Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt. Vận dụng để làm rõ giải pháp nhằm phục hồi ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.54 KB, 17 trang )

Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn
Liên hệ Zalo: 0389632001

Học phần: Kinh tế chính trị
Đề tài: DỊCH VỤ VÀ MỘT SỐ HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT. VẬN DỤNG ĐỂ
LÀM RÕ GIẢI PHÁP NHẰM PHỤC HỒI NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID 19

Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Mã sinh viên:

Hà Nội, ngày tháng năm 2022


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn
Liên hệ Zalo: 0389632001

MỤC LỤC


3

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, có nhiều tranh luận xung quang học thuyết giá trị của Mác
khi mà ngày nay, có một số sản phẩm đặc biệt được đem ra trao đổi, mua bán
trên thị trường như: dịch vụ, quyền sử dụng đất, thương hiệu, chứng khoán,…
Đây là những sản phẩm mà ở thời của Mác, ông chưa có điều kiện để nghiên
cứu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, các học thuyết, những lý luận của ông vẫn


còn giá trị đến hiện nay và được vận dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội.
Giai đoạn gần đây, đại dịch Covid – 19 gây rất nhiều thiệt hại về tính
mạng con người, vật chất, tinh thần và ảnh hưởng đến các ngành nghề, nền
kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Với
những tiềm năng về danh lam thắng cảnh, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,
những di tích lâu đời gắn với lịch sử dựng và giữ nước hàng ngàn năm, Việt
Nam chúng ta có một ngành du lịch rất phát triển. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng
của đại dịch đã làm cho ngành du lịch nước ta bị “lắng xuống” rất nhiều, gây
thiệt hại lớn cho nền kinh tế nước nhà.
Du lịch là một ngành dịch vụ được nghiên cứu trong học thuyết của
Mác. Để chứng minh những lý luận của Mác vẫn còn rất giá trị đến hiện tại và
đóng góp vào cơng cuộc khôi phục sự phát triển của ngành dịch vụ du lịch
nước ta, em lựa chọn chủ đề: “Dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt. Vận dụng
để làm rõ giải pháp phục hồi ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
covid -19” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: làm rõ những lý luận về dịch vụ và hàng hóa đặc
biệt và vận dụng lý luận trên để đưa ra một số giải pháp để phục hồi ngành du
lịch Việt Nam.


4

Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích lý luận về dịch vụ và một số hàng hóa
đặc biệt trong nghiên cứu của C.Mác về hàng hóa; nêu thực trạng ngành du
lịch Việt Nam trước và sau khi ảnh hưởng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid –
19; vận dụng đưa ra giải pháp phục hồi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Dịch vụ và một số loại hàng hóa đặc biệt: quyền sử dụng đất; thương
hiệu; chứng khốn, chứng quyền và một số giấy tờ có giá.
- Ngành du lịch Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dụng: lý luận về dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt trong học
thuyết của Mác; ngành du lịch Việt Nam.
- Về không gian: lãnh thổ đất nước Việt Nam
- Về thời gian: Trước, trong và sau khi đại dịch Covid – 19 bùng phát.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát khoa học,
phương pháp thực nghiệm khoa học và phân tích tổng hợp kinh nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp phân tích và tổng hợp
lý thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nhằm nâng cao kiến thức về các lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, chứng minh tính thời sự và vận dụng để đưa ra giải pháp nhằm phục
hồi ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid – 19.


5

II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ VÀ MỘT SỐ HÀNG HÓA ĐẶC
BIỆT
1.1. Dịch vụ
Dịch vụ thực chất cũng là sản phẩm của lao động, cũng thỏa mãn nhu
cầu của người mua và cũng được trao đổi, mua bán trên thị trường. Giá trị sử
dụng của dịch vụ là công dụng đáp ứng nhu cầu của người mua, còn giá trị
của dịch vụ cũng được quyết định bởi hao phí lao động của người tạo ra dịch
vụ.

Trong thời đại của Mác nghiên cứu, dịch vụ còn chưa phát triển mạnh
và mẽ và đa dạng như ngày nay. Cho nên trong lý luận của mình, C.Mác
chưa có điều kiện để trình bày dịch vụ với tư cách là hàng hóa một cách thật
sâu sắc. Điều này làm nhiều người lầm tưởng rằng ơng chỉ biết tới hàng hóa
vật thể. Tuy nhiên, theo C.Mác, dịch vụ, nếu đó là dịch vụ cho sản xuất thì nó
thuộc khu vực hàng hóa cho sản xuất, cịn dịch vụ cho tiêu dùng thì nó thuộc
phạm trù hàng hóa cho tiêu dùng. Về bản chất, dịch vụ cũng là một loại hàng
hóa.
Khác với hàng hóa thơng thường. Thứ nhất, dịch vụ là hàng hóa vơ
hình, việc đánh giá dịch vụ cũng mang tính chất tương đối, chủ quan. Thứ hai,
phần lớn dịch vụ không thể cất trữ được. Chẳng hạn dịch vụ dạy học truyền
thống thì khơng cất trữ được nhưng hiện nay với “sản phẩm số”, các khóa học
online, người giáo viên có thể dạy, lưu trữ và bán cho người học, người học
có thể mua và sử dụng dịch vụ dạy học bất cứ lúc nào. Đặc biệt, với sự phát
triển của công nghệ blockchain (cơ sở dữ liệu phân cấp thông tin được mã
hóa), NFT (tài sản khơng thể thay thế - đơn vị dữ liệu trên sổ cái kỹ thuật số
blockchain), crypto (tài sản kỹ thuật số), bitcoin (tiền ảo), chúng ta có thể tạo,
lưu trữ và bán bất cứ sản phẩm, dịch vụ gì mà chúng ta muốn và mọi người có
nhu cầu mua: phim, ảnh, âm thanh, bài nhạc,…thơng qua việc “số hóa” mà


6

không sợ bị đạo nhái, sao chép. Theo nhận định của em, đây sẽ là xu hướng
mua bán, trao đổi hàng hóa chính trong tương lai.
Bên cạnh đó, việc sản xuất và tiêu dùng hàng hóa phải diễn ra đồng
thời. Trong điều kiện ngày nay, do sự phát triển của phân công lao động xã
hội dưới tác động của sự phát triển khoa học công nghệ, dịch vụ ngày càng có
vai trị quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu văn minh của con người.
1.2. Một số hàng hóa đặc biệt

Thế giới hàng hóa rất đa dạng, ngồi những loại sản phẩm là kết quả
của lao động, có đầy đủ các thuộc tính mà Mác nêu ra thì cịn có những sản
phẩm mang đặc tính hàng hóa nhưng rất khác với hàng hóa thơng thường.
Khi xuất hiện hiện tượng trao đổi, mua bán các hàng hóa đặc biệt như
vậy, làm cho nhiều người ngộ nhận cho rằng lý luận về hàng hóa của C.Mác
khơng cịn phù hợp. Thực chất do họ chưa phân biệt được hàng hóa và những
yếu tố có tính hàng hóa. Dưới đây là những phân tích về một số loại hàng hóa
đặc biệt.
1.2.1. Quyền sử dụng đất
Về bản chất, quyền sử dụng đất cũng được coi là hàng hóa, nó được
trao đổi, mua bán trên thị trường bất động sản. Khi thực hiện mua, bán quyền
sử dụng đất là con người trao đổi với mua quyền sử dụng đất chứ không phải
mua bán đất đai.
Giá trị sử dụng của hàng hóa quyền sử dụng đất là để làm nhà, để mở
cửa hàng, cho thuê,…Còn về mặt giá trị của quyền sử dụng đất, tức là hao phí
lao động của những người khai hoang, lấn biển để phát hiện ra những mảnh
đất mới. Tuy nhiên, ở Việt Nam và rất nhiều quốc gia, đất đai là thuộc sở hữu
nhà nước, nên người ta chỉ có quyền sử dụng đất.
Giá cả của quyền sử dụng đất phụ thuộc vào giá trị và quan hệ cung
cầu. Giá cả của quyền sử dụng đất khơng trực tiếp do hao phí lao động tạo ra
mà chịu sự tác động của nhiều yếu tố: giá trị của tiền, quan hệ cung cầu, đầu


7

cơ, sự khan hiếm, tốc độ đơ thị hóa, gia tăng dân số,…Ví dụ, một dự án làm
đường, xây dựng khu du lịch, khách sạn có thể làm giá cả quyền sử dụng đất
tăng lên nhanh chóng.
Xét về bản chất, mua bán quyền sử dụng đất không thể trở nên giàu có.
Tiền trong trường hợp mua bán này là phương tiện thanh tốn, khơng phải là

thước đo giá trị.
1.2.2. Thương hiệu (danh tiếng)
Thương hiệu cũng được coi là một loại hàng hóa, khi nó có giá trị sử
dụng là cơng dụng, là tính hữu ích và bản thân nó cũng có giá trị bởi để tạo ra
thương hiệu thì người ta cũng phải bỏ ra hao phí lao động để làm việc, rèn
luyện để được cơng nhận mức uy tín nhất định. Chẳng hạn, cầu thủ nổi tiếng
như Neymar, Ronaldo, Messi là những cầu thủ bóng đá có thương hiệu, được
định giá rất cao và để xây dựng được thương hiệu cá nhân, họ phải nỗ lực rèn
luyện, tức là bỏ ra hao phí lao động để xây dựng uy tín cá nhân. Giá cả trong
các vụ mua bán các cầu thủ này vừa phản ánh giá trị hoạt động lao động đá
bóng, vừa phản ánh yếu tố tài năng, vừa phản ánh quan hệ khan hiếm, lợi ích
kỳ vọng của câu lạc bộ mua.
Thương hiệu là hàng hóa vơ hình, nó khác với hàng hóa vật lý thơng
thường nên chỉ có thể đánh giá chất lượng giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hóa này qua cảm nhận, qua sự kỳ vọng. Thương hiệu có giá cả, nhưng giá cả
chủ yếu quyết định bởi quan hệ cung cầu hoặc sự kỳ vọng chứ không được
quyết định bởi giá trị, là hao phí lao động tạo ra thương hiệu.
1.2.3. Chứng khốn, chứng quyền và một số giấy tờ có giá
Ngày nay, chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) do các công ty, doanh
nghiệp cổ phần phát hành, chứng quyền do các cơng ty kinh doanh chứng
khốn chứng nhận và một số loại giấy tờ có giá (ngân phiếu, thương phiếu)
cũng có thể mua bán, trao đổi và đem lại lượng tiền với hơn cho người mua,
bán.


8

Trên thực tế, chúng cũng được coi là hàng hóa, được mua bán trên thị
trường chứng khốn.Chúng có giá trị sử dụng là mang lại thu nhập cho người
sở hữu chứng khốn và cổ đơng lớn có thể chi phối hoạt động của tổ chức,

doanh nghiệp. Về mặt giá trị, khi mua chứng khốn, hình thái giá trị tiền sẽ
chuyển sang hình thái giá trị chứng khốn, tức là bản thân chứng khốn có
hao phí lao động kết tinh (ở trạng thái gián tiếp). Tuy nhiên, chứng khoán,
chứng quyền được xếp vào loại hàng hóa đặc biệt vì chúng là loại yếu tố phái
sinh, được phát hành ở một lượng nhất định và các giao dịch chủ yếu trên thị
trường thứ cấp (thị trường chứng khoán).
Giá cả của chứng khoán sẽ lên xuống theo quan hệ cung cầu và theo sự
kỳ vọng của nhà đầu tư. Sự giàu có của các cá nhân có được do số lượng tiền
tăng lên sau mỗi lần giao dịch thực chất là sự chuyển tiền từ người khác vào
túi của họ. Xã hội cần phải dựa trên một nền sản xuất có thực mới có thể giàu
có được. Tồn thể xã hội khơng thể giàu có được bằng con đường duy nhất là
bn bán chứng khoán, chứng quyền.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH ĐẠI DỊCH COVID – 19
2.1. Ngành du lịch Việt Nam trước khi đại dịch Covid – 19 xuất hiện
Du lịch Việt Nam được xem là một ngành dịch vụ mũi nhọn với nhiều
tiềm năng, đa dạng và phong phú. Trước đại dịch, năm 2019 là năm thành
công của ngành du lịch Việt Nam, ngành du lịch đóng góp đến 9,2% vào GDP
cả nước; tạo ra 2,9 triệu việc làm, trong đó có 927 nghìn việc làm trực tiếp.
Tính chung trong giai đoạn 2015 - 2019, ngành du lịch đạt tốc độ tăng trưởng
rất cao với 22,7%1. Nỗ lực và thành tựu của du lịch Việt Nam đã được thế giới
đánh giá cao, Tổ chức Du lịch thế giới (UNTWO) xếp Việt Nam đứng thứ 6
trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới 2. Trong

1 Theo thống kê của Tổng cục Du lịch.
2 Theo dữ liệu điều tra bởi UNTWO. Nguồn: />

9

năm 2019, du lịch Việt Nam cũng đạt nhiều giải thưởng danh giá mang tầm

vóc châu lục và thế giới.

Chỉ tiêu

Tổng số
1. Đường
hàng khơng
2. Đường
biển
3. Đường bộ

Ước tính

9 tháng

tháng 9/2019

năm 2019

(Lượt khách)

(Lượt khách)

1.561.274

Tháng
9/2019 so
với tháng
trước(%)


12.870.506
103,2
Chia theo phương tiện đến

Tháng

9 tháng

9/2019 so

2019 so

với tháng

với cùng

9/2018

kỳ năm

(%)
128,8

trước (%)
110,8

1.298.337

10.189.039


109,5

131,8

108,3

17.824

189.605

125,9

220,3

99,4

111,7

123,5

245.113

2.491.862
78,4
Chia theo một số thị trường
1. Châu Á
1.327.814
10.156.165
108,2
2. Châu Mỹ

61.768
737.793
89,6
3. Châu Âu
134.278
1.612.850
74,4
4. Châu Úc
33.204
329.248
104,8
5. Châu Phi
4.210
34.450
107,7
Bảng 1: Số lượng khách hàng quốc tế đến du lịch Việt Nam

133,5
113,3
105,6
99,7
133,5
9 tháng đầu

112,5
106,8
105,3
98,6
110,8
năm 2019.


Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tiếp nối đà tăng trưởng đó, ngành du lịch bước vào năm 2020 đón lượng
khách quốc tế kỷ lục trong tháng 1, đạt 2 triệu lượt, tăng 32,8% so với cùng
kỳ 2019. Du lịch Việt Nam đã kỳ vọng vào một năm thành cơng, vượt chỉ tiêu
đón 20 triệu lượt khách quốc tế năm 20201. Tuy nhiên, đại dịch Covid – 19 đã
nhanh chóng lan rộng và “đóng băng” ngành du lịch Việt Nam.

1 Theo Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị.


10

2.2. Ngành du lịch Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid – 19

2.2.1. Đợi dịch thứ nhất (23/1 – 24/7/2020)
Đợi dịch đầu tiên bùng phát diễn ra vào đúng mùa cao điểm du lịch của
khách quốc tế và cũng là mùa du lịch lễ hội, tâm linh của khách nội địa sau
dịp nghỉ lễ Tết Nguyên đán 2020, vì vậy, du lịch là ngành chịu tác động đầu
tiên, kéo dài và chịu thiệt hại nặng nề nhất qua bốn đợt dịch.
Theo thống kê, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 3/2020
giảm mạnh 68,1% so với cùng kỳ năm 2019 và giảm 63,8% so với tháng 2.
Đặc biệt, 2 thị trường khách quốc tế lớn nhất của du lịch Việt Nam đó là
Trung Quốc và Hàn Quốc đều giảm 91,5% và 91,4%. Tổng lượt khách của cả
quý I/2020 đạt 3,7 triệu lượt khách, giảm hơn 18% so cùng kỳ năm trước 1.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong kỳ ước đạt 126.200 tỷ đồng, tương
đương 10% tổng doanh thu hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước, giảm
9,6% so với quý I/2019. Các hãng hàng không của Việt Nam đã dừng tất cả
các chuyến bay đến Trung Quốc trong khi khách du lịch Trung Quốc vốn là

nguồn khách du lịch lớn nhất tại Việt Nam. Hàng triệu lao động trong ngành
du lịch bị giảm thu nhập, hoặc bị cắt giảm do thiếu việc làm, thiệt hại cho
ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn này lên đến 7,7 tỷ USD2.
Sau đợi dịch thứ nhất, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạng hoạt động du lịch
nội địa và mở cửa du lịch quốc tế, thực hiện các chương trình kích cầu du lịch
nội địa như “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam”, “Du lịch Việt Nam –
Điểm đến sáng tươi”,…Các doang nghiệp du lịch Việt cũng thúc đẩy hoạt
động bằng cách đưa ra các dịch vụ, sản phẩm hấp dẫn để thu hút du khách.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống, du lịch trong nước đã có những tín hiệu khởi
sắc.

1 Theo Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I/2020.
2 Theo Tổng cục Du lịch


11

2.2.2. Đợt dịch thứ hai (25/7/2020 – 27/1/2021)
Sau đợi dịch đầu tiên, ngành du lịch Việt Nam lại bị ảnh hưởng từ sự
bùng phát dịch bệnh lần thứ hai tại một số địa phương trên cả nước. Một số
địa phương mạnh về du lịch khơng có ca bệnh nhưng vẫn gặp khó khăn khi
dịch bệnh bùng phát, các doanh nghiệp du lịch chưa kịp phục hồi sau đợt dịch
thứ nhất thì đã phải tiếp tục hứng chịu đợt dịch thứ hai, các gói kích cầu du
lịch bị “đóng băng” vì lượng khách hủy tour tăng đột biến.
Để phục hồi hoạt động du lịch, Chính phủ lại tiếp tục phát động phong
trào du lịch, các doanh nghiệp tranh thủ thời gian để điều chỉnh chiến lược
kinh doanh, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ,…Sự điều chỉnh
này đã bước đầu mang lại hiệu quả cho thị trường du lịch nội địa. Theo thống
kê, du khách quốc tế trong tháng 11/2020 ước tính đạt 17,7 nghìn lượt người,
tăng 19,6% so với tháng trước nhưng giảm 99% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 11 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3,8
triệu lượt người, giảm 76,6% so với cùng kỳ năm trước1.
2.2.3. Đợt dịch thứ ba (28/1 – 26/4/2021)
Đợt dịch này bùng phát tại Hải Dương và bùng phát ở một số địa
phương lân cận. Tuy nhiên, nhờ có kinh nghiệm chống dịch từ hai đợt dịch
trước, thực hiện phong tỏa, cách ly xã hội nghiêm ngặt thì dịch bệnh tại Hải
Dương sớm được dập tắt. Ngày 8 tháng 3, việc tiêm vắc - xin Covid – 19 ở
Việt Nam được bắt đầu.
Nhìn chung, đợt dịch này có ảnh hưởng đến ngành du lịch của tỉnh Hải
Dương nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung nhưng khơng nặng nề do dịch
đã nhanh chóng được dập tắt.
2.2.4. Đợt dịch thứ tư (27/04/2021 – nay)
Đợt dịch thứ tư có sự xuất hiện của biến thể Delta và Omicron, gây
triệu chứng nặng và tốc độ lây lan rất lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ các tỉnh trên
cả nước, có lúc lên đến 180.000 ca/ngày. Ngày du lịch Việt Nam có lẽ đã
1 Theo Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11/2020.


12

“chạm đáy” khi khơng thể thốt khỏi tình trạng khủng hoảng chung trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tưởng rằng du lịch bắt đầu có hi vọng, có thể
hoạt động trở lại sau đợt bùng phát dịch thứ ba thì “siêu dịch” lại bất ngờ ập
tới, dập tắt mọi hi vọng mới le lói của những người làm du lịch Việt Nam.
Giai đoạn đầu, dịch bùng phát tại Đà Nẵng, Hồ Chí Minh – là hai thành
phố có ngành du lịch rất phát triển, đây là thời điểm số người tử vong do vi –
rút đạt cực đỉnh, làn sóng dịch Covid – 19 thứ tư đã khiến trên 23.270 người
tử vong, trong đó số người chết ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 74% 1. Giai
đoạn này các địa phương trên cả nước thực hiện cách ly xã hội, hạn chế tối đa
các hoạt động vui chơi, giải trí, tập trung đơng người nên các khu du lịch đều

đóng cửa, ngành du lịch giai đoạn này “chạm đáy” trong một thời gian dài.
Hiện nay, dịch bệnh dần được kiểm sốt, Chính phủ đang xem xét thực
hiện bình thường hóa, coi Covid là “bệnh đặc hữu”. Đây cũng là thời điểm
ngành du lịch “rục rịch” chuyển mình để tiếp tục phát triển. Sau dịch sẽ còn
đặt ngành du lịch vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại giữa các công
ty du lịch, lữ hành, khách sạn, nhà hàng,…Ngành du lịch Việt Nam thật sự
cần phải có những “bước đi” thận trọng, những giải pháp hữu hiệu, hợp lý
trong thời gian tới thì mới có hi vọng vào sự phục hồi và tăng trưởng lâu dài
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CỦA MÁC ĐỂ ĐƯA
RA GIẢI PHÁP PHỤC HỒI NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID - 19
Du lịch ở Việt Nam đóng góp lớn vào GDP đất nước với những tiềm
năng to lớn từ thiên nhiên, lịch sử. Theo lý luận của C.Mác, du lịch cũng là
một dịch vụ bởi đây là sản phẩm của lao động, cũng thỏa mãn nhu cầu của
người mua và cũng được trao đổi, mua bán trên thị trường. Giá trị sử dụng
của dịch vụ du lịch là để đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, vui chơi…

1 Theo báo Tiền Phong. Nguồn: />

13

của người mua, còn giá trị của dịch vụ du lịch được quyết định bởi hao phí lao
động của những người, cá nhân tạo ra dịch vụ du lịch đó.
Hiện nay, sau thời gian dài “chạm đáy”, dịch vụ du lịch Việt Nam đang đứng
trước thách thức lớn để khôi phục lại sự phát triển từng có. Vận dụng lý luận
về dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt của C. Mác, dưới đây em đưa ra một
số giải pháp nhằm phục hồi ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
Covid – 19.



14

3.1. Phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao nhu cầu dịch vụ du lịch
Phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện tiêu quyết để phát triển một nền
du lịch Việt Nam bền vững. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được bảo đảm sẽ nảy sinh nhiều nhu cầu nhằm thỏa mãn về mặt tinh thần
hơn, các dịch vụ: du lịch, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp mới có
điều kiện phát triển.
Khi nhu cầu về các hoạt động du lịch tăng lên thì thị trường du lịch sơi
động, thúc đẩy sự phát triển cho tác hoạt động môi giới du lịch. Bên cạnh đó,
du lịch cịn là một ngành kinh tế tổng hợp, liên hệ chặt chẽ với các ngành
khác như giao thơng vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn,…Khi đi du lịch,
du khách có đầy đủ nhu cầu về phương tiện đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí,
nhu cầu tiêu dùng,, mua hàng hóa lưu niệm,…
3.2. Áp dụng công nghệ hiện đại vào hỗ trợ, thúc đẩy phát triển du lịch
Ngày nay, công nghệ hiện đại được áp dụng vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, là yếu tố cốt lõi của thời đại 4.0. Bất kể ngành nghề gì có sự áp
dụng của khoa học kĩ thuật đều mang lại hiệu quả lao động rất cao bởi theo
C.Mác thì số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã
phát hiện ra được hết, mà được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển
của khoa học – kỹ thuật.

Ảnh 1: Các công ty lữ hành tại Việt Nam nhanh chóng
bắt kịp xu hướng chuyển đổi số. Nguồn: Báo Nhân dân


15

Một số giải pháp cơng nghệ có thể áp dụng với du lịch Việt Nam như:
ứng dụng di động ICT (giúp tiết kiệm chi phí cuộc gọi quốc tế), ứng dụng

tương tác AR (giúp du khách truy cập và tìm kiếm địa điểm, thông tin liên
quan đến khu du lịch), khách sạn 4.0 (các thao tác điều chỉnh điện, nước, mở
cửa được thực hiện qua smartphone mang đến sự thích thú, thoải mái cho du
khách; phát triển nhiều phần mềm, tiện ích thơng minh trong du lịch để dễ
dàng đặt phòng, đặt xe,…Một số phần mềm du lịch ở Việt Nam được đánh giá
cao như “Vibrant Ho Chi Minh City”, “Sai Gon Bus”, “Da Nang Tourism”,
“Go! Đà Nẵng”,… Song các địa phương cần phải xây dựng được cơ sở hạ
tầng cơng nghệ thơng tin vững chắc thì việc áp dụng cơng nghệ để phát triển
du lịch mới là hợp lí.
3.3. Gây dựng các thương hiệu du lịch uy tín
Đảng, Chính phủ cần lãnh đạo các cơ quan liên quan để đẩy mạng công
tác tuyên truyền, quảng bá thiên nhiên, con người Việt Nam đến bạn bè quốc
tế. Xây dựng hình ảnh, thương hiệu của đất nước trên thế giới là một quá trình
lâu dài và do nhiều yếu tố, nhiều cấp, nhiều ngành tác động tới. Nói đến du
lịch Trung Quốc là nói tới Vạn Lý tường thành, đến Campuchia là phải ghé
qua Angco Vat, nói đến Nhật Bản là du khách hình dung ra ngay núi Phú Sĩ.
Chúng ta cần phải xây dựng thương hiệu du lịch của mình thông qua những
danh lam thắng cảnh đất nước như vịnh Hạ Long, hang Sơn Đng,…
Đối với các cơng ty lữ hành, tập đồn du lịch thì thương hiệu là vũ khí
cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Thơng
qua việc tạo ra hình ảnh của sản phẩm và doanh nghiệp tạo ra danh tiếng, uy
tín cho sản phẩm, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường. Cần
phải có nhiều phân khúc du lịch, nhiều loại hình đa dạng, nhiều chương trình,
phong trào kích cầu du lịch để phù hợp với nhu cầu du lịch ngày càng phong
phú của du khách.
Đối với cấp độ địa phương, chính quyền địa phương cần dẹp bỏ các tệ
nạn xã hội mang lại tâm lí an toàn cho du khách; người dân địa phương du


16


lịch cũng cần thể hiện được bản sắc riêng thông qua ẩm thực, lối sống, con
người,…Thương hiệu của du lịch phụ thuộc nhiều vào địa phương du lịch đó.
3.4. Đầu tư chứng khoán với ngành du lịch
Sau bốn đợi dịch Covid - 19 kéo dài, các cơng ty, tập đồn du lịch đã
thực sự “chạm đáy”, nhiều công ty không còn vốn đầu tư, bị phá sản, phải rút
giấy phép kinh doanh, nhiều người lao động trong ngành du lịch bị cắt giảm,
…làm cho thị trường du lịch nội địa bị trì trệ.
Chứng khốn, chứng quyền, theo C.Mác là một loại hàng hóa đặc biệt
bởi vì chúng là loại yếu tố phái sinh, được phát hành ở một lượng nhất định
và các giao dịch chủ yếu trên thị trường thứ cấp là thị trường chứng khoán.
Về bản chất, một xã hội chủ đầu tư chứng khốn thì khơng thể giàu có được.
Nhưng về hình thức, đây là hình thức góp vốn đầu tư. Trong giai đoạn ngành
du lịch đang được hồi phục, rất cần có nguồn vốn từ các nhà đầu tư để cải tổ,
xây dựng lại hệ thống làm việc, nếu doang nghiệp làm ăn tăng trưởng tốt thì
tài sản của các nhà đầu tư cũng tăng lên. Chính vì vậy, đầu tư vào chứng
khốn, chứng quyền với các cơng ty du lịch, tập đồn nghỉ dưỡng, khách sạn,
các hãng hàng khơng, vận tải là góp phần giúp ngành du lịch có nền tảng để
khơi phục. Cần lưu ý, quá trình đầu tư cần sáng suốt, xem xét kĩ để tránh dẫn
tới thua lỗ.
III. KẾT LUẬN
Qua đây, chúng ta được nâng cao kiến thức về những lý luận của
C.Mác, ông nghiên cứu về hàng hóa và đưa ra hai thuộc tính của nó là giá trị
sử dụng và giá trị. Mặc dù ở thời đại của mình, ơng chưa có điều kiện để
nghiên cứu chun sâu nhưng ơng đã chia hàng hóa thành hai dạng vật thể và
phi vật thể. Bài luận góp phần làm rõ thêm một số khía cạnh mà C.Mác chưa
có điều kiện nêu ra một cách đầy đủ thơng qua phân tích về dịch vụ và một số
loại hàng hóa đặc biệt (quyền sử dụng đất; thương hiệu; chứng khoán, chứng
quyền và một số giấy tờ có giá khác). Thơng qua đây, chúng ta thấy được sự



17

uyên bác, vĩ đại của Mác khi những lý luận của ơng vẫn cịn đầy đủ giá trị đến
hiện nay.
Bài luận cũng phân tích sự thiệt hại nặng nề của ngành du lịch Việt
Nam trong bối cảnh đại dịch Covid – 19 thông qua bốn đợt bùng phát dịch
trên cả nước. Hiện nay, đất nước đang dần bình thường hóa, ngành du lịch
cũng đang có những bước hồi phục ban đầu. Vận dụng lý luận về dịch vụ của
C.Mác, em đưa ra bốn giải pháp nhằm hồi phục ngành du lịch nội địa trong
bối cảnh đại dịch Covid – 19 đang dần được khắc phục. Hi vọng đây sẽ là
những hướng đi đúng đắn cho du lịch Việt Nam và chúng ta sớm thấy sự tăng
trưởng trong thời gian sắp tới!
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa (2019), giáo trình “Kinh tế chính trị Mác –
Lênin”, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Tổng cục Thống kê (2020), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý
I/2020”.
3. Hùng Đạt (17/02/2021), “Nhìn lại tác động của dịch Covid-19 đối với du
lịch Việt Nam và xu hướng phát triển năm 2021”. Truy cập từ:
/>4. ThS. Đỗ Thu Hằng & ThS. Lê Thị Hiệp, “Ngành du lịch Việt Nam trong
mùa

dịch

Covid-19



vấn


đề

đặt

ra”.

Truy

cập

từ:

/>5. Minh Khang (24/09/2021), “Ngành du lịch "chuyển mình" để ứng phó với
đại dịch Covid-19, từng bước phục hồi trong năm 2022”. Truy cập từ:
/>

18

6. Mai Mai (04/01/2022), “Du lịch Việt Nam 2022: Nhiều giải pháp để phục
hồi và bứt phá”. Truy câp từ: />


×