank
2019 – 2020: Số liệu theo UNFPA – Quỹ dân số Liên hợp quốc
Biểu 8 trình bày tuổi thọ trung bình cho nam và nữ trong giai đoạn 2001 –
2020. Số liệu trong biểu này cho thấy, tuổi thọ của nam và nữ tăng liên tục trong hai
thập kỷ qua và con số đó của nữ vẫn ln cao hơn của nam. Vào năm 2001, e 0 của
nam và nữ tương ứng là 68,6 và 77,9 năm. Đến năm 2020 tuổi thọ trung bình tăng
và đạt 72 đối với nam và 81 đối với nữ. Trong giai đoạn 2001 – 2010, tuổi thọ trung
bình của nam tăng nhanh hơn so với của nữ (2,1 năm so với 1 năm). Tuy nhiên đến
giai đoạn 2010 – 2020 , tuổi thọ trung bình của nữ tăng nhanh hơn so với của nam
(2,1 năm so với 1,3 năm). Khoảng cách chênh lệch giữa tuổi thọ trung bình nam và
nữ có dấu hiệu thu hẹp nhưng không đáng kể.
* Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi.
Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDR) là tổng số trường hợp chết của một
độ tuổi hoặc nhóm tuổi chia cho dân số của độ tuổi hoặc nhóm tuổi đó và nhân với
hệ số, thường là 1000. Số đo này có thể được tính cho thời kỳ nào đó, thường là
24
TIEU LUAN MOI download :