HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
PHẦN MỞ ĐẦU
*
Chính trị khơng chỉ là một tiểu hệ thống thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, có
tác động ảnh hưởng tới các yếu tố quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng xã hội mà
quan trọng còn là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái và các chủ thể
khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi bộ phận của chính trị lại có những chức năng
riêng và đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự liên kết đó tạo thành một cơ
chế hoạt động nhịp nhàng, giúp cho thống trị đạt được mục tiêu của mình. Trong đó,
hệ thống chính trị là cơng cụ, là phương tiện và là phương thức tổ chức thực tiễn
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Hệ thống chính trị giúp bảo vệ và đem lại
lợi ích cho giai cấp thống trị, giúp giai cấp thống trị duy trì trật tự an ninh chính trị,
đảm bảo trật tự, an tồn xã hội.
Bên cạnh đó, nó cịn có vai trị to lớn trong việc quản lý các lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội như: kinh tế, văn hoá, quốc phịng, ngoại giao… Hệ thống chính
trị có vai trị quan trọng đối với tất cả các quốc gia. Một hệ thống chính trị có kết cấu
hợp lý và các thành phần trong đó có mối quan hệ chặt chẽ sẽ giúp mỗi quốc gia phát
triển đi lên. Ngược lại hệ thống chính trị khơng ổn định sẽ kìm hãm sự phát triển của
quốc gia đó.
Hơn nữa, ngành khoa học chính trị khơng chỉ u cầu người học cần trang bị
những kiến thức vững chắc về các lĩnh vực chuyên mơn mà cịn địi hỏi có những hiểu
biết chung về chính trị - xã hội, trong đó có hệ thống chính trị để có thể áp dụng
những kiến thức đó vào cơng việc trong thực tiễn.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản
lý. Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân và đại biểu
cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, có sứ mạng lãnh đạo tồn xã
hội thơng qua Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Bộ máy Nhà nước có chức năng
1
quản lý mọi mặt đời sống xã hội; các đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các giai
cấp, tầng lớp xã hội tham gia việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, người học đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về hệ thống
chính trị ở Việt Nam” làm bài thu hoạch hết môn.
2
PHẦN NỘI DUNG
1. Tổng quan về chính trị
1.1. Chính trị
1.1.1. Các quan niệm trước Mác về chính trị
Thời kỳ cổ đại: Ở Phương Tây có các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về chính trị:
Hê- rơ- đốt: Mệnh danh là người “cha của chính trị học”. Ơng khẳng định chính
trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này.
Platon: Theo ơng chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của người
anh hùng và sự thơng minh. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là
độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.
Aristotle: Trong cuốn Chính trị của mình, ơng đã quả quyết rằng về bản chất,
con người là một động vật chính trị. Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên,
là hình thức giao tiếp cao nhất của con người, con người là động vật chính trị, quyền
lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ở phương Đông, cụ thể là Trung Quốc trong thời kỳ “bách gia chư tử” xuất
hiện nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất, nổi bật là các quan niệm của Khổng Tử, Hàn Phi
Tử, Lão Tử . . .
Khổng Tử là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến
học thuyết chính trị. Căn bản trong học thuyết của ơng là qn tử. Chính trị là cơng
việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh.
Hàn Phi Tử: Quan niệm của ông là để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết
phải xây dựng và ban hành pháp luật.
Lão Tử: Với quan điểm “vô vi nhi trị” khơng làm gì mà mọi người tự thuần
phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước.
Thời kỳ đêm trường trung cổ: Các nhà thần học và chủ nghĩa duy tâm như
Tơmat Đa- Canh,..cho rằng “chính trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao của thượng
đế”.
3
Thời kỳ các học thuyết và tư tưởng tư sản về chính trị: Chính trị được quan
niệm là cơng việc của những “ cơng dân” có tài sản. Nổi tiếng với các học thuyết như
thuyết “ tam quyền phân lập, khế ước xã hội”.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chính trị
- Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích
giai cấp.
- Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham
gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội
dung, nhiệm vụ của nhà nước.
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị khơng thể
khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
- Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng
triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
1.1.3. Khái niệm chính trị
Từ đây, chúng ta có thể rút ra kết luận khái quát về chính trị: Chính trị là hoạt
động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia
với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của
nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của
giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực
hiện đương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1.2 Kết cấu của chính trị
1.2.1. Hệ tư tưởng chính trị
Là tồn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về giành và
giữ quyền lực nhà nước; xác định chế độ chính trị; hình thức tổ chức nhà nước và
quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác.
1.2.2. Thể chế chính trị
Là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ …
nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác là những dạng thức cấu
4
trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thống
chính trị.
1.2.3. Hệ thống chính trị
Là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa nhận bao
gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có
mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau cùng liên kết nhằm thực hiện mục tiêu
chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
1.2.4. Quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chính trị
- Tư tưởng chính trị là hạt nhân “tinh thần” là “linh hồn” của thể chế và hệ
thống là cái đi đầu, cái tiên phong.
- Thể chế chính trị là sự cụ thể hóa của tư tưởng chính trị.
- Hệ thống chính trị là phần xác, là hình thức tồn tại của tư tưởng chính trị.
2. Hệ thống chính trị
2.1. Các quan điểm về hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một trong những khái niệm rộng lớn, cơ bản và bao trùm
nhất trong các lý thuyết chính trị học. Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa hệ thống
chính trị. Phổ biến nhất hiện nay là cách tiếp cận dựa trên cấu trúc, hình thức tổ chức,
trong đó chú trọng xem xét các thành tố cấu thành của hệ thống chính trị – hệ thống
nhà nước, đảng phái, các tổ chức và phong trào chính trị - xã hội.
Cách tiếp cận theo chức năng và quan hệ chính trị xem xét các quan hệ chính
trị, hoạt động chính trị của các thành tố trong hệ thống chính trị và giữa hệ thống
chính trị với mơi trường xã hội xung quanh. Theo cách này người ta cịn phân tích cả
những quan điểm, học thuyết, tư tưởng, nhận thức chính trị... - tức là tất cả những yếu
tố có ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, có một số
quan niệm tiêu biểu như:
- Hệ thống chính trị là tổng thể những tổ chức quyền lực chính trị được xã hội
thừa nhận (Từ điển bách khoa Việt Nam). Với khái niệm này nhấn mạnh đến chức
năng của hệ thống chính trị - là việc thực thi quyền lực chính trị. Tuy nhiên, khái niệm
5
không lột tả được hêt nội hàm khái niệm hệ thống chính trị , đồng thời khơng chỉ được
mục tiêu và bản chất của quá trình hình thành hệ thống chính trị.
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm
các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết
với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội để củng cố, duy trì và phát triển chê độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể
giai cấp cầm quyền. Khái niệm nêu trên đã có hướng liệt kê đúng đắn các yếu tố cấu
thành của hệ thống chính trị tuy nhiên chưa nêu được khía cạnh là thiết chế quyền lực
của hệ thống chính trị.
- Cách tiếp cận theo hình thái kinh tế - xã hội: Hệ thống chính trị là một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng. Mỗi cách nhìn nhận trên đều có những mặt mạnh và điểm
yếu riêng. Tùy theo từng đối tượng nghiên cứu cụ thể mà lựa chọn cách này hay cách
khác cho phù hợp.
Một định nghĩa đầy đủ về hệ thống chính trị cần phải đáp ứng được ba đòi hỏi
cơ bản: cơ cấu tổ chức, chức năng của các thành tố cấu thành; các quan hệ chính trị
trong xã hội; tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị.
Từ những cơ sở trên có thể đưa ra một cách hiểu hệ thống chính trị như sau: Hệ
thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa
nhân bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, Nhà nước và các tổ chức chính trị
- xã hội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau nhằm liên kết nhằm thực hiện
mục tiêu chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
2.2. Kết cấu hệ thống chính trị
Bất cứ một chế độ chính trị nào cũng duy trì tồn tại một hệ thống chính trị. Hệ
thống đó là tập hợp các thiết chế thực thi quyền lực chính trị và bao giờ cũng có kết
cấu của nó. Kết cấu của hệ thống chính trị hàm chỉ các tổ chức cấu thành hệ thống
chính trị và mối quan hệ giữa các tổ chức đó. Kết cấu của hệ thống chính trị bao gồm:
Các tổ chức chính trị như Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
như Mặt trận dân tộc thống nhất, các tổ chức đoàn thể quần chúng.
6
2.2.1. Đảng chính trị
Ngày nay, trên thế giới khơng có quốc gia nào lại khơng có Đảng chính trị. Vai
trị của Đảng chính trị là hạt nhân lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị. Đảng tập hợp,
lơi cuốn và lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để
cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất định. Thông qua các cương lĩnh,
điều lệ, chủ trương, nghị quyết… Đảng chính trị chỉ ra đường lối, phương hướng để
nhà nước và xã hội hướng tới.
Theo các nhà kinh điển Mác-xít: Sự tồn tại của một Đảng chính trị gắn với cuộc
đấu tranh giành chính quyền, thỏa mãn những lợi ích của giai cấp, đạt được mục tiêu
cuối cùng là trở thành Đảng cầm quyền, và đương nhiên, thành lập Chính phủ để thể
hiện ý chí thống trị xã hội của giai cấp mình. Nhiệm vụ chủ yếu của các Đảng chính
trị là trở thành Đảng cầm quyền. Muốn như thế thì trước hết Đảng chính trị phải có vai
trị tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, trong đó hệ thống hóa những khuynh hướng, lập
trường chính trị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau thành một chương trình hành
động cụ thể, một chính sách nhất định, và tiến hành giành chính quyền bằng nhiều
biện pháp. Bên cạnh đó, Đảng phải tổ chức giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phổ biến
tư tưởng của Đảng mình cho quần chúng.
Đối với đảng chính trị tiến bộ là đại diện cho lợi ích của tồn thể nhân dân lao
động thì chủ trương, đường lối chính sách phát triển đất nước của nó phù hợp với quy
luật phát triển chung của xã hội, nên vai trị thúc đẩy xã hội tiến lên là vơ cùng to lớn.
Đối với đảng chính trị phản tiến bộ thì vai trị của nó đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.
2.2.2. Nhà nước
Nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt, là cơng cụ do đảng chính trị và
giai cấp thống trị lập ra nhằm duy trì sự thống trị và đảm bảo quyền lợi của giai cấp
đó, đồng thời chấn áp tầng lớp, giai cấp khác. Về hình thức tuỳ vào từng quan hệ xã
hội khác nhau trong lịch sử mà tồn tại các kiểu và các hình thức Nhà nước khác nhau.
Ở xã hội chiếm hữu nơ lệ, có bốn hình thức hình thành Nhà nước bao gồm:
Phương thức Aten: Nhà nước Aten ra đời là kết quả của vận động của những nguyên
7
nhân nội tại trong xã hội. Do sự chiếm hữu tài sản và sự phân hoá giai cấp trong xã
hội, tổ chức thị tộc khơng cịn thích hợp, cần thay thế bằng bộ máy quản lý mới nhằm
đáp ứng yêu cầu bảo vệ lưọi ích của những người giàu có. Vì thế sự xuất hiện Nhà
nước có tính thuần t và cổ điển nhất.
Phương thức Roma cổ đại: Nhà nước Rôma xuất hiện là do sự thúc đẩy của
cuộc đấu tranh giữa những người bình dân sống ngồi các thị tộc Rôma chống lại giới
quý tộc của thị tộc Rôma.
Phương thức Giéc – manh: Do nhu cầu phải thiết lập sự cai trị đối với vùng đất
La Mã sau chiến thắng của người Giéc –manh đối với đế chế La Mã cổ đại mà nhà
nước xuất hiện chứ không phải do yêu cầu đấu tranh giai cấp trong xã hội Giéc –
manh. Sau khi nhà nước Giéc – manh ra đời và bước vào củng cố, hoàn thiện bộ máy
nhà nước, sự phân hoá giai cấp trong xã hội Giéc – manh mới rõ rệt.
Phương thức Phương Đông cổ đại: Do nhu cầu tự vệ và yêu cầu sản xuất như
khai khẩn đất đai, trị thuỷ, chống thiên tai đòi hỏi con người phải tập hợp nhau lại
trong một cộng đồng có sự liên hệ cao hơn trong gia đình và thị tộc, với một bộ máy
có quyền lực tập trung, thống nhất hơn để điều hành và quản lý các cơng việc chung
của cộng đồng đó là nhà nước. Nhà nước xuất hiện khơng phải do địi hỏi bức thiết
của đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Ở xã hội phong kiến, quyền lực tập trung mạnh mẽ vào một vị vua được coi là
người đứng đầu nắm toàn bộ quyền hành điều khiền nhà nước, tiếp đến là hệ thống
quan lại, quý tộc từ trung ương đến địa phương.
Sang chế độ Tư bản chủ nghĩa Nhà nước được tổ chức theo hình thức tam
quyền phân lập với nhiều hình thức khác nhau. Chính thể quân chủ lập hiến, chính thể
cộng hồ tổng thống, chính thể cộng hồ đại nghị. Đặc điểm chung của Nhà nước tư
sản là sự phân chia quyền lực Nhà nước thành các quyền lập pháp hành pháp và tư
pháp. Các quyền này độc lập, đối trọng, kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng quyền lực Nhà nước là
thống nhất thuộc về nhân dân nhưng có sự phân chia với nhau trong việc thực hiện các
8
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước có vai trị đặc biệt quan trọng, là trụ
cột của hệ thống chính trị. Thơng qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước quản lý toàn bộ
các mặt của đời sống xã hội: Quyền lập pháp giúp Nhà nước ban hành pháp luật,
quyền hành pháp giúp nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất,
quản lý đời sống xã hội; quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát và xét xử các hành vi
phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế, chính trị của quốc gia, dân tộc… Hoạt động
của Nhà nước chính là trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị.
2.2.3. Các tổ chức liên minh, liên kết đại diện cho các lực lượng khác nhau
trong xã hội
Đó là các tổ chức đại đoàn kết dân tộc, các tổ chức đại diện cho quyền và lợi
ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các tổ chức này góp phần tham
gia vào các hoạt động của hệ thống chíng trị trong việc tạo ra khối đại đồn kết tồn
dân tộc, bảo vệ lợi ích cho các tầng lớp xã hội trước giai cấp thống trị.
Một mặt các tổ chức này đóng vai trị lớn trong hệ thống chính trị, góp phần xây
dựng và hồn thiên hệ thống này; mặt khác, trong nhiều trường hợp chính các tổ chức
này lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống chính trị hiện thời. Đó là khi một giai cấp tiến
bộ trong lịch sử ra đời, có tổ chức tiên phong đại diện xong chưa nắm được quyền lực
chính trị. Khi đó thơng qua con đường bao lực cách mạng, nó sẽ lật đổ chính quyền
của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu cũng tức là lật đổ hệ thống chính trị hiện thời để
xây dựng nên một hệ thống chính trị mới mang bản chất giai cấp của chính nó.
2.3. Chức năng của hệ thống chính trị
- Chức năng duy trì chế độ thống trị của một giai cấp vì lợi ích giai cấp Bất cứ
một hệ thống chính trị nào cũng mang bản chất của giai cấp thống trị lập ra hệ thống
đó nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của giai cấp cầm quyền.
- Chức năng tổ chức và thực thi quyền lực chính trị quyền lực chính trị là cơng
cụ, phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng nhằm mục đích thống trị của mình.
Muốn sử dụng quyền lực đó, giai cấp thống trị phải lập ra các thiết chế sử dụng đó là
hệ thống chính trị.
9
- Chức năng duy trì ổn định chính trị - điều hành nền sản xuất Thông qua hệ
thống các cơ quan an ninh, đồng thời tổ chức và phối hợp với hệ thống quân sự từ
trung ương đến địa phương giúp giai cấp thống trị duy trì an ninh chính trị, đảm bảo
trật tự và an toàn xã hội. Từ đó, hệ thống chính trị thực hiện chức năng điều khiển nền
sản xuất xã hội thông qua quan hệ sản xuất.
- Chức năng quản lý xã hội Chức năng này được thiết lập trên các mặt của đời
sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng… thơng qua
các thiết chế hành pháp.
3. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
1.1. Kết cấu hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân.
1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
1.2.1. Tính nhất nguyên chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền.
Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam cịn có Đảng
Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như
những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trị lãnh đạo
và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt
Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, khơng tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng
10
sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trị là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân
(Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà
qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất ngun
tư tưởng. Tồn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.2. Tính thống nhất
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trị,
chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể
thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương
thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát hiện sức mạnh tổng
hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong tồn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố
sau:
- Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ
nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân
chủ.
- Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa
phương, với các bộ phận hợp thành.
1.2.3. Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
11
Đây là đặc điểm có tính ngun tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm
này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam khơng chỉ gắn với chính trị, quyền lực
chính trị, mà cịn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị
(như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị khơng
đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong
các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hộ. Cầu nối quan
trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các
yếu tố:
- Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
cầm quyền.
- Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức
của chính các tầng lớp nhân dân.
- Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
1.2.4. Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện
cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện
bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trị lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp cơng
nhân và tính dân tộc sâu sắc.
Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân
tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát
triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng
12
của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân
tộc.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất
của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong
của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn
kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của tồn bộ hệ
thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và khơng
có ranh giới rõ ràng.
KẾT LUẬN
13
*
Từ việc tìm hiểu về chính trị, hệ thống chính trị mang tính chất lý luận như trên
và phân thích với hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, có thể hiểu hệ thống chính
trị ở nước ta là một hệ thống các tổ chức (thiết chế) gắn liền với quyền lực chính trị
của nhân dân, được tổ chức để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn do nhân dân giao
phó và ủy quyền; đây là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình dưới các hình thức, cấp độ khác nhau.
Hệ thống chính trị ở nước ta là tổ chức của chính trị và dân chủ, được xác lập
bởi tổ chức và hoạt động của một hệ thống thống nhất các thiết chế bao gồm: Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác
có trách nhiệm và quyền hạn thực hiện quyền lực chính trị theo ủy quyền của Nhân
dân, phát huy dân chủ để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng của chủ nghĩa xã hội
theo dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Đảng Cộng sản Việt Nam (là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội);
- Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân;
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
- Các tổ chức chính trị - xã hội khác (Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân Việt
Nam, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam).
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở./.
14