ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN: ĐỀ TÀI 8
Họ và tên: NGUYỄN THU HÀ
Mã lớp môn học: HIS1001-3
Giảng viên: TS. Phạm Thị Lương Diệu
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT......................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG........................................................ 4
1.1 Kinh tế thị trường ..................................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm ........................................................................................... 4
1.1.2 Bản chất của kinh tế thị trường ở Việt Nam ...................................... 4
1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..................................... 6
1.3
Tăng trưởng kinh tế .............................................................................. 7
1.3.1 Khái niệm ........................................................................................... 7
1.3.2 Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế ......................................... 7
1.4 Tiến bộ xã hội........................................................................................... 7
1.4.1 Khái niệm ........................................................................................... 8
1.4.2 Các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội ................................................... 8
1.5 Công bằng xã hội ..................................................................................... 9
1.5.1 Khái niệm ........................................................................................... 9
1.5.2 Các thước đo về công bằng xã hội ..................................................... 9
1.6 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.10
CHƯƠNG II. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA XÉT DƯỚI GĨC ĐỘ TIẾN BỘ, CƠNG BẰNG XÃ HỘI. ............. 13
2.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội. ........................................................................ 13
2.2 Thực tiễn về vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay. ................................................................... 16
2.2.1 Những thành tựu đã đạt được .......................................................... 16
2.2.2 Những hạn chế ................................................................................. 18
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM .................................................................................... 20
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 24
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Tổng sản phẩm quốc gia
HDI
Chỉ số phát triển con người
WB
Ngân hàng thế giới
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển đất nước, nâng cao vị
thế của một quốc gia trên trường quốc tế. Trải qua hơn 4000 năm lịch sử với
bao thăng trầm của đất nước, Việt Nam đã đi qua rất nhiều sự thay đổi trong
nền kinh tế nước nhà.
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, bao cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ
yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, khơng triệt để và thiếu đồng bộ. Cùng với
những sai lầm về nhận thức trong mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân
dân thấp. Muốn thốt khỏi tình trạng đó con đường đúng đắn nhất chính là đổi
mới kinh tế.
Đặt dấu mốc cho sự đổi mới đó là Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986
quyết định nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới: Phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, mơ hình kinh tế thị trường là
một mơ hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó được vận dụng ở cả các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Trong q trình vận dụng mơ hình này chúng
ta đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng cũng có những khó khăn gặp
phải cần được giải quyết, trong đó có vấn đề về đảm bảo công bằng xã hội.
Tại Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh:
“Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và trong suốt quá trình phát triển”1. Tăng trưởng kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội là hai mục tiêu quan trọng của sự phát triển bền vững mà nền
kinh tế Việt Nam hướng tới. Tuy nhiên trên thực tế, đây là bài tốn nan giải mà
rất khó để đưa ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ muốn biến mục tiêu đó thành hiện
thực thì phải có vơ số điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải
quyết nhiều vấn đề xảy ra mâu thuẫn với nhau trong một mơ hình kinh tế cụ
thể.
Trong bài tiểu luận này, tác giả sẽ phân tích quan điểm trên của Đảng
Cộng sản Việt Nam và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo công bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường
vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải
đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thốt khỏi
tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong
những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh
tế: người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua
và người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
Theo quan điểm hiện nay, kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động
và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định.
Như vậy, chứng tỏ nền kinh tế thị trường ln song hành với hình thái
kinh tế - xã hội, với chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt
các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải xét đến mục đích chính trị,
mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng,
chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.
1.1.2 Bản chất của kinh tế thị trường ở Việt Nam
❖ Nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển
Thứ nhất, trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ
ngày càng tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta cịn
ở trình độ thấp, chưa đáp ứng u cầu phát triển. Trình độ cơng nghệ lạc
hậu, máy móc cũ kỹ, quy mơ sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu
quả sản xuất còn thấp, phụ thuộc nhiều vào chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn
mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc
trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự
phân công hiệp tác, chun mơn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu
hàng hóa cịn nhiều hạn chế
Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm
qua thị trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên
nó cịn ở trình độ thấp. Dung lượng thị trường nhỏ hẹp, cơ cấu và các yếu tố
kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ. Chưa có thị trường sức lao động
theo đúng nghĩa, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường
chứng khốn, thị trường khoa học và cơng nghệ cịn phát triển chậm.
4
Thứ tư, công cuộc đổi mới ở nước ta trong 30 năm qua đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Một trong những
thành tựu quan trọng nhất là kinh tế tăng trưởng khá nhanh, GDP bình quân
đầu người liên tục tăng. Song, thực tế cho thấy thu nhập quốc dân và thu
nhập bình quân đầu người cịn thấp, do đó sức mua hàng hóa cịn thấp, tỷ
suất hàng hóa chưa cao.
❖ Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong Báo cáo Đại hội VII của Đảng có khẳng định: “Chính sách kinh tế
nhiều thành phần được thực hiện nhất quán; kinh tế quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo và phải được củng cố, phát triển; kinh tế tập thể cần được đổi mới
về tổ chức và phương thức hoạt động để đạt hiệu quả nhất thiết thực chấm
áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.”2
Kinh tế nhà nước là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng quan
trọng và giải quyết những vấn đề xã hội. Nó chiếm giữ các ngành nghề mũi
nhọn, then chốt của nền kinh tế, có khả năng chi phối mơi trường xã hội và
đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế. Nó góp phần hết sức quan trọng vào
việc tạo ra sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách, tạo ra nguồn lực
đáng kể trong tay nhà nước để điều tiết quá trình phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước còn đảm bảo sức sản xuất
và hoạt động của nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ xuất, nhập khẩu đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm,
các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ mơi trường, giảm thiểu những tiêu
cực trong đời sống.
Cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để
ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu
cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng, vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan
tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh
tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, tránh nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa.
❖ Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”.
Cơ cấu kinh tế “mở” bắt nguồn từ sự phân bố không đều về tài nguyên
thiên nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế, kỹ thuật giữa các nước,
đáp ứng yêu cầu quy luật phân cơng và hợp tác lao động quốc tế. Vì vậy,
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 407
5
trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia muốn phát triển tồn diện cần phải
tích cực mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
❖ Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự
quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền
kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước
đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm này cũng chính là mơ hình kinh tế khái qt trong thời kỳ q độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mơ hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng,
làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”; có quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế;
các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất;
các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo
mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng
cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.”3
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức
nền kinh tế – xã hội dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường mà vẫn đảm bảo những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình bày tại Đại hội
XII, Hà Nội
6
cơ bản tồn tại cùng nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm
nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận
động đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ
nhất đóng vai trò “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu
quả nhóm thứ hai đóng vai trị “hướng dẫn” “chế định” sự vận động của nền
kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, sung những mặt tích cực, hạn chế
những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mơ hình chủ nghĩa xã hội.
1.3 Tăng trưởng kinh tế
1.3.1 Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng
về quy mô sản lượng của nền kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất
định. Sự tăng trưởng kinh tế là q trình ổn định mà theo đó năng lực có hiệu
quả của nền kinh tế nâng dần theo thời gian đến mức tăng của sản lượng và thu
nhập quốc dân. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên
mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống
trong tình trạng nghèo khổ.
1.3.2 Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Mức độ tăng trưởng kinh tế thường được đo lường tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP)
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản
phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian
nhất định (thường là một năm tài chính)
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính
bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân
một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm)
Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập
ròng Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho
dân số Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc dân chia cho
dân số Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế Nó bao
gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như
phúc lợi xã hội, tuổi thọ,...) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng
của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ)
1.4 Tiến bộ xã hội
7
1.4.1 Khái niệm
Tiến bộ xã hội là một khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội lồi người từ hình thái
kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn,
cả về cơ sở hạ tầng kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và các
hình thái ý thức xã hội. Lịch sử lồi người nói chung bao giờ cũng vận động
theo hướng tiến bộ, mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một nấc thang của tiến
bộ xã hội. Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát
triển toàn diện của con người. 4
1.4.2 Các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội
Thứ nhất, lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng
cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế
tăng trưởng nhanh, có chất lượng cao và bền vững.
Thứ hai, quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi mặt đời sống xã hội
được bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
trong sạch, vững mạnh. Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được tơn
trọng.
Thứ ba, văn hố, giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ được mở
mang, trình độ dân trí phát triển, quan hệ giữa con người với con người lành
mạnh, những thói hư, tật xấu và tệ nạn xã hội được đẩy lùi. Đây là thước đo trí
tuệ và đạo đức của tiến bộ xã hội.
Thứ tư, môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện.
Thứ năm, con người có điều kiện từng bước phát triển về thể chất, trí tuệ
đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc, được
cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự phát triển.
Một xã hội vận động theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội phải là một xã
hội ngày càng giàu có về của cải vật chất, đem lại cho con người cuộc sống
ngày càng đầy đủ, sung túc hơn. Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội phải là
con người, là sự phát triển tồn diện của con người
4
Ngơ Văn Dụ - Hồng Hà - Trần Xuân Giá, 2006, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Nghị quyết Đại hội
X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 142
8
1.5 Công bằng xã hội
1.5.1 Khái niệm
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử và có nội hàm khác
nhau ở các chế độ xã hội khác nhau.5 Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ yếu nói về cơng bằng xã hội thể hiện tập trung ở chế độ
phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội. Còn về chế độ phân phối trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tại Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã
chỉ rõ: “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông
qua phúc lợi xã hội”6. Ngày nay, “công bằng xã hội”được hiểu không chỉ giới
hạn ở công bằng về kinh tế mà cịn là cơng bằng trong các lĩnh vực chính trị,
pháp lý, văn hố, xã hội... Tuy nhiên, xét theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi người
khác nhau, việc tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những người trong hồn
cảnh khó khăn, đều có thể tiếp cận một cách công bằng các cơ hội phát triển,
các nguồn lực phát triển, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục, y tế,
việc làm, thông tin... mang tính an sinh xã hội ln giữ một vai trị rất quan
trọng trong thực hiện cơng bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là tạo điều
kiện để ai cũng được học hành, người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp
đỡ có cơ hội học tập, phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em
đồng bào dân tộc thiểu số; có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với những học sinh
có năng khiếu nhưng hồn cảnh sống khó khăn được theo học bậc cao. Thực
hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực y tế là bảo đảm cho sức khoẻ mọi người
dân được chăm sóc và bảo vệ, quan tâm chăm sóc sức khoẻ những người có
cơng với nước, những người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh
đó, chúng ta cần lưu ý rằng công bằng xã hội khơng có nghĩa là “cào bằng”,
thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều cho mọi người các nguồn lực và của
cải do xã hội làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh và
sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của cộng đồng.
1.5.2 Các thước đo về công bằng xã hội
Phân phối đến tập theo đầu người hoặc các nhóm dân cư: tính phân
phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong một thời
gian nhất định, khơng quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập và môi trường
sống của dân cư, mà chia đều thu nhập cho mọi thành phần dân cư. Cách tính
là người ta chia dân số thành 5 nhóm người, mỗi nhóm có 20 % dân số, sau đó
5
Ngơ Văn Dụ - Hồng Hà - Trần Xuân Giá, 2006, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Nghị quyết Đại hội
X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 144
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về các Văn kiện Đại
hội X của Đảng, Hà Nội.
9
xếp theo thứ tự từ thấp đến cao về thu nhập. Qua đó, có thể thấy mức độ cơng
bằng xã hội thơng qua việc so sánh nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất. Ở
nước ta, cứ hai năm một lần, Tổng cục Thống kê đều tiến hành điều tra và
công bố sự chênh lệch giàu nghèo theo thang này.
Chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo tổng hợp phản ánh sự
phát triển của con người trên các phương diện: sức khỏe (thể hiện qua tuổi thọ
trung bình tính từ lúc sinh); tri thức (thể hiện qua chỉ số giáo dục) và thu nhập
(thể hiện qua tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người).
HDI nhận giá trị từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là trình độ phát
triển con người càng cao, trái lại càng gần 0 nghĩa là trình độ phát triển con
người càng thấp.
Hệ số GINI cũng là thước đo phổ biến để xác định mức bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập, hệ số Gini được đưa ra nhằm lượng hoá đường cong
Lorenz. Hệ số G càng cao, mức bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng
lớn. Dựa vào những số liệu thu thập được, ngân hàng thế giới World Bank
nhận thấy rằng, mức biến động của hệ số G đối với những nước có thu nhập
thấp từ 0.3-0.5, thu nhập trung bình 0.4-0.6, thu nhập cao 0.2-0.4. Từ đó World
Bank đưa ra nhận xét, hệ số G tốt nhất thường xoay quanh 0.3
Đường cong Lorentz: mô tả chênh lệch trong phân phối thu nhập, được
biểu thị bằng một hình vng mà cạnh đáy biểu thị phần trăm cộng đồn số
ngược được nhận thu nhập và cạnh bên biểu thị phần trăm cộng dồn tổng thu
nhập được phân phối. Đường chéo của hình này biểu thị mức độ bình đẳng
tuyệt đối trong phân phối thu nhập, vì một điểm nằm trên đường chéo phản
ánh các mức phân bổ đồng đều giữa phần trăm dân số cộng dồn và phần trăm
tổng thu nhập cộng dồn. Đường cong Lorez càng gần đường bình đẳng tuyệt
đối, phân phối càng công bằng.
Chỉ số nghèo khổ: tỉ lệ phần trăm giữa số dân sống dưới mức tối thiểu
với tổng số dân. Để xác định mức nghèo khổ, người ta phải đưa ra chuẩn
nghèo, hiện nay còn tồn tại nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về đói nghèo.
Nhưng tóm gọi lại “Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện
thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện”.
1.6 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều
kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là
10
nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng
xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ
nhân quả với nhau.
Một số bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy nếu thúc đẩy nền kinh
tế tăng nhanh bằng mọi giá nhiều hậu quả trong trung và dài hạn là cái giá quá
đắt cho mục tiêu này. Tăng trưởng nóng thường dẫn đến gia tăng khoảng cách
giàu nghèo, nảy sinh nhiều mâu thuẫn giai cấp và đây chính là nguồn gốc của
những cuộc cách mạng xã hội địi hỏi sự cơng bằng, bình đẳng trong phân phối
thu nhập Việc dồn mọi nguồn lực xã hội cho tăng trưởng cũng có nghĩa là phải
hy sinh một số mục tiêu xã hội, bỏ rơi người nghèo, phát sinh xu thế làm giàu
của một số cá nhân và cuối cùng là nguy cơ khủng hoảng xã hội.
Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
luôn luôn là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các
nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối với các quốc gia là thực hiện tăng trưởng
kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hay đặt tiến
bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng trưởng
kinh tế hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội? Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công
bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên
tục theo hướng phát triển bền vững.
Mặt khác, nếu sự tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả
tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng trưởng này cũng khơng có ý nghĩa.
Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng
bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ
và cơng bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế,
kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được. Giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã hội có mối tương tác đặc biệt.
Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu không có những điều kiện kinh tế
tối thiểu được đảm bảo thì tiến bộ và cơng bằng xã hội rất khó được thực hiện.
Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện thuận lợi hơn kế hoạch định và thực
thi các chính sách về cơng bằng xã hội.
Ngược lại, tiến bộ và cơng bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế. Nhờ khả năng có thể tạo ra một xã hội hoà hợp, lành mạnh và ổn định
– một xã hội mà mối Cố gắng, mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thoả
đáng. Tiến bộ và cơng bằng xã hội có thể tạo ra một xã hội hài hồ giữa những
lợi ích cá nhân và cộng đồng. Tiến bộ và công bằng xã hội, trên thực tế, vừa
11
là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng
trưởng kinh tế.
Chính vì vậy cần phải dựa vào tiến bộ và công bằng xã hội để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đồng thời phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực
hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
12
CHƯƠNG II. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA XÉT DƯỚI GĨC ĐỘ TIẾN BỘ, CƠNG BẰNG XÃ HỘI.
2.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
nhằm tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ khơng phải là ngun nhân
kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề
xã hội. Không thể có cơng bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát
triển, cũng khơng thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền
vững trong một xã hội mà con người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp
và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp,
nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng
ln là một địi hỏi khách quan, tất yếu.
Đất nước ta gặp phải nhiều khó khăn trên con đường tăng trưởng kinh tế: lực
lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết
các vấn đề xã hội, vậy nên thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải tính đến
mục tiêu phát triển kinh tế. Để cơng bằng xã hội có nội dung đúng nghĩa và tạo
động lực phát triển kinh tế, cần dứt khốt từ bỏ phương thức phân phối bình
qn, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trơng chờ vào nhà nước; xố
bỏ lối quản lý xin – cho… Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở
nước ta phải phối hợp cùng lúc hai nhiệm vụ một là tăng cường sự hỗ trợ của
nhà nước và các tổ chức xã hội trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; hai
là tăng cường các hoạt động giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát
nghèo một cách vững chắc theo kiểu “dạy người dân cách tự câu lấy cá cho
mình”.
Thứ hai, để cơng bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với
nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những
người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói
cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau.
Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của
13
họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối
phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã
xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề
cơng bằng xã hội như vậy nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn
cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa
vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt
động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo
dục,… cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được
hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh
xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm
vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề
này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý, được xã
hội thừa nhận.
Ngồi ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập
và bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn
vốn, tài nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như
các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm…
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên
phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X7 đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh
vực. Về kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người
dân làm giàu theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thốt đói nghèo một
cách bền vững, khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách
chính sách tiền lương. Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, xây dựng và hồn thiện các chính sách
trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám
chữa bệnh, chú trọng triển khai các dịch vụ y tế cơng nghệ cao, khuyến khích
phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngồi cơng lập… Về giải quyết vấn đề xã
hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, hồn chỉnh hệ thống
chính sách bảo đảm dịch vụ cơng cộng thiết yếu, đổi mới cơ chế quản lý và
phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng… Trên từng lĩnh vực, các địa
phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước đi, mục tiêu và các giải
pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2006 - 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Hà Nội.
14
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát
huy nhân tố con người.
Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới.
Xây dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại,
trong số các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất.
Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết
vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng
lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần
thứ X, Đảng ta nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu
HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách xã hội. Như vậy,
có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng
kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết
thực.
Thứ năm, phát huy vai trị của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động xã hội là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội.
Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền
đề, nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng
kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích thơng qua những khâu trung gian;
trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà
nước.
Thị trường chỉ góp phần thực hiện cơng bằng xã hội theo cách thức riêng của
nó, cụ thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo
đó, người có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ
vậy, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, quan điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu
nhập được thực hiện không chỉ theo lao động, mà cịn theo mức độ đóng góp
các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó
phân phối thu nhập theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, và như thế
được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường chưa hồn hảo, cịn có
độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì ngun tắc phân phối của thị trường
cũng chưa phải đã là công bằng. Ngồi ra, hiện nay, ở nước ta, cịn nhiều đối
tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, cịn nhiều khu vực
dân cư các vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát
triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong điều kiện như
vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” – Nhà nước là sự can thiệp cần thiết,
bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống
15
hiến của họ cho xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường khơng làm được. Vì
vậy, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng.
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo
dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với phương châm không bao cấp tràn
lan và khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục
tiêu tổng qt. Khơng nghi ngờ gì nữa, tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội
là những tiêu chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng
kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện cơng bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có
thể làm cho công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh
hưởng tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện cơng bằng
xã hội khơng chỉ thể hiện tính nhân văn của xã hội, mà cịn có thể thúc đẩy hay
kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa chúng khơng phải là đồng thuận
và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ này ở nước ta hiện nay được phát
huy đến đâu – điều đó khơng chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nền
kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng và mức độ hiện
thực hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống.
2.2 Thực tiễn về vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2.1 Những thành tựu đã đạt được
Chủ trương thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
được phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng đã tạo nên tính năng động, sáng tạo
của các tầng lớp nhân dân, huy động được các nguồn lực để phát triển kinh tế,
nhờ đó kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh và liên tục.
Việt Nam xác định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng khẳng định chiến
lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi
người với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển, sử
dụng tốt năng lực của mình. Chủ trương đó của Đảng đã được Chính phủ thể
chế hóa thành các chính sách cụ thể. Nhờ vậy, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Việt Nam đã thực hiện về cơ bản nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thơng qua phúc lợi xã hội. Nhờ đó, cơng
16
bằng xã hội được bảo đảm. Đảng và Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách
nhằm: phát triển giáo dục, khoa học, y tế, văn hóa; thực hiện cơng bằng xã hội
trong giáo dục, trong chăm sóc sức khỏe nhân dân; trợ cấp và bảo hiểm y tế cho
người nghèo; mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ đối với người có
cơng; hỗ trợ nhà ở, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng cho học sinh,
sinh viên nghèo. Theo số liệu thống kê, “trong 5 năm đã tạo việc làm cho
khoảng 7,8 triệu người, trong đó, đi lao động ở nước ngồi khoảng 469 nghìn
người”8.
Cơng tác bảo vệ, chăm sóc sóc khỏe nhân dân được chú trọng. Trong những
năm gần đây, việc chăm sóc sóc khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ đã góp phần
hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em
dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh có tính phổ biến trước đây, đặc
biệt khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), dịch bệnh
truyền nhiễm cấp tính (virut Zika), ... Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,3 tuổi
vào năm 2015. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp tăng2. Diện tích nhà ở bình qn đầu người tăng từ 17,5m2 năm 2010
lên 22m2 năm 20159. Nhiều người dân có thu nhập thấp và tầng lớp yếu thế
được hỗ trợ về nhà ở.
Trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế, Việt Nam đã rất chú trọng hướng
vào con người, nhất là những người nghèo. Tỷ lệ giảm nghèo từ khoảng 60%
vào năm 1990 xuống còn 18,1% vào năm 2004, và kết thúc năm 2011, tỷ lệ
nghèo cả nước giảm chỉ cịn 14%. Tính bình qn trong giai đoạn từ năm 2010
- 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống
dưới 4,5% năm 2015. Năm 2008, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015. Số hộ nghèo giảm từ 29% năm
2002 xuống còn 9,5% năm 2011; chỉ số HDI tăng từ mức 0,683 năm 2000 lên
mức 0,728 năm 2011, xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của
thế giới. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người của Việt Nam xếp
129 trên tổng số 182 nước. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt
Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội khá hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình qn đầu
người cao10.
Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng
lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đồn kết tồn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính
8
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.238
9
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.239
10
Lê Thị Thanh Hà, 2016, Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99), tr.5-6.
17
trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia
đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng vững chắc.
2.2.2 Những hạn chế
Một là, việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn chưa đồng bộ và
triệt để. Do sức ép về tăng trưởng kinh tế nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít
quan tâm đến phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong
khi quy hoạch và xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội,
nhiều nơi mới chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế, chưa chú ý đúng mức thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Trên thực tế đã cho thấy, tăng trưởng nhanh (tăng
trưởng GDP năm 2015 là 6,68%) nhưng tính ổn định chưa cao; tăng trưởng
nhanh nhưng chưa bền vững; tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, ít dựa vào
nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, tăng trưởng chưa đi đôi với giảm bất
bình đẳng thu nhập và chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa
thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi, nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số. Tăng trưởng kéo theo những hệ lụy như: gây ô nhiễm môi trường xã hội,
hủy hoại mơi trường tự nhiên, ...
Hai là, văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Đầu
tư cho phát triển văn hóa ít hiệu quả. Một số chính sách chưa phù hợp với thực
tiễn nhưng chậm được sửa đổi; hệ thống thiết chế văn hóa chưa đồng bộ, chưa
hồn chỉnh, dẫn đến nhiều di sản văn hóa, cả vật thể và phi vật thể khơng được
giữ gìn, tơn tạo. Tình trạng mất dân chủ, cửa quyền, quan liêu, xuống cấp về tư
tưởng, đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Tệ nạn xã hội và tội
phạm (nhất là trong lớp trẻ) gia tăng đáng lo ngại. Chưa khắc phục được sự yếu
kém trong quản lý nhà nước về văn hóa. Cuộc đấu tranh ngăn ngừa văn hóa
phẩm độc hại (nhất là trên mạng internet) cịn bất cập. Văn học, nghệ thuật cịn
ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật. Một số cơ quan báo chí chưa
thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích.
Ba là, số người nghèo, thất nghiệp cịn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc làm ở nơng thơn cịn cao. Xóa đói, giảm nghèo
chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cịn nhiều. Văn kiện Đại hội XII của Đảng
nêu: “Nguy cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng,
nhóm dân cư cịn lớn. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất
là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên đến 50%).
Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, chưa đồng
bộ, hiệu quả chưa cao và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo”
18
. Khoảng cách chênh lệch giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu
nhập thấp ngày càng gia tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không
được chia sẻ một cách đồng đều, mà lại có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc
sống khá giả hơn.
11
Bốn là, khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân còn hạn chế.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng
nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Chất lượng khám,
chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng
q tải bệnh viện cịn chậm 12.Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí
và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe và
các dịch vụ khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành
thị. Tuổi thọ bình quân tuy tăng cao, nhưng chất lượng sống của người dân chưa
cao. Trong xã hội, với khoảng 20% số hộ thu nhập cao nhất thì xuất hiện ngày
càng nhiều những biểu hiện làm giàu bất chính (như: tham nhũng, bn lậu,
làm ăn phi pháp), gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội. Tham nhũng xảy ra ở hầu hết các ngành, các cấp, thậm chí xảy ra
ngay trong các cơ quan có chức năng chống tham nhũng13.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.256
12
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.257
13
Lê Thị Thanh Hà, 2016, Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99), tr.6-7
19
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, hồn thiện mơ hình tổng qt giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến
2030. Mơ hình phát triển kinh tế Việt Nam lựa chọn trong giai đoạn tới tiếp tục
phải là mơ hình “gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải
thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phịng, an
ninh”14. Nội dung chính của mơ hình này là: thực hiện việc kết hợp tăng trưởng
kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu khi xây dựng, thực thi chính
sách kinh tế - xã hội và trong tồn bộ tiến trình phát triển; kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội và mơi trường.
Thứ hai, hồn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển nhanh
và bền vững. Cụ thể là: tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường; phát
triển đồng bộ và vận hành thông suốt các yếu tố, các loại thị trường trong nước;
mở rộng, đa dạng hóa thị trường ngoài nước; phát huy đồng bộ các thành phần
kinh tế; đề cao vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế, nhằm huy động tốt nhất mọi nguồn lực trong dân. Tập trung thực hiện
đổi mới mơ hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là thực hiện
thành công ba khâu đột phá chiến lược; thực hiện mô hình tăng trưởng dựa trên
năng suất, hiệu quả và lợi thế so sánh, hướng tới mục tiêu dài hạn, bền vững,
hiệu quả và vì con người; hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về an sinh xã hội; đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là ở các vùng đặc
biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng
bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa
lao động đi làm việc ở nước ngồi; thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của
Liên Hợp Quốc, lồng ghép hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành, từng địa phương.
Thứ ba, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nội dung
cụ thể của giải pháp này là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, an tồn để nền kinh tế vận hành thơng
suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do
sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế; thực thi chính sách phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; tạo điều kiện thuận lợi cho phát
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 281
20
triển y tế ngồi cơng lập, thí điểm hình thành cơ sở khám, chữa bệnh theo hình
thức hợp tác cơng - tư và mơ hình quản lý bệnh viện như doanh nghiệp cơng
ích; đẩy nhanh tiến độ thực hiện bảo hiểm y tế tồn dân; khuyến khích, hỗ trợ
cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, nghệ thuật, ...
Thứ tư, hồn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân phối
lại phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Chú
trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc
lợi xã hội. Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, các công cụ điều tiết,
chính sách phân phối để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công
bằng xã hội để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Xây dựng
và hồn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù
hợp với tăng năng suất lao động. Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở theo
lộ trình phù hợp, bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động đang làm việc,
cũng như người đã nghỉ hưu theo chế độ.
Thứ năm, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn
diện. Nội dung cụ thể của giải pháp này là: xây dựng mơi trường văn hóa, đạo
đức lành mạnh; khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam; ngăn
chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để
gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa và phát triển con người; phát triển văn hóa
với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo;
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trị của thơng tin
truyền thơng; phát triển, hồn thiện, sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa; thu
hẹp khoảng cách chênh lệch về hạ tầng văn hóa giữa thành thị và nông thôn,
đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa; giảm sự chênh lệch về mức hưởng
thụ văn hóa giữa các giai tầng, các nhóm xã hội.
Thứ sáu, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân chủ,
khoa học, thượng tôn pháp luật. Cùng với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường,
quản lý phát triển xã hội hợp thành khâu trung tâm của chiến lược phát triển
đất nước, hướng tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Quản lý phát triển
xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mơ hình phát triển xã hội hợp lý, đặt
trọng tâm vào việc mở rộng giai tầng xã hội có thu nhập thấp trên cơ sở không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ bảy, cải thiện và bảo vệ môi trường Tổ chức làm tốt quy hoạch và siết chặt
kỷ luật thực hiện theo quy hoạch phát triển công nghiệp. Các khu công nghiệp
phải nằm xa các khu dân cư và phải có cơng trình xử lý chất thải trước khi đưa
ra bên ngoài.
21
Bảo vệ tài nguyên rừng, đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng và thực hiện các
hình thức khốn thích hợp cho hộ gia đình và tập thể theo Luật Đất đai và Luật
Bảo vệ và phát triển rừng. Hình thành cho được ý thức giữ gìn vệ sinh chung
và bảo vệ môi trường trong dân cư cả ở đô thị và nông thôn, coi đây là một yêu
cầu sơ đẳng của nếp sống có văn hố, trước hết là của đảng viên, đồn viên
thanh niên và cơng chức nhà nước.
Thứ tám, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Nâng
cao chất lượng dân số, trước hết ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số với
hai biện pháp cơ bản là giáo dục và chăm sóc sức khoẻ.
22
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên chúng ta có thể khẳng định rằng muốn bảo đảm
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế song hành với việc thực hiện được định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường con đường duy nhất
chính là phát triển kinh tế trên cơ sở dựa vào công bằng xã hội, đồng thời kết
hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển.
Bài nghiên cứu đã phân tích rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Đi theo những quan điểm đó và
đặt trong thực tiễn hiện nay, tác giả đã đưa ra 8 giải pháp tối ưu nhất cho Đảng
và nhà nước trong công tác xây dựng và đảm bảo công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên dựa vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, Đảng ta cần đưa ra
những chính sách phù hợp và linh hoạt để vừa đảm bảo được mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, vừa thực hiện được tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
23