Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.31 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
-----          -----

BÀI TẬP NHÓM
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

Nhóm sinh viên: 02
Lớp học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam (221)_48
GVHD: TS. Lê Thị Hồng Thuận

Hà Nội – 02/2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TẬP NHÓM
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

Hà Nội – 02/2022



THÀNH VIÊN NHÓM 2
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Họ và tên

MSSV


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………….5
NỘI DUNG………………………………………………………………………………………. 1
PHẦN 1: CƠ SỞ KHOA HỌC DẪN ĐẾN ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA………………… 1
I. Cơ sở lý luận………………………………………………………………………………. 1
II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………………. 2
1. Bối cảnh trong nước…………………………………………………………………….2
2. Bối cảnh quốc tế………………………………………………………………………...5
PHẦN 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ LĨNH VỰC KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG………………………………………………………………………………..11

I. Giai đoạn thứ nhất (Từ đại hội VI đến đại hội VIII)........................................................... 12
II. Giai đoạn thứ hai (Từ Đại hội IX đến Đại hội XI)............................................................ 15
III. Giai đoạn thứ ba (Từ Đại hội XII đến Đại hội XIII)........................................................23
PHẦN 3: NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ LĨNH
VỰC KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY…...25
I. Tổng quan 35 năm………………………………………………………………………... 25
II. Những thành tựu và hạn chế trong lĩnh vực kinh tế giai đoạn Đại hội từ 1986-2021….... 27
1. Thành tựu đạt được……………………………………………………………………. 27
2. Hạn chế tồn tại……………………………………………………………………….... 28
III. Bài học kinh nghiệm……………………………………………………………………. 29
IV. Hướng đi và tầm nhìn tương lai………………………………………………………...30
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….1
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………. 2


LỜI MỞ ĐẦU
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển, thu nhập bình
quân đầu người còn thấp, tuy nhiên đang trong xu hướng hội nhập quốc tế và dần dần
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phải
quyết tâm đẩy mạnh Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từ một nền kinh tế tập trung
bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, sớm đưa nước
ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển với rất nhiều thành công rực rỡ. Theo báo
World Bank: “Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu,
chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp. Việt
Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất Đơng Á Thái Bình Dương”. Để đạt
được những thành tựu đó bên cạnh việc phải tận dụng các nguồn lực vốn có thì Đảng ta đã
có tư duy đổi mới đúng đắn, đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế. Đó là một q trình cấp bách
và khó khăn nhưng nó cũng thể hiện sự đổi mới về tư duy, ngày càng hồn thiện cả về lí
luận cũng như thực tiễn xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Để tìm hiểu và nghiên cứu thêm thật nhiều những chính sách, giải pháp và hướng
đi của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Chúng em đã chọn
đề tài: “Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay” làm chủ đề thảo luận nhóm
với mục đích làm rõ sự hình thành và phát triển nhận thức mới của Đảng, đường lối chính
sách và những thách thức sắp tới.


NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ KHOA HỌC DẪN ĐẾN ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. Cơ sở lý luận
1. Kinh tế
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối
quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng là
nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích. Nghĩa rộng của từ này chỉ "toàn bộ các hoạt động sản
xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông" của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong một
khoảng thời gian, thường là một năm. Tuy nhiên định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch
sử các hoạt động kinh tế.
2. Thị trường
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa
các chủ thể kinh tế với nhau.
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua
bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất
định.
3. Nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông
qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trọng lịch sử từ kinh tế tự nhiên, tự

túc, kinh tế hàng hóa rồi tử kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ
khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh
nhân loại.
4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Bối cảnh trong nước
1.1. Nền kinh tế kém phát triển, khủng hoảng xã hội diễn ra nhiều năm
Từ 1975, đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Cách mạng Việt Nam
hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh
lâu dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử
thách. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội (phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước). Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đang ở
trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự túc và tự cấp.
Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế văn hoá xã
hội lạc hậu, mất cân đối. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp. Khủng hoảng kinh tế xã
hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát cao.
1.2. Nhà nước vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta
xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa phân bổ mọi

nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho
kế hoạch.
a, Đặc điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động
trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước

2


giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản
phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các
quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì
ngân sách Nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản
lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các
doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì khơng có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì khơng
bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch tốn kinh
tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
b, Các hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ bao cấp
1. Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy,
coi như một phần những thứ đó được cho khơng. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là hình thức.

2. Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức qua
hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến
chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá
vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
3. Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.
c, Đánh giá về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
Thứ nhất, về ưu điểm:

3


1. Đối với kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế cịn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng
thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế
vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong q trình
cơng nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
2. Đối với văn hóa: với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lừng lẫy của các
cuộc kháng chiến, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn mới, độc lập, tự do,
nên người dân tràn đầy hy vọng, sẵn sàng đóng góp cơng sức, tiền của của mình cho công
cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Đối với xã hội: Cơ chế này ra đời trong thời kỳ đất nước vừa bước qua những
năm tháng đau thương của chiến tranh. Tình hình xã hội cịn nhiều rối ren, phức tạp. Vì
vậy, cơ chế đã góp phần ổn định đời sống và duy trì trật tự xã hội. Lấy kinh tế quốc doanh
và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây
dựng nền kinh tế khép kín.
Thứ hai, về hạn chế:
1. Đối với kinh tế: Theo thời gian, cơ chế này ngày càng khơng phù hợp với hồn
cảnh của đất nước. Nó làm thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt

tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo
của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Chính điều này đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng.
2. Đối với văn hóa: Làm cho đội ngũ cán bộ cơng chức của các cơ quan hành hành
chính nhà nước trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch. Nhà trường chỉ là nơi thực hiện
mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến đầu
ra làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo, là mảnh đất
cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức tồn tại.
3. Đối với xã hội: Sản xuất cơng – nơng nghiệp đình đốn. Lưu thông, phân phối ách
tắc. Lạm phát ở mức ba con số. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy.
Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ 10 – 15 ngày. Ở nơng thơn, vào
lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nơng dân thiếu ăn. Tệ nạn xã hội lan rộng. Lịng dân
khơng n.

4


Như vậy, thực chất của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu. Đành rằng, những người
Cộng sản muốn xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa thì lẽ đương nhiên là phải xoá bỏ
chế độ tư hữu. Nhưng việc tiến hành cải tạo một cách ào ạt các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa, cũng như việc quá coi trọng thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
không coi trọng việc giải quyết các khâu tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối đã dẫn tới
việc khơng tìm ra cơ chế gắn người lao động với sản xuất.
Tính chủ động, sáng tạo của người lao động bị giảm đi vì mọi tư liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội phải được sử dụng theo phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch nhà
nước. Tư liệu lao động từ chỗ là tài sản riêng của người lao động bỗng chốc trở thành
những tư liệu được tập thể hoá nên đã làm suy yếu đi một lực lượng sản xuất to lớn, lợi ích
cá nhân khơng được coi trọng đúng mức, hay nói như lời của một số nhà nghiên cứu: “Ở
nước ta trước đây (thời kỳ trước đổi mới), lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người

lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì
thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.”
2. Bối cảnh quốc tế
2.1. Các cuộc cách mạng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã tạo ra
những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều q trình hiện
đại của xã hội lồi người như cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết
cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế tồn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng
của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân
tộc...
Trong thế giới ngày nay, q trình cơng nghiệp hóa của mỗi quốc gia khơng thể tiến
hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu. Chuyển đổi
số trở thành xu hướng chung được đẩy mạnh trong hầu hết các lĩnh vực như một nguồn
động lực quan trọng của phát triển. Các quốc gia trên thế giới đứng trước cơ hội hiếm có
để bứt phá. Đối với Việt Nam, đòi hỏi này trở nên bức thiết gấp bội vì nền kinh tế nước ta
đã hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới.

5


2.2. Tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ
Tồn cầu hóa địi hỏi các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
phải cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt sự phức tạp, hướng tới xây dựng một hệ thống
thủ tục hành chính tỉnh gọn, đơn giản nhưng hiệu quả... Đó là một phần quan trọng tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, chính trị xã hội diễn ra một cách hiệu quả… Đặc
biệt ngày nay yếu tố thủ tục hành chính lại càng trở nên quan trọng quyết định một phần
hiệu quả thu hút và đầu tư của các nhà đầu tư nước ngồi vào nước ta…
Tuy nhiên tồn cầu hóa cũng có những mặt trái của nó. Tồn cầu hóa với những
định chế như WTO đã hạn chế năng lực điều hành của nhà nước, khơng chỉ trong quan hệ
với bên ngồi mà cịn ở các chính sách trong nước. Hầu hết các đạo luật chúng ta thông

qua trong những năm gần đây là nhằm sửa đổi cách điều hành đất nước phù hợp với thông
lệ quốc tế - tức là theo khn mẫu chung, khơng được quyền có ngoại lệ. Hiện tượng thu
hẹp vai trò nhà nước trong điều hành kinh tế không chỉ xảy ra ở những nước chuyển đổi
như Việt Nam mà còn ở các nước phát triển.
Vấn đề gìn giữ văn hóa truyền thống và bán sắc dân tộc ngày càng trở thành mối
quan tâm của các nước và có xu hướng được coi là một nội dung của khái niệm an ninh
quốc gia. Bởi q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng giao lưu quốc tế
và tinh đồng nhất trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Các nền kinh tế mạnh ảnh hưởng
nhiều đến các nước khác.
2.3. Sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
Cuối năm 1989, chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hầu hết ở Đông Âu và Liên Xô,
kết thúc sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Đây là một tổn thất nặng nề
đối với phong trào cách mạng thế giới cũng như đối với các lực lượng tiến bộ và các dân
tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền dân tộc, hịa bình ổn định và tiến bộ xã hội.
Toàn bộ hệ thống chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước
sự thủ thách đó, nhiều nước đã tìm cách thốt ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều cách
khác nhau. Trước hết, có thể kể đến cơng cuộc “cải cách, mở cửa” với những thành tựu rõ
rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc “cải tổ” ở Liên Xô -

6


một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với những
diễn biến phức tạp, đầy sóng gió.
Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978.
Tiếp đó, cơng cuộc cải tổ khơng thành cơng dẫn tới sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu là bài học phản diện cho Việt Nam, với những kinh nghiệm “xương máu” rằng
không thể cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị.
Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) như

Singapore ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách thức và giải
pháp phát triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nơng nghiệp và có kiểu quan
hệ xã hội, văn hóa Phương Đơng. Động lực để phát triển của các nước này là phát huy nội
lực, huy động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hướng vào
xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
2.4. Cuộc khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Những thay đổi của cục diện thế giới cùng sự tác động mạnh mẽ của tồn cầu hóa
sau “chiến tranh lạnh” đã làm cho phong trào cộng sản và cộng nhân quốc tế rơi vào khủng
hoảng nặng nề. Đó là sự khủng hoảng về lý luận, về đường lối phát triển, về cơ cấu giai
cấp - xã hội, đặc biệt là cơ cấu giai cấp công nhân - lực lượng xã hội nền tảng cho phong
trào này. Phong trào còn chịu sự chống phá của các thế lực thù địch; mất đi một phần sự
tín nhiệm, ủng hộ của các lực lượng truyền thống trước đây. Các Đảng Cộng sản bị cơng
kích, chèn ép trong cơ chế đa nguyên chính trị của các chính phủ tư sản, từ đó dẫn đến
nhiều thua thiệt trong tranh cử.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế luôn chịu sự tương tác tổng hợp, đan
quyện vào nhau, vừa trực tiếp vừa gián tiếp của hàng loạt nhân tố khách quan và chủ quan.
Những nhân tố đó tác động nhiều mặt đến sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của các Đảng Cộng sản, tạo ra những tiên để cho việc xây dựng một xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa. Đành rằng, sự phục hưng của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI là một quá
trình từ từ, lâu dài, khúc khuỷu, thậm chỉ có thể xuất hiện những bước lập đi lập lại mới,

7


những quy luật cơ bản phát triển của xã hội loài người là tiền tới chủ nghĩa nhân đạo hoàn
bị - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
2.5. Sự chuyển dịch quyền lực và điều chỉnh chiến lược
Thế giới đã chứng kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời
sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa. Bước vào thế kỷ XXI,
do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung

Quốc và Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ thứ ba trên phạm vi tồn cầu. Đó
là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan
so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sự chuyển
dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các
nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển
dịch đó làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược,
tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng
đến an ninh, chính trị thế giới.
Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu. Trong bối cảnh hiện
nay, chính quyền mới của Tổng thống Biden vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân
bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường của Mỹ,
đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo Mỹ vẫn là quốc gia đặt ra luật chơi trong quan hệ
quốc tế.
Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp chiến lược, như tăng thực lực quân sự, chú
trọng phát triển lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh
hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở Châu Á – Thái
Bình Dương. Căng thẳng, cọ xát giữa Trung Quốc với Mỹ đã, đang và sẽ diễn ra tại nhiều
khu vực trên thế giới, nhưng ở Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đơng theo
hướng ngày càng gia tăng.
Ở khu vực, Nhật Bản tập trung xử lý quan hệ với Trung Quốc về kinh tế và căng
thẳng gia tăng trong tranh chấp vùng biển. Nhật Bản quan tâm tới Đơng Nam Á vì lợi ích

8


chiến lược và lợi ích kinh tế, tham gia tích cực hơn các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo
để có vai trị lớn hơn.
Ấn Độ ngày càng rút ngắn khoảng cách với Nhật Bản để vượt lên thành nền kinh tế
thứ 3 thế giới. Ấn Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, trước hết là Mỹ

và Trung Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn, đẩy mạnh chiến
lược “hướng Đông” và gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển
và bảo vệ trật tự biển.
Tình hình EU trong những năm qua cho thấy chính sách đối ngoại đang hướng vào
bên trong để xử lý các vấn đề nổi cộm như Brexit, khủng hoảng nợ cơng, khủng hoảng
nhập cư, phịng chống khủng bố quốc tế, vì vậy sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng giảm đi. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan
hệ với các đối tác ở các khu vực khác trong đó có ASEAN.
Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và khai thác vị trí địa chiến
lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. tăng
cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngồi khu vực, trong đó có EU.
Như vậy, cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước, đặc biệt
là giữa Mỹ, Trung Quốc… đang diễn ra ngày càng quyết liệt. Tình hình đó dẫn tới xu
hướng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng và chạy đua vũ trang mang tính đối đầu có
chiều hướng gia tăng. Từ đó sẽ nảy sinh những điểm nóng tại nhiều khu vực trên thế giới,
làm cho tình hình an ninh thế giới có nhiều biến động.
2.6. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu
như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên
tai, thảm họa mơi trường sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh
nguồn nước, an ninh mạng. Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó,
cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới
an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền
kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển

9


sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm
trọng hơn.

Một số vấn đề nóng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, như vấn đề hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên, Biển Đông, biển Hoa Đông... đang tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong
đó, tình hình hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên có khả năng sẽ biến động khó lường hơn do
chính quyền của Tổng thống Mỹ Giơn Bai-đơn có thể sẽ thay đổi cách tiếp cận, khơng tiếp
tục duy trì các cuộc đối thoại cấp cao như thời chính quyền tiền nhiệm.
An ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh biển không chỉ liên
quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác
như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh
chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở
thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ giữa các nước.Tiêu biểu tình hình Biển
Đơng, Trung Quốc tiếp tục gia tăng các hoạt động cả trên thực địa lẫn trên lĩnh vực chính
trị - ngoại giao, pháp lý. Trong khi đó, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn Bai-đơn tăng
cường lôi kéo đồng minh tham gia kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông. Các nước Đông
Nam Á liên quan đều kiên quyết hơn trong thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán quốc gia trên biển. Khu vực tiểu vùng sông Mê Kông tiếp tục thu hút sự quan tâm và
đầu tư nguồn lực của các đối tác. Nỗ lực của ASEAN trong việc tăng cường vai trò và gắn
kết hợp tác Mê Công với hợp tác tiểu vùng trong ASEAN sẽ mở ra triển vọng mới cho hợp
tác ở tiểu khu vực này. Việc đánh giá đúng đắn và dự báo chính xác tình hình, cục diện và
xu thế thế giới là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chỉ có đánh giá đúng xu thế thế giới
mới kết hợp hiệu quả sức mạnh thời đại, tạo nguồn lực tổng hợp để cách mạng thành cơng.
Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác
động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có
như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng
minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con đường đi tới của các dân tộc.

10


PHẦN 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA

ĐẢNG VỀ LĨNH VỰC KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hồn thiện và được chứng minh tính đúng
đắn trên thực tế khi đã giúp đất nước ta thốt khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ
tăng trưởng có lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam
đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với kinh
tế thế giới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế Việt Nam để đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để
hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong
đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, vai trò của kinh tế
tư nhân được nhìn nhận sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia. Nhận
diện và chấn chỉnh các biểu hiện chệch hướng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là vấn đề thường xuyên, không thể xem nhẹ.
Lịch sử kinh tế thế giới đã và đang ghi nhận hai sự kiện tầm cỡ quốc tế lớn lao: Thứ
nhất, sự sụp đổ Liên Xô trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX như là minh chứng cho sự
thất bại của mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ theo mơ hình Xơ-viết. Thứ hai,
cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khởi đầu năm 2008 ở Mỹ và lan tỏa toàn cầu trong thập
kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI như là minh chứng cho sự thất bại của mơ hình kinh tế thị
trường tự do tối đa kiểu Mỹ.
Nhân loại đứng trước sự lựa chọn và yêu cầu mới về sự kết hợp hài hòa bàn tay thị
trường với bàn tay nhà nước trong mơ hình kinh tế mới phù hợp với điều kiện cụ thể và đặt
mục tiêu lợi ích quốc gia lên hàng đầu theo yêu cầu phát triển bền vững của mỗi nước.
Trong bối cảnh đó, sự phát triển nhận thức của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XII
về mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như mối quan hệ và sự
kết hợp giữa Nhà nước với thị trường là cả một q trình tìm tịi, trải nghiệm, phát triển từ
thấp lên cao, ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.

11



Quá trình về sự hình thành về tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
được chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Đại hội VI, VII, VIII
- Giai đoạn 2: Đại hội IX, X, XI
- Giai đoạn 3: Đại hội XII, XIII
I. Giai đoạn thứ nhất (Từ đại hội VI đến đại hội VIII)
1. Nội dung qua các kỳ đại hội
a. Đại hội VI
Đại hội khẳng định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chỉ ra những sai lầm,
chủ quan, nóng vội muốn “đốt cháy giai đoạn” trong việc cải tạo thành phần kinh tế nhất
là đã vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, dứt khốt từ bỏ
mơ hình kinh tế phi thị trường, chỉ huy tập trung, bao cấp. Đại hội phê phán sâu sắc các
quan điểm chủ trương giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khơng tơn trọng quy luật
khách quan trong đường lối phát triển kinh tế đất nước nhiều năm trước.
Đại hội khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội.”
Bên cạnh đó, Đảng thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hoá và thị
trường, xác định rõ cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội cũng đề ra đường lối phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, trên cơ sở “củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa” và “sử dụng
mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác”, khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Đảng mới chỉ
nêu hiện trạng được hiện trạng của các thành phần, chưa phân biệt các thành phần, hình
thức tổ chức của chúng cũng như quan điểm của Đảng mới chỉ tập trung vào tháo gỡ những


12


rào cản, những yếu tố trực tiếp cản trở, kìm hãm sản xuất để giải phóng sức sản xuất; quan
điểm về phát triển nền kinh tế thị trường mới manh nha ở những ý tưởng ban đầu.
Đại hội cũng đề ra được các chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ
chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới “lấy kế
hoạch hóa làm trung tâm”, “tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế
mới”; đồng thời “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ
chế mới về quản lý”, “đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải
so sánh chi phí với hiệu quả”, “mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sơng,
cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính”, “thi hành chính sách một giá, đó là
giá kinh doanh thương nghiệp.
Vậy, tại Đại hội VI, Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị trường mà chủ
yếu nhấn mạnh đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính tập trung, quan
liêu bao cấp, gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
b. Đại hội VII
Đại hội VII của Đảng tiếp tục làm rõ chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần
và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam. Đại hội xác định “Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế”, khẳng định “phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế,
vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”, “cơ
chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các
cơng cụ khác”. Trong cơ chế đó, “thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh
tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả”.
Đại hội cịn chủ trương “từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường
hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị
trường sức lao động… xây dựng thí điểm thị trường chứng khốn khi có điều kiện”. Mở
rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế phải gắn

liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

13


Vậy, đến Đại hội VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước đã khẳng định : “Phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đảng tiếp tục khẳng định đường lối
đúng đắn của Đại hội VI và bổ sung thêm cơ chế vận hành của nền kinh tế, chỉ ra được
năm thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thực
hiện chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
c. Đại hội VIII
Đại hội VIII của Đảng đã đưa ra các chủ trương quan trọng, trong đó coi phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm, nâng
cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần kiệm để cơng nghiệp hố, tập trung xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời quan tâm xây dựng quan hệ
sản xuất. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hoá, dân chủ hố.
Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục
đổi mới và lành mạnh hố hệ thống tài chính - tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực
giải quyết việc làm và xố đói giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, tại Đại hội VIII, cụm từ “thành phần kinh tế Nhà nước” được sử dụng thay
thế cho “thành phần kinh tế quốc doanh” mà Đại hội VII công nhận: kinh tế Nhà nước giữ
vai trị chủ đạo, “sản xuất hàng hố khơng độc lập với CNXH mà là thành phần phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc chủ nghĩa xã hội
và cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”.

Vậy, đến đại hội VIII, các quan điểm của Đảng đã được thể chế hoá để phục vụ
cuộc sống của nhân dân, tuy nhiên Đảng vẫn chưa đề cập đến khái niệm kinh tế thị trường.

14


2. Tổng kết giai đoạn 1
Đại hội VI của Đảng (1986) đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thừa nhận
sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và vai trò của thị trường. Đến Đại hội VII
(1991), Đảng tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hố: “Phát triển một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (1996) đưa ra quan niệm
mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: "Sản xuất hàng hóa không đối
lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền vàn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xây dựng". Nhưng vào thời điểm Đại hội VIII vẫn chưa gọi là kinh tế thị trường.
Như vậy, từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là thời kỳ đổi
mới toàn diện, cả về cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung chính là
nhận thức đúng hơn về kế hoạch hố, phát triển kinh tế hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. Giai đoạn thứ hai (Từ Đại hội IX đến Đại hội XI)
1. Đại hội IX
Đến Đại hội IX, lần đầu tiên cụm từ “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” chính thức được đề cập tới: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa". Như vậy, lần đầu tiên sau 15 năm đổi mới, Đảng đã trình bày một cách
sáng rõ và có hệ thống về cấu trúc tổng thể của mơ hình kinh tế nước ta - đó là nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa với tính hướng đích, chế độ sở hữu, vai trò của các thành phần

kinh tế, chế độ quản lý, chế độ phân phối, vai trò của Nhà nước... Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức

15


đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển.
Đại hội IX cũng đồng thời đưa ra các chủ trương đổi mới kinh tế toàn diện:
Một là, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước, tạo bước phát triển mới, tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả hơn trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hai là, tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Thống nhất
nhận thức về sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể; xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã
hội thuận lợi, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà
nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh hợp tác xã Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi với phát triển kinh tế tập thể.
Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân. Coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực
của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với quan điểm chỉ đạo: Đất đai là tài nguyên quốc

gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của
đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các
tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo pháp luật.
Nhà nước khơng thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá nhân.
So với giai đoạn 1, Đại hội IX là một bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức
của Đảng, bước chuyển từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản
lý sang nhận thức mới, coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự

16


phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, chủ trương xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước
ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Đại hội X
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn
tiêu chí là:
- Về mục đích phát triển: Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ, văn
minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thoát khỏi nghèo và từng bước khá giả hơn”. Mục tiêu trên thể hiện rõ
mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế
để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát
triển.
- Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển nền kinh tế với nhiều hình

thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong
mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để
phát triển nhanh nền kinh tế.
Đại hội X, Đảng ta nêu rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (tồn dân, tập thể, tư nhân),
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi… Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế”. Đây là lần đầu tiên, kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư
cách là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Lần đầu tiên, vấn đề đảng
viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội X của Đảng,
khẳng định đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách

17


của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành
Trung ương. Quy định này cho thấy Đảng ta rất thận trọng nhưng mở đường cho đảng viên
kinh doanh hợp pháp. Cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân chính là huy động, phát huy
tiềm năng của mọi người dân, trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.
- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội
vì mục tiêu phát triển con người. Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa đảm bảo sự
phát triển bền vững, vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người. Trong
lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi
nguồn lực kinh tế cho sự phát triển cịn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác.

- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản
lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự
quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo mục
đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo
quyền lợi chính đáng của mọi con người.
Khác với Đại hội IX Đảng khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với 6 thành
phần kinh tế. Đại hội X, Đảng ta nêu rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (tồn dân, tập thể,
tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi… Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế”. Đây là lần đầu tiên, kinh tế tư nhân được xác định chính

18


thức với tư cách là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Lần đầu tiên, vấn
đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội X của
Đảng.
3. Đại hội XI
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Đại hội XI đã tiếp
tục xác định, làm rõ hơn nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
ở nước ta như sau: Nổi bật là những nội dung sau:
(1) Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế
thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội.
(2) Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải
được vận dụng đầy đủ, linh hoạt.

(3) Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu
cho bản thân và đóng góp cho xã hội.
(4) Về vị trí, vai trị của các thành phần kinh tế:
- Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
- Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân (chủ trương này phù hợp với mục tiêu khi kết thúc thời kỳ quá
độ). Nhưng trong chiến lược và báo cáo chính trị khơng xác định vấn đề này. Vì trên thực
tế trong 5, 10 năm tới kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa thể đóng vai trò nền tảng
được (đây là điểm mới so với Đại hội X).
- Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế (xác định là “một
trong những động lực” là khơng hề có ý coi nhẹ các thành phần kinh tế khác đối với sự
phát triển của đất nước).

19


- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển (định hướng này
thể hiện rõ tầm quan trọng của việc thu hút các nguồn lực bên ngồi cho phát triển).
(5) Phát triển kinh tế đi đơi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
(6) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.
Đại hội xác định, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cần thực hiện tốt 3 mặt sau:
Một là, phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
(1) Về sở hữu : Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh

nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản
mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách
nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
(2) Về thành phần kinh tế:
- Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nịng cốt là
hợp tác xã.
- Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một
trong những động lực của nền kinh tế.
- Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế
phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực cơng
nghệ cao.
- Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp
như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành Viên, công ty hợp danh,
hợp tác xã cổ phần.

20


×