Chuong 5
VAN HOA THANG LONG - HANOI
5.1. Bac trung văn hoá Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỉ
5.1.1. rong thài kì dựng nước
Những cứ liệu khảo cổ học cho phép khẳng định, con người có mặt
trên đất Hà Nội từ rất sớm, dây cũng là vùng đất đâm đặc ede di chi khảo
cổ học từ thời văn hoá Son Vi, Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng
Sơn, Khoảng 20.000 năm trước, cư dân văn hoá Sơn Vĩ là lớp người đầu
tiên đến khai phá vùng đất cao hoang dã và khắc nghiệt của Hà Nội. Các
nhà nghiên cứu đã phát hiện được dấu tích văn hố Sơn Vi ở vùng đất Cổ
Loa và nhiều dấu tích văn hố Sơn Vi trên vùng đổi gị huyện Sóc Sơn.
Tại khu vực Quần Ngựa, Cơng viên Thống Nhất cịn phát hiện được
khoảng 10 di tích văn hố Phùng Ngun. Số lượng tuy khơng nhiều
nhưng với diện tích hẹp của Thành phố đã có tới 10 di tích cho thấy mật
độ di tích văn hố Phùng Ngun ở đây tương đối cao, hiện vật thu lượm
được khá phong phú, đặc biệt khu vực hữu ngạn sơng Hồng gồm các
di tích: Văn Điển, Gị Cây Táo, Đàn Xã Tắc nằm gần sơng Hồng và sơng
Hồng Giang, đấm Cả và đấm Mạch Tràng, di tích Núi Xây nằm trên
sườn núi thấp ven song Ca Ld.
So với văn hố Phùng Ngun, các di tích văn hố Đổng Đậu cũng
như văn hố Gị Mun trên đất Hà Nội phát hiện được ít hon. Các đặc
trưng văn hố Đổng Đậu trên đất Hà
phát hiện được 4 di
tích ở Tiên
Hội, Xuân Kiểu, Bãi Mèn và Đình Tràng.
Một số huyện ngoại thành Hà Nội đã phát hiện được nhiều di tích
văn hố Đơng Sơn quan trọng như: di tích Đa Tốn, Dương Xá (Gia Lâm),
Chương 5. Văn hóa Thắng long- Hà Nội
trống đồng Cổ Loa, trống đồng Ngọc Hà,... hình
đồng phong phú: trống đồng, lưỡi cày đồng, mũi
mộ táng văn hố Đơng Son như mộ huyệt đất ở
hình thuyển ở sơng Tơ Lịch, n Hoà (Cầu Giấy),
125
thành những suu tập đổ
tên đồng. Nhiều kiểu loại
Dình Tràng, mộ quan tài
Nguyệt Áng (Thanh Trì).
Cho đến sau này, khi thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã
chọn Cổ Loa (Đông Anh,
thành lớn: thành Cổ Loa
nước, Thăng Long - Hà
hành kinh tế- chính trị -
Hà Nội) làm kinh đơ và xây dựng ở đây một tồ
làm kinh thành. Có thể nói ngay từ thời kì dựng
Nội đã được chọn là kinh đơ, trung tâm điểu
văn hố - xã hội của cả nước.
5.1.2. Trong thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
“Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, quá trình tiếp xúc văn hố Hoa - Việt
lau dài đã có những thay đối quan trọng trong đời sống văn hố, kinh
tế, xã hội người Việt trong đó có cư dân kinh đô Thăng Long. Bên cạnh
những nghề truyển thống, người Việt đã phát triển nhiều nghé thi cong
tiếp thu kỹ thuật và phong cách nghệ thuật từ người Hán như: rèn sắt,
làm gốm, làm gạch ngói, làm đường, làm giấy, chế tạo thuỷ tinh, sản xuất
đồ mĩ nghệ, thuộc da, sơn then... Cụ thể là, đổ gốm làm ra thời kì này
Ít hiện nhiều loại hoa văn mang đặc trưng của người Hán; từ sản xuất
các loại gốm thô đã làm ra các sản phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật
liệu xây dựng đặc biệt phát triển nhằm phục vụ nhu cẩu xây dựng các
cơng trình kiến trúc thành quách, chùa tháp, mộ táng... của chính quyền
cai trị. Nghề làm giấy dược du nhập từ Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ,
người Việt đã sáng tạo nhiều loại giấy trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn
có trong nước như giấy mật hương... Nghề chế tạo thuỷ tỉnh cũng đạt
nhiều thành tựu lớn như: sản xuất những sản phẩm thuỷ tỉnh tỉnh xảo,
nhiéu mau s:
Dưới tác động của chính sách đồng hoá, các yếu tố văn hoá Hán ngày
càng ảnh hưởng sâu đậm ở nước ta. Xen kế cùng xóm làng người Việt ở
đồng bằng châu thổ sông Hồng đã xuất hiện một số thị trấn, xóm làng
của người Hoa và những đổn điền, trại ấp của quan lại, địa chủ gốc Hán.
Trải qua quá trình cộng sinh lâu đời, nhiều người Hoa đã dẩn dẩn Việt
hoá và trở thành một bộ phận trong cộng đổng người Việt. Cùng với việc
126
GIAOTRINH HA NOI HOC
xã, bộ lạc người Việt đã bị phá vỡ, phân hoá xã hội ngày càng sâu
những mỗi quan hệ xã hội mới ra đời. Tầng lớp hào trưởng người Việt
ngày càng có vai trị to lớn trong xã hội, trong khi đó họ lại bị quan lại đô
hộ chèn ép và phân biệt đổi xử về cả kinh tế và chính trị nên mâu thuẫn
giữa hào trưởng với chính quyển đơ hộ ngày càng sâu sắc. Họ đẩn trở
thành thủ lĩnh đại điện cho phong trào đấu tranh chống lại ách nơ dịch
và đồng hố cúa chính quyền đơ hộ.
Cũng trong thời kì này, văn hố, luật tục và thiết chế cổ truyền của
người Việt dẩn bị xoá bỏ và bị cái tổ theo phong hoá Hán. Thậm chí tên họ.
người Việt đến thời kì này cũng được thống nhất đặt theo cách gọi chung,
của người Hán. Tuy nhiên, nhiều phong tục truyền thống vẫn được bảo
tồn bền bi như tục thờ cúng tổ tiên, anh hùng có cơng với cộng đồng, tục
xăm mình, nhuộm răng đen hay các hình thức tín ngưỡng dân gian khác
của cộng đồng cư dân nơng nghiệp trồng lúa nước.
Q trình giao lưu tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ đã đưa đến sự du nhập
các luổng tư tưởng, tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo...
Nho giáo vào Việt Nam cùng với chính sách nơ dịch, đồng hố của chính
quyền cai trị nên ít có điều kiện đi sâu vào đời sống dân chúng, mới chỉ
dùng lại ảnh hưởng ở những tầng lớp trên trong xã hội. Trái lại, Phật giáo
ngay khi vào Việt Nam đã có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa
một cách tự nhiên. Đây là một tơn giáo phát triển nhanh và có ảnh hưởng,
sâu rộng nhất tại nước ta thời Bắc thuộc. Sự pháttrí
n mạnh mẽ của tơn.
giáo này dẫn đến sự hình thành trung tâm Phật giáo Dâu - [uy Lâu phổn
thịnh ngay từ những thế ki đầu Cơng ngun. Ngồi ra, Đạo giáo cũng,
là một tôn giáo đi theo bước chân của người Hán đã du nhập vào nước
ta. Từ cuối thế kỉ II, Đạo giáo chính thức được truyền bá và mức độ ảnh
hưởng trong dân chúng của nỏ đã vượt xa Nho giáo. Với tỉnh thẩn xuất
thế, vô vi, thoát tục, thuận theo tự nhiên, Đạo giáo đã được người Việt
đón nhận nhanh chóng.
Sự xuất hiện và phát triển của nhiều tư tưởng, tôn giáo đã tạo nên sắc
thái đa nguyên hỗn hợp trong đời sống văn hoá tín ngưỡng của người Việt.
Mặc dù được truyền bá vào Việt Nam bằng nhiều con đường, nhiều hình thức
Chương 5. Văn hóa Thắng long- Hà Nội
127
Nho - Phật - Đạo đều có khuynh hướng kết hợp với nhau và hồ quyện với
các tín ngưỡng dân gian bản địa của người Việt.
Có thể nói, dù phải chịu ách cai trị tàn bạo và chính sách đổng hố
khốc liệt của các triểu đại phong kiến phương Bắc, song người Việt đã
biết tiếp thu, học hỏi những yếu tố tiến bộ, những thành tựu trong văn
hoá, tạo nên những chuyển biển to lớn trong nến kinh tế, xã hộ
văn hoá.
Việt đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán va dan biến
lừ mơ
hình Đơng Sơn cổ truyền sang mơ thức mới: Việt - Hán. Các chính quyển
phong kiến phương Bắc dù cố gắng tìm mọi cách để đồng hố người Việt
song về căn bản trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, văn hoá Việt vẫn tổn tại
như thế, lới riêng. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hố Hoa - Việt là cơ.
sở nuôi dưỡng và phát huy những tỉnh hoa của văn hoá truyền thống làm
nên tảng cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.
Khu vục Hà Nội trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc ln là địa bàn
diễn ra các cuộc khởi nghĩa, trận chiến quyết liệt chống lại ách nô dịch
của phong kiến phương Bắc, là nơi được các bậc đế vương nhiều lần chọn
làm kinh đô, trung tâm điều hành của đất nước. Ngay từ tháng 3 năm 40,
‘Trung Trắc đã cùng em là Trưng Nhị phát động cuộc khởi nghĩa ở khu
vực cửa sông Hát (Hát Mơn, Phúc Thọ, Hà Nội) với mục đích đến nợ
nước, trả thù nhà. Sau hơn 200 năm chìm đắm dưới ách đô hộ của phong.
kiến Trung Quốc, Trưng Trắc được suy tơn làm vua (Trung Vương), đóng
đơ ở Mê Minh (nay là khu vực Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội). Năm Giáp Tý.
(644), Lý Bí tuyên bố dụng nước Vạn Xuân, ông cũng là người đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng
đất nga
ba sông Nhị Hà - Tô Lịch và chọn khu vực cửa sông Tô Lịch nối thông với.
Nhị Hà (tức là vùng đất Thăng Long - Hà Nội cơ) làm đất đóng đơ.
Năm 766, Phùng Hưng khởi nghĩa ở Đường Lâm, Sơn Tây, sau đó
kéo quân về bao vây An Nam La Thành (năm 767) khiến cho địch lúng
túng muốn thốt cũng khơng nổi. Sau khi đánh chiếm An Nam La Thành,
rồi mở rộng An Nam La Thành đặt tên lại là La Thành, Phùng Hưng đã
đóng đơ và tổ chức chính quyền tự trị tại đây. Năm 938, Ngô Quyền lãnh
đạo nhân dân chống lại sự xâm lược của quân Nam Hán. Năm 939, Ngô
128
GIAOTRINH HA NOI HOC
Sau đó, từ nhà Đinh (968-980) đến nhà Tiền Lê (980-1009) kinh đơ của Đại
Việt đều đóng ở Hoa Lư. Gần nửa thế kỉ sau này, Hà Nội dường như bị bỏ
qn, khơng cịn vị thế trung tâm đất nước nhưng Thăng Long vẫn là nơi
đất đai màu mỡ, đân chúng tụ họp đông vui, làm ăn đễ dàng, giàu có và
tap nap’.
5.1.3. Van hod Théng Long
- Hà Nội thời quân chỉ
Phật giáo thời Lýrất hưng thịnh, chùa tháp mọc lên khắp mọi nơi (do
nhà vua và quý tộc bỏ tiển xây dựng, tiêu biểu là chùa Diên Hựu (chùa
Một Cột) và tháp Báo Thiên, nhân dân lúc đó quả nửa làm sư?. Thời kì
này, Thăng Long được xây dựng trở thành trung tâm chính trị - kinh tế ~
văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành quách, đê điểu, các loại
kiến trúc cung đình, dân gian, tơn giáo, văn hố,.. tất cả hồ quyên với
thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành rồng bay. Thăng Long
thời Lý rất gần gũi với thiên nhiên và tính cách người Việt, đượm tính
dân gian và tính dân tộc. Chế độ quân chủ đời Lý đã đạt đến mức độ tập
quyền cao nhưng chưa mang tính chất chun chế quan liêu nặng nể. Đó
là một nhà nước độc lập, thống nhất dựa trên tỉnh than Phat giáo. Mối
quan hệ giữa triểu đình và làng xóm, giữa vua quan và dân chúng có sự
cách biệt nhưng cũng có mặt gần gũi. Hồng thái tử trước khi nối ngôi đã
sống trong phủ đệ giữa khu phố phường dân gian. Công chúa và cung nữ
trồng dâu, chăn tằm, dệt gấm. Năm 1033, triểu đình cho đúc chng lớn
hơn 10.000 cân (tương đương hơn 6 tấn) đặt ở Lẩu Chng, Một số lễ hội
mang tính tơn giáo và tính quần chúng như hội đèn Quảng Chiếu cũng
được tổ chúc trong Sân Rồng (Long Trì) của Cấm Thành. Qua quá trình
hội tụ, chất lọc và lắng đọng, văn hố Thăng Long đã kết tỉnh các giá trị
của văn hoá dân tộc và trở thành trung tâm tiêu biểu của văn hố cả nước,
Đó là một nền văn hố hài hồ giữa thiên nhiên và con người, giữa cung
đình và dân đã, tính dung hợp của các tơn giáo, tín ngưỡng, tính dân tộc
và tính nhân văn cao.
Thăng Long hội tụ, kết tình, thăng hoa văn hố Đại Việt đời Trần,
kinh sư qua gần hai thế kí XI - XIV, khơng chỉ tiếp tục phát huy và khắc
'_ Nguyễn Thị Bích Hà (2010), Hồ Nội, con người, lịch sử ã ấn hoá, Nxb. Đại học Sư phạm, tr27.
Chương 5. Văn hóa Thắng long- Hà Nội
129
hoạ rõ nét mà phát triển đặc tính hội tụ, kết tỉnh, thăng hoa của văn hố
Đại Việt lên một quy mơ, tầm vóc mới. Sự phát triển của khu kinh té din
cử làm cho bộ phận thành - thị của Thăng Long ngày càng rõ nét hon
Kinh tế thủ công, thương nghiệp thành thị sinh ra tầng lớn thị dân và lồi
sống thị dân. Vào đời Trấn, số lượng thị dân ở Thăng Long chưa nhiều
nhưng đã có những biểu hiện sinh hoạt của cư dân phố thị, trong đó có
sinh hoạt ban đêm của thành thị, gồm bn bán, vui chơi..
Bóng đáng một đô thị khu vực ngày một rõ ràng, những kiểu dan
phương Bắc, các nhà sư đến từ Chãmpa, Trung Á... Thăng Long thành đầu
cẩu tiếp nhận, truyền dẫn và liên lạc... Nhiều yếu tố “ngoại” được du nhập
vào Thăng Long không chỉ từ phường - thị. Sinh hoạt kinh tế, văn hố của
kinh thành Thăng Long có dáng dấp của một đô thị khá phát triển, phản
ánh quan hệ thương, công, nông nghiệp, quan hệ giữa khu vực đường phố.
của phường thị và thành, hoà quyện với văn hoá dân gian.
Chất “tri thức” ngày một gia tăng trong sinh hoạt văn hoá của kinh
thành nhưng vẫn phản ánh rõ sự hồ quyện, chưa có sự cách biệt giữa
bộ phận quý tộc và dân đã. Là trung tâm hội tụ các trí thức hàng đầu của
Đại Việt, Thăng Long trở thành trung tâm văn hoá lớn nhất của quốc gia.
Những nhà văn hoá lớn như các vị vua đầu thời Trần, vương hầu, quý
tộc tài năng như: Trẩn Quốc Tuấn, Trẩn Quang Khải, Trần Nhật Duật....
nửa đầu thế ki XIV có Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát....
đã in đậm chất trí thức
bác học trong sinh hoạt, sáng tác
văn
thơ, ca nhạc.
Tuy nhiên điểm nổi bật là sự hoà quyện giữa sinh hoạt văn hoá dân gian
nồng hậu với cung đình. Thăng Long - Đại Việt thể hiện, kết tỉnh rực rỡ
sức mạnh, khí phách, nội lực văn hố dân tộc qua ba lần chiến thắng quân
xâm lược Mông - Nguyên, qua bước phát triển kinh tế, văn hoá của đất
nước sau kháng chiến.
Nhà Lê xây dựng nước quân chủ trung ương tập quyền theo mơ
hình Nho giáo và lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, Nho giáo
giữ vai trị chỉ phối trong thiết chế chính trị, tố chức giáo đục, thi cử và có
ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Chế độ giáo dục khoa cử quán
triệt hệ tư tưởng Nho giáo và phương thúc chủ yếu để đảo tạo đội ngũ
130
GIAOTRINH HA NOI HOC
là nơi tôn sùng đạo Khổng, là trung tâm giáo dục quốc gia cao và lớn nhất
của cả nước.
Cuối thời Trần, Phật giáo bắt đầu bị tấn công, Nho giáo lấn át dẩn.
Sang thế ki XV, Nho giáo tiến lên chiểm địa vị chỉ phối trong xã hội, dap
ứng yêu cẩu phát triển của chế độ quân chủ tập quyển. Tư tưởng Nho giáo
thống trị trong thời Lê sơ là tư tưởng Tống Nho, một “phái chính thống”
đo Chú Hy đứng đầu, hình thành ở Trung Quốc vào khoảng thể kỷ XI- XII.
Cùng với vai trò chỉ phối của Nho giáo, các nghi lễ tế đàn Nam Giao, đàn
Xã Tác, tế Không Tử ở Văn Miếu, tế Thái Miếu được coi trọng và quy định
thành thể chế vào thời Lê Thánh Tơng. Trong cung đình, hàng năm có lễ
sinh nhật của nhà vua gọi chung là lễ Thánh thọ, mỗi vị vua đặt tên riêng;
vua Lê Thái Tổ gọi là Vạn thọ khánh tiết... Trong các phường của kinh
thành vẫn duy trì phổ biến các lễ chùa, lễ đến, lễ làng, trong đó có những,
lễ hội lớn như lễ Gióng ở đến Phù Đống, lễ đền Hai Bà Trưng và lễ Vụ lan
(rằm tháng 7) theo truyền thống Phật giáo.
Nhà Mạc cẩm quyển ở kinh thành Thăng Long trong một thời gian
không dài (65 năm), thời gian các vua Mạc trực tiếp đóng đơ ở Thăng,
Long - Đơng Kinh cịn ngắn hơn. Do vậy, chính sách văn hoá, xã hội của
nhà Mạc là “dựa theo phép cũ của triểu Lê” nên ít xáo trộn. Một nghịch lí
dễ nhận thấy trong đời sống văn hoá ở Thăng Long thời Mạc:
đây là một
triểu đại mà vị vua sáng lập xuất thân từ một người bình dân, các vua sau
đó luôn phải theo đuổi cuộc nội chiến khốc liệt, khi tấn cơng lúc phịng,
thủ, lại là một vương triểu nồi tiếng về chính sách trọng sĩ, rất quan tâm
đến vấn để giáo dục khoa cử và ưu dãi sử dụng các nho sĩ hiển tài. Mặt
khác, các vua Mạc cũng ý thức được cẩn phải nhanh chóng đào tạo một
đội ngũ trí thúc nho sĩ mới, phục vụ cho chế độ, giữ n nội tình dé triéu
đình có thể tập trung vào cuộc chiến chống Nam triểu. Đó có thể là động
cơ chủ yếu của chính sách trọng sĩ của các vua Mạc.
Nét nổi bat trong địi sống tơn giáo, tín ngưỡng ở Thăng Long thời
Mạc: ngồi việc ba tơn giáo Nho - Phật - Đạo chung sống hồ bình và
hồ nhập (tam giáo đồng ngun), các tín ngưỡng dân gian truyền thống
cũngcó điều kiện phát
Đặc biệt trong thé’ ki XVI, đã xuấ lên và
Chương
5. Văn hóa Thắng long
- Hà Nội
131
một nhân vật được liệt vào hàng “Tứ bất tử”. Đây cũng là vị nữ thần có lai
lịch nửa thiên giới, nửa trẩn tục, tượng trưng cho khát vọng tình u đơi lứa
nơi trần thế. Chùa chiển được nỏ rộ dưới thời Mạc, phần lớn là trùng tu, nâng,
cấp từ những ngôi chùa cũ, một số mới được xây dựng. Thế kỉ XVI, ở các
làng ven đơ, tục thờ thần linh được hình thành và phát triển tại các đền
miếu. Kiến trúc đình làng cũng có thể xuất hiện từ thời Lê sơ thé’ki XV.
Tuy nhiên, những ngơi đình được xây dựng kiên cố bằng gạch ngói kết
hợp với gỗ lâu đời nhất cịn tổn tại đến ngày nay đều có niên đại vào thời
Mạc như đình Thụy Phiêu (Ba Vì, năm 1531), Lỗ Hạnh (Hiệp Hồ, Bắc
Giang, năm 1576), La Phù (Thường Tín, năm 1579), nổi
tiếng nhất
là đình
Tây Đằng (Ba Vì, năm 1583). Các ngơi đình này có sự kết hợp hài hồ giữa
chức năng tôn giáo (thờ thần, cúng lễ) với chức năng văn hố (hội hè, nơi
tổ chúc các trị vui dân gian), diéu này được phản ánh trong các bức cham
phù điêu của đình Tây Đẳng.
Điểm nổi bật về văn hoá Thăng Long - Hà Nội thời Lê - Trịnh là
hình thành các thơn phường chun nghiệp về nghề thủ công, Ven hổ
“Tây - sông Tô Lịch là cụm làng chuyên làm nghề dệt, nhuộm, đúc đồng,
làm giấy, sở dĩ nơi đây phát triển nghề thủ cơng bởi vừa có hệ thống giao
thông đường thuỷ thuận tiện cho thuyền bè chuyên chớ những vật liệu
nặng, cổng kểnh vừa là nơi đất rộng, thống, có nguồn nước tự nhiên đổi
đào, tiện lợi cho việc sản xuất hàng loạt hay chế tác các cơng đoạn của một
số mặt hàng địi hỏi kĩ thuật cao và khơng gian rộng.
Ở thời kì này, văn hoá Thăng Long - Hà Nội cũng tiếp nhận những
“đợt sóng mới”. Văn hố Việt Nam truyền thống về bản chất là một nền
văn hố nơng thơn làng xã, phản ảnh
nước, chịu ảnh hưởng của những tín điểu Khổng giáo. Tuy nhiên, ở kinh
thành Thăng Long từ nhiều thế kỉ đã tổn tại một nền văn hố đơ thị dich
thực, cho dù nến văn hố đó vẫn chịu ảnh hưởng khơng ít của nến văn
hố nơng thơn. Văn hố đơ thị Thăng Long đã phát triển, tạo thành một
đợt sóng mới trong những thế ki XVII - XVIII. Khác với nền văn hoá thị
dân trong các thành thị Tây Âu trung đại, văn hố đơ thị Thăng Long là
một nền văn hoá đa thành phẩn bao gồm các giai tấng quý tộc, quan liêu,
132
GIAOTRINH HA NOI HOC
nho sĩ cũng như khối quẩn chúng bình dân như thợ thủ cơng - thương
nhân. Nơi đây vẫn lưu giữ các yếu tố văn hoá truyền thống Kinh Kì, tài
hoa thanh lịch, trọng danh dự, vươn tới một cuộc sống chất lượng cao.
“Tuy nhiên, nó cũng mang theo những mặt trái tiêu cực mà thói xa xi, hình
thức, chuộng lạ là một thói quen khơng dễ thay đổi.
Là kinh đơ trong nhiều thế kỉ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá
của cả nước, Thăng Long từng thu hút, hội tụ nguổn nhân lực chất lượng
cao bao gồm những nho sĩ, nghệ nhân, thợ khéo, nhà buôn đảm đang,
những nhân tài, danh sĩ từ nhiều vùng địa phương khác nhau. Họ mang
theo những
g, tâm lí, sắc thái văn hố nơi q hương họ, đồng thời
mang the chí và sự năng động để tồn tại, trụ lại nơi để kinh phồn hoa
đô hội, theo quy luật cạnh tranh sinh tổn. Qua nhiều thế hệ, những đặc
trưng văn hoá và tính cách con người của nhiều vùng văn hố đã hoà trộn
cùng nhau, kết tỉnh thành một bản sắc văn hố đơ thị Thăng Long độc
đáo, được đánh giá cao qua những câu tục ngữ ca dao “Khéo tay hay nghé,
đất lề Kẻ Chợ”.
Về mặt lịch đại, thế ki XVII- XVIT là một “đợt sóng mới” của văn hố
đơ thị Thăng Long - Kẻ Chợ. Lúc này chế độ phong, én nha nude quan
liêu Đại Việt đã chuyển từ giai đoạn mơ hình (thời Lê sơ) sang giai đoạn
hậu mơ hình. Thực tế, đời sống sinh động có nhiều chuyển biến, đã đi
trước và vượt qua một khung mô hình thiết chế hệ tư tướng chính thống
mang tính bảo thủ, tạo nên “độ chênh lịch sử”. Văn hố đơ thị Thăng
Long - Chợ vốn rất nhạy cảm với những chuyển biến mới, đã phản
ánh độ chênh lịch sử đó.
Sự suy thối của văn hố Đơng Á nho giáo chỉnh thống và những
tiếp xúc kinh tế văn hố Đơng Tây đã kéo theo sự khủng hủng của hệ
tư tưởng và những tín điều Tống Nho đã gây ra một khoảng trống niềm
tin. Mặt khác, nó tạo diều kiện cho sự phục hưng của những yết tố văn
hoá Nam Á dân gian phi chính thống, các tơn giáo Phật, Đạo và những
khuynh hướng tư tưởng giải phỏng thân phận con người. Tắt cả đã tạo
nên một tồn cảnh văn hố Thăng Long - Kẻ Chợ nói riêng và Đại Việt nói
Chương
5. Văn hóa Thắng long
- Hà Nội
133
Thăng Long - Kẻ Chợ thời Lê - Trịnh tiếp tục thời nhà Mạc đã rộ lên
phong trào chấn hưng Phật giáo, Đạo giáo, lập lại thế cân bằng tam giáo
đồng tôn. Phật giáo lúc này tuy khơng được nhà nước chính thức thừa
nhận địa vị bình đẳng với Nho giáo nhưng trên thục tế đã thu hút đồng
đảo nhiều tín đổ thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội (quý tộc, quan liêu, nho
sĩ, bình đân), Thời Lê - Trịnh, ở Thăng Long - Kẻ Chợ hàng loạt các loại
chùa chiến đã được trùng tu hoặc xây dựng mới như chùa Trấn Quốc,
Tiến Tích, Hịe Nhai, Kim
Liên, Trung Quang, Liên Phái, Linh Sơn, kinh.
phí do một số quý tộc quan liêu, nhà giàu và những tín đổ hảo tâm ở Kẻ
Chợ đúng ra quyên góp xây dựng chứ khơng dùng cơng quỹ tài trợ như
thời Lý - Trấn.
Tuy khơng cịn là kinh đơ, nhưng Thăng Long - Hà Nội dưới thời
Nguyễn vẫn là trung tâm giáo dục và văn hoá hàng đầu của đất nước,
chỉ đứng sau kinh thành Huế. Bởi, một mặt Thăng Long - Hà Nội vẫn là
thủ phủ của cả một khu vực rộng lớn, mặt khác, sự ngưng đọng của lịch
sử và văn hoá dân
trải qua bay, tám trăm năm không đễ mất đi. Khi
được thiết lập, nhà Nguyễn đứng trước rất nhiều khó khăn. Thực tế địi
hỏi Nguyễn Ánh và những người đứng đầu triểu đình Huế phải nhanh
chóng ổn định tình hình đất nước. Một trong số những “vũ khí” truyền
thống được nhà Nguyễn “dùng lại” là ki cương hoá xã hội dựa trên nền
tảng tư tưởng Nho giáo gắn với việc đào tạo tầng lớp trí thức nho học làm.
rường cột nhân sự cho bộ máy nhà nước. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối
truyền thống, trong những điểu kiện mới, một hệ thống giáo đục quan
phương đã nhanh chóng được thiết lập lại từ trung ương cho đến địa
phương, đóng vai trị chủ đạo của toàn bộ nền giáo dục đương thời, đồng,
thời, hệ thống giáo dục dân gian tiếp tục tổn tại va phat triển.
3.1.4. Văn hoá Hà Nội trong thời
kỳ hiện đại
Với sự chuyển biến vể chính trị, kinh tế, xã hội, đời sống văn hố
đơ thị của Hà Nội buổi đầu thời Pháp thuộc cho đến cuối thế ki XIX là
sự cấy ghép nhưng chưa thuẩn thục những yếu tố văn hoá phương Tây
vào nến văn hoá truyển thống ở Việt Nam. Đạo Thiên Chúa giáo vốn
có
gốc rễ lâu đời trong bộ phận người Việt và những sinh hoạt văn hoá mới
134
GIAOTRINH HA NOI HOC
cao cấp người Việt cộng tác với Pháp có cơ hội phổ
biến rộng rãi, cịn lại
những chuyển biến văn hố thời kì này nhìn chung diễn ra chậm hơn so.
với những chuyển biến về quy hoạch đô thị và kinh tế.
Nến tảng tín ngưỡng mang tính truyển thống vẫn được duy trì ở Hà
Nội đó là: tam giáo đồng nguyên Nho- Phật- Đạo. Tục thờ cúng tổ tiên
được xem như “một tơn giáo gia đình dich thực”, bên cạnh tục thờ thần linh
ín ngưỡng dân gian khác. Cùng với sự đổ vỡ của hệ thống chính
quyển vua - quan và sự sa sút của nển giáo dục Nho học, ở Hà Nội lúc
này những quan hệ đạo đức lễ giáo ngoài xã hội bắt đầu bị rạn nút, chí
cịn duy trì tương đối ổn định trong gia đình. Bức tranh ghép hình, đa sắc
về văn hố đơ thị đầu thế ki XX có những thay đổi chậm, pha trộn những
gam màu tối và sáng, thủ cựu và cách tân, truyển thống và hiện đại. Nhìn
chung, đó vẫn là đời sống văn hố của một đơ thị truyền thống đang trên
đà chuyển mạnh sang đô thị hiện đại mang tính chất tư bản thực dân,
chắp vá, đan xen giữa cũ và mới.
Những năm 1900-1906 là bước ngoặt lịch sử đối với điện mạo kiến
trúc đô thị Hà Nội. Hai khu phố Tây cũ và mới được hoàn chỉnh, với
những đường phố thống rộng, thiết kế theo kiểu ơ vuông bàn cờ, điểm
xuyết những quảng trường, vườn hoa, điểm trịn. Các cơng trình kiến trúc
trọng điểm khơng cịn bố trí thành từng cụm như ở thời kì trước mà trải
ra theo điểm trong toàn thành phố. Năm 1901, Hà Nội có 608 nhà người
Âu, 3.879 nhà người Việt (theo số liệu của Đốc lí Baille), 68 km đường
hồn thiện, 30 km đường ống cấp nước, 12 km cống thoát nước. Theo
báo cáo của Đốc lí Đơmecgơ năm 1904, tổng diện tích Hà Nội là 950 ha,
trong đó khu vực nhà ở (Pháp và Việt) chiếm 528 ha, khu quân sự 76 ha,
khu hành chính gần 37 ha, đường phố 114 ha. Tham vọng của Toàn quyền
Pháp là P.Doumer muốn biến Hà Nội thành một “Paris thu nhớ” cùng với
những nỗ lực tích cực của kiến trúc sư trưởng Auguste - Henri Vildieu va
kiến trúc sư Charles Lichtenfelder.
Phong cách kiến trúc đơ thị Hà Nội có sự thay đổi căn bản, chuyển
từ “chủ nghĩa duy lí cơng năng vị lợi” của cơng binh Pháp trước đó sang
phong cách tân cổ điển, với những cơng trình vững chắc, dáng vẻ bể thế,
Chương
5. Văn hóa Thắng long
- Hà Nội
135
nguyên mẫu châu Âu ở Pháp như Toà án, Phủ Toàn quyển, Nhà hát Lớn,
khách sạn Métropole, ga Hang Co.
Về kiến trúc nhà ở dân sự ở những khu phổ Tây phổ biến là kiểu biệt
thực (villa), diện tích rộng, thống, có vườn tược, nhà ở đáng vẻ Tây với
mái đốc đứng như nhà ở các xứ lạnh có nhiều tuyết... Ở các phố khác,
đất ở chật chội, nhà tầng có tường hoa chắn mái, phía trên cửa sổ có đắp
go khum vom.
Củng với sự thay đổi vể kiến trúc, nhà ở, về ẩm thực và trang phục
thời kì này có nhiều cách tân. Trong những gia đình trung lưu, khi thiết
đãi khách, ngồi những món ăn cổ truyền, đã xuất hiện một số món ăn
theo kiểu Tây, kiểu Tàu. Trang phục thời kì này bắt đầu có sự đổi khác,
một số người mặc theo kiểu Tây: đàn ơng cắt tóc ngắn, doi mai phat, cai
nơ đen. Tầng lớp thị dân vẫn ăn mặc theo lối cổ truyền: đàn ơng chít khăn
lượt thâm hoặc đóng khăn xếp, mặc áo the thâm, quần trắng cát bá hị
ic
trac bau, di giày Gia Định; đàn bà vấn khăn rẽ ngôi, áo cánh, yếm trắng,
hoặc đào, quần lĩnh Bưởi đen, khốc ngồi áo tứ thân màu đen hoặc nâu,
thắt lưng lụa, đội nón ba tẩm rộng vành quai thao, chân đi đép cong hoặc
quai chéo. Một số các bà, các chị thị dân Hà Nội đeo vòng, kiểng, khuyên
tai, nhẫn vàng, giất bộ xà tích bạc ở thắt lưng, Trang phục dân lao động
đơn giản, chủ yếu mặc áo cánh.
Trong khu phố cổ, các cửa hiệu phẩn lớn vẫn sản xuất và bày bán
những mặt hàng thủ công mĩ nghệ tính xảo, số lượng sản xuất ít. Thịnh
đạt nhất lúc bấy giờ là nghề khám xà cử của dân làng Chuyên Mĩ (Phú
Xuyên) ở phía Tây (nay là phố Hàng Khay) và nghề thêu trên vải lụa của
dân các làng Hướng Dương, Quất Động (Thường Tín) ở cuối phố Hàng
Trống ngày nay. Sự thịnh đạt của hai nghề này một phần là do những
hàng đặt gia công làm thửa cho một số nhà giàu mới nổi và các quan
chức, sĩ quan Pháp mua làm đổ lưu niệm khi về nước.
Thời kì kháng chiến chống Mĩ, Thủ đơ Hà Nội có vị trí chiến lược
quan trọng đối với cả nước, là nơi tập trung các cơ quan Trung ương
Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng Tư lệnh, các đại sứ quán, các cơ quan ngoại
giao; là nơi tập trung các đầu mối giao thông quan trọng như: sân bay Gia
136
GIAOTRINH HA NOI HOC
Gia Lâm. Với tẩm quan trọng của Hà Nội như vậy, để quốc Mĩ quyết tâm
tiêu diệt đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến, uy hiếp tinh thẩn đấu tranh
và làm lung lay quyết tâm kháng chiến của quân và đân ta. Khi đánh phá
Hà Nội, Mĩ còn nhằm phá huỷ nguồn dự trữ chiến lược to lớn về kinh tế.
và quốc phòng, phá huỷ những đầu mối giao thơng quan trọng để ngăn
chăn sự chí viện của miền Bắc và Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cho tién
tuyến ở miền Nam, Chính điều đó, khi tiến hành chiến tranh phả hoại
miền Bắc Việt Nam, để quốc Mĩ xác định Hà Nội là mục tiêu tổng hợp,
quan trọng bậc nhất. Hà Nội được chính quyển Mĩ coi là “con bài” quyết
định của cuộc chiến tranh nhằm gây sức ép đối với Chính phủ Việt Nam
dan chủ cộng hồ. Điều đó cho thấy, trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, Thủ đô Hà Nội giữ vị trí quan trọng
hang dau, trở thành biểu tượng cho sức mạnh của miền Bắc, là một trong
những chiến trường và địa bàn có tẩm chiến lược quyết định thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc ta.
Trong thời kì này, mặc đù chiến tranh ác liệt, sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Thủ đô Hà Nội vẫn tiếp tục phát triển.
Ngành giáo dục Thủ
đơ nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến. 100.000 học sinh
nội thành được sơ tán vể các trường học ở ngoại thành và các tỉnh lân
cận. Hoạt đông văn nghệ, thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh. Phong.
trào “Hếng hét át Hểng bom” vang lên khắp các nhà máy, xí nghiệp, làng
xã. Hội diễn văn nghệ các khu vực, tồn thành phố thường xun được
duy trì tổ chức. Phong trào ca hát chống Mĩ được tổ chức sâu rộng trong
thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên. Các đồn văn cơng tích cực phục.
vụ những đơn vị chiến đấu và đi vào chiến trường miển Nam. Các hoạt
động thông tin, tuyên truyền chiến thắng, tổ chức các lễ kỉ niệm truyền
thống biểu dương lực lượng của công nhân và thanh niên được các tầng,
lớp nhân dân Thủ đơ nhiệt tình tham gia.
Khi đất nước được hồn tồn giải phóng, cả dân tộc bước vào cơng
cuộc kiến thiết quốc gia trong khuôn khổ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp... văn hoá quần chúng được “quan phương hố”, chủ yếu
phục vụ cho các ngày kí niệm lớn của Đảng và dân tộc như kỉ niệm 600 năm.
ngày sinh của Nguyễn Trãi (6-10-1980), kỉ niệm thành lập Đảng (3-2),
Chương 5. Văn hóa Thăng Long- Hà Nội
137
sinh hoạt văn hố dân gian do quẩn chúng tự diễn xướng có phẩn lắng
xuống, nhất là các sinh hoạt văn hoá gắn với lễ hội và sinh hoạt tôn giáo.
Tuy vậy, các hình thức văn hố dân gian vẫn tiểm ẩn sức sống mãnh liệt
trong đời sống văn hoá Hà Nội như trò chơi dân gian, vẽ tranh dân gian,
điễn xưởng nghệ thuật dân gian (chèo, ca trù, múa rối)... Có loại hình
văn hố được bảo tổn và phát triển trong các hoạt động chun nghiệp,
có loại hình được lưu giữ trong đời sống dân gian.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, Hà
Nội vẫn giữ
vị trí là thú đơ của nước Việt Nam hiện đại.
Trong một
nghìn năm từ 1010 đến 2010, Thăng Long - Hà Nội ln là một trung,
tâm quyển lực trong đó có 843 năm là kinh đô của nước Đại Việt (từ
1010 đến 1788) và nước Việt Nam (từ 1945 đến 2010). Đây là một đặc
điểm nổi bật về vị thế lịch sử của Thăng Long - Hà Nội. Vai trị trung
tâm chính trị, văn hoá lâu đời của Thăng Long - Hà Nội không những
đã đệt nên những trang sử vàng mà còn để lại cho Thăng Long - Hà Nội
một di sản văn hố đổ sơ, có giá trị.
5.2. Di sản văn hố Thăng Long- Hà Nội
Với vai trị trung tâm văn minh, trung tâm quyển lực, kinh thành lớn
gần như liên tục trong suốt hàng nghìn năm đã tạo nên bể đày lịch sử,
văn hoá đặc thù của vùng đất Thăng Long - Hà Nội, đây cũng là nơi chúa
đựng kho tàng di sản văn hoá phong phú, đa dạng mang giá trị hội tụ,
chat lọc, kết tinh, tiêu biểu và toả sáng của dân tộc. Theo Luật Di sảm vin
hố, dì sản văn hố Thăng Long - Hà Nội bao gồm hai loại hình: đi sản vật
thể và di sản phi vật thể. Đây
là cách phân loại có tính tương đối vì trong.
di sản vật thể cũng chứa đựng di san phi vat thể và di sản phi vật thể cũng,
bảo tổn và lưu truyền qua các hình thái vật thể.
5.2.1.Disản vậtthể
Di sản vật thể trên
gian, chiến tranh, sự phá
được bảo tổn khơng cịn
Cổ Loa, một số đoạn La
mặt đất ở Hà Nội trải qua thử thách của thời
huỷ của con người, cho đến nay số lượng di sản
nhiều. Dĩ tích kinh đơ chỉ cịn lại ba vịng thành
Thành, Hồng thành, nền điện Kính Thiên, cửa
138
GIAOTRINH HA NOI HOC
hổ Hoàn Kiếm đã bị Lê Chiêu Thống đốt cháy năm 1787. Thành Hà Nội
bị chính quyển thực dân Pháp phá huỷ gần như san bằng năm 1895-1897,
chỉ cịn lại Cửa Bắc (Chính Bắc Mơn) và Kì Đài (Cột Cò), Thành Mê Linh
của nhà nước Trưng Vương, thành Vạn Xuân của nhà nước Vạn Xuân chỉ
để lại đấu
ấn qua một số địa danh và phế tích... Theo chính sử và các tài
liệu địa chí, nhiều cung điện, chùa quán, đình, đến xây dựng trên mảnh
đất kinh thành đã bị phá huỷ hoàn toàn hoặc trải qua nhiều lần trùng tu
và yếu tí ic con lại khơngnỉ
Ngơi chùa Khai Quốc cổ nhất
ở Hà Nội
do Lý Nam Đế xây dựng đã được chuyển từ sơng Hồng về vị trí ngày nay
cũng đã qua bao lần trùng tu. Tháp Báo Thiên với đỉnh tháp bằng đồng
là một trong “tứ đại khí” đã bị san phẳng. Chùa Một Cột (Diên Hựu) nồi
tiếng cũng đã qua nhiều lần sửa chữa và chùa Báo Ân mới xây dựng vào
giữa thếki XIX với quy mơ khá đồ sộ bên hổ Hồn Kiếm cũng bị vùi lấp chỉ
cịn dấu tích duy nhất là tháp Hồ Phong. Trong tình trang di sản vật thể
trên mặt đất bị tổn hại nghiêm trọng như vậy thì những gì cịn lại đến nay
là vơ cùng q giá và cẩn được bảo tổn, trùng tu một cách nghiêm chỉnh
để giữ lại những hình ảnh chân xác và lưu lại một sí
ù tố gốc của di
tích cho mai sau, Một số di tích kiến trúc cố truyền có giá trị tiêu biểu như
Văn Miếu (Nho giáo), chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Lý Quốc Sư,
chùa Bà Đá, chùa Láng (Phật giáo), quản Trấn Vũ (Đạo giáo), đình Yên
Thái, đến Hai Bà Trưng, đến Ngọc Sơn, đến Phù Đổng (tín ngưỡng dân
gian). Trong số các di tích kể trên, 82 bia đá ghỉ lại tên tuổi những người
đỗ đâu qua các khoa thỉ tiến sĩ triểu Lê sơ - Mạc - Lê Trung Hưng (1442-1779)
tại Văn Miếu - Quốc Từ: Giám đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới ào
nam 2010.
Các di tích vật thể cịn lại tương đổi nguyên gốc và toàn vẹn đến nay
là một số kiến trúc thời Pháp thuộc và các di tích cách mạngy, kháng chiến.
Thời Pháp còn để lại một số kiến trúc mang phong cách cổ điển, tân cổ,
điển của phương Tây và xu hướng kết hợp Đơng - Tây thích nghỉ với điểu
kiện tự nhiên, khí hậu nhiệt đới, mơi trường văn hố bản xú. Trong di sản
này cịn có những cơng trình đổ sộ có giá trị kiến trúc cao như: Phủ Toàn
quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Phủ Thống sứ Bắc Kì (nay là Bộ Lao động Thương bình - Xã hội và Nhà khách Chính phủ), Nhà hát Thành phố, Đại
Chương
5. Văn hóa Thắng long
- Hà Nội
139
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Sở Tài chính Đơng Dương (nay là Bộ Ngoại
giao), Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước), cẩu Paul
Doumer (nay là cầu Long Biên). Ngoài ra cịn có những kiến trúc nhà ở
khu phố Tây (quận Hai Bà Trưng, thường gọi là khu phố cũ) và các biệt
thự (tập trung ở quận Đống Đa)!
Từ thếki XIX, khi đạo Thiên Chúa truyền bá vào Hà Nội, xuất hiện
một
số kiến trúc mới là nhà thờ Cơng giáo, tí
biểu là nhà thờ Chính
tồ (nhà thờ Lớn), nhà thờ Cửa Bắc. Trong số các di tích cách mạng và
kháng chiến có 265 di tích gắn liền với các sự kiện lớn trong thời kì cách
mạng và kháng chiến, trong số đó có 38 di tích đã xếp hạng cấp quốc
gia và cấp thành phố, Loại hình di tích này tập trung ở quận Hồn Kiếm
(49 di tích), huyện Đơng Anh (43 di tích), quận Ba Đình (25 di tích), quận
Hai Bà Trưng (25 di tích), quận Đống Đa (12 di tích). Những cơng trình
có giá trị tiêu biểu là số nhà 90 phố Thợ Nhuộm, nơi Tổng Bí thư Trần
Phú soạn Luận cương cách mạng tư sản dân quyền tháng 10-1930; nhà số.
48 Hàng Ngang, nơi Chủ tịch Hổ Chí Minh viết Tiyên ngôn Độc lập, khu
nhà sàn và nơi làm việc của Chủ tịch Hổ Chí Minh, nhà hầm D67, Tổng
hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến giải phóng
miển Nam thống nhất đất nước.
Theo phân loại của Luật Di sản ăn hoá (điều 28), các di tích văn hố
vat thể gồm di tích lịch sử văn hố, cơng trình kiến trúc nghệ thuật và di
tích khảo cổ học, Cho đến đầu năm 2010, vùng Hà Nội chưa mở rộng có
549 di tích được xếp hạng cấp quốc gia!. Như vậy Hà Nội đứng đầu cả
nước về số lượng các di tích quốc gia. Thêm vào đó là 219 di tích được xếp
hạng cấp thành phố. Đặc biệt, trong số các di tích trên có 2 di tích nằm
trong số 10 di tích cấp quốc gia đặc biệt được xếp hang dau tiên vào năm
2009 gần Khu Di tích Trung tâm Hồng thành Thăng Long và Khu di tích
Chủ tịch Hổ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch. Dù bị phá huỷ, hư hại nhiều
' Traits điarchitecture, Ha noi š Vheure írancaise (2009), Kiểi lric cúc cổng trình xây tưng tat
Hà Nội (1875-1945), Nxb Thế giớ , Hà Nội
° Ban quan lỉ di tích và danh thắng Hà Nội (2000), Di tích lịch sử nữ hố Hà Nội, Nxb Chính.
trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Chí Bến (chủ biên) (2010), Bảo tôn nử phút huy giá trị ỉ sản tim
140
GIAOTRINH HA NOI HOC
qua thời gian, số lượng, mật độ phân bố cũng như giá trị lịch sử, văn hoá
của các di tích vẫn được bảo tổn, đặc biệt ở “vùng lõi” của Hà Nội.
Bộ phân quan trọng đi sản vật thể được bảo tổn trong lòng đất cho đến
nay vẫn chưa có cuộc tổng kiểm tra, đánh giá tồn bộ. Nhìn chung, trong
phạm vi trung tâm của kinh thành xưa, di sản khảo cổ học có trữ lượng lớn
và giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu lịch sử, văn hoá Thăng Long
~ Hà Nội. Trên thực tế, từ những phát hiện ngẫu nhiên trong đào đất làm
đường, xây dựng nhà cửa đến những cuộc điểu tra thám sát và khai quật
của các nhà khảo cổ học đã đủ chứng thực điểu đó. Cuối thếki XIX, khi mở
vườn Bách Thảo đã tìm thấy một cột đá chạm rồng, đầu thế kỉ XX lại sim
thấy một lan can đá chạm sấu mang phong cách trang trí thời Lý. Trong
nửa đầu thế kỉ XX, tại Ngọc Hà đã tìm thấy trống đồng Đông Sơn; tại khu
Quần Ngựa và vùng Vạn Phúc, Hữu Tiệp, Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai...
cũng tìm thấy những đổ gốm sứ, gạch ngói... thời Lý - Trần. Từ giữa thế kỉ
XX đến nay, ngoài các phát hiện tình cờ, đã có nhiều cuộc điểu tra thám sát
và khai quật quy mô về khảo cổ học. Hai khu vực tập trưng nhiều di tích
khảo cổ học nhất là khu thành Cổ Loa và đặc biệt là khu Trung tâm Hoang
thành Thăng Long. Tại đây, nhiều di tích kiến trúc cung đình và các di vật
thuộc loại hình vật liệu xây dựng, đổ dùng, cơng cụ, vũ khí,... đã được
phát lộ. Năm 2010, Khu Di tích Trung tâm Hồng thành Thăng Long - Hà Nội
đã được LINESCO công nhận là Di sản păn hoá thế giới. Kho tầng di tích, di vật
trong lịng đất Hà Nội rất phong phú, nhất là vùng trung tâm kinh thành
'Thăng Long và vùng cố đô Cổ Loa nên việc bảo vệ, bảo tổn các di sản này
cẩn được đặt ra một cách nghiêm túc, bài bản trong quy hoạch Hà Nội, cẩn
hình thành một bản đổ quy hoạch khảo cổ để sớm thực hiện việc xây dựng
Có thể nói rằng có cả một Thăng Long - Hà Nội cổ trong lòng đất, tuy hấu
hết dưới dạng phếtích nhưng mang nhiều giá trị lịch sử, văn hoá chân thực
để hiểu biết sâu sắc về đất Thăng Long nghìn năm văn vật.
Trong hệ thống di sản vật thể, Hà Nội cịn có một số danh thắng
tiêu biểu cho cảnh quan thành phố sông - hổ, thành phố nước. Hổ Hoàn
Kiếm với tháp Rùa, tháp Bút, Dài Nghiên, đến Ngọc Sơn và màu nước
Lục Thuỷ cùng hàng cây cổ thụ bên bờ hổ được coi như một biểu tượng
của Hà Nội truyền thống, một không gian thiêng của đất kinh kì. Hổ Tây
Chương
5. Văn hóa Thắng long
- Hà Nội
141
mênh mang trong hư ảo của huyền thoại, truyền thuyết cáo chín đi,
trâu vàng... bao quanh hổ là hàng loạt các đền, miếu, chùa, quán và làng,
nghề nổi tiếng. Nhà thơ Cao Bá Quát đã coi “Tây Hồ chân cá thị Tây Thủ”
(Hổ Tây thật là một nàng Tây Thi). Cảnh sắc hổ Tây là nguồn cảm hứng,
vô tận, tạo nên các tác phẩm nổi tiếng về thi ca, nhạc, hoạ của mọi thời.
Đáng tiếc là di sản thiên nhiên sông - hổ của Hà Nội hấu như chưa được
chăm sóc, bảo tổn nên phần lớn đã bị b‹ lấp, xâm lấn và bị ô nhiễm nặng.
nể. Sông Tô Lịch gắn bó với cuộc sống của Thăng Long như một dịng
sơng của huyết mạch giao thơng, một dịng chảy văn hố, một dải lụa bao
quanh kinh kì thấm đậm chất văn học dân gian, đến nay dù có kè đá kiên
cố cũng chỉ cịn là dịng sơng chết, bị ơ nhiễm nặng nể.
Bảng 5.1: Thống kê di sin văn hoá vật thể
đã xếp hạng của Ha Ni
m 20157
Téng ditich | Tổngđitíhđá | Disảnvänhố | Ditich ip
Ditich
Ditch
lichsitvan hoá | đượcxếphạng | thếgiới _|qudcgiadacbiét| cépquicgia_| cipthanh phé
592
2386
0
"
1182
1202
Một loại hình của di sản vật thể phong phú và đặc sắc nữa của Thăng.
Long - Hà Nội là ẩm thực. Các du khách phương Tây đến Kẻ Chợ như
Dampier (théki XVII) hoặc Sant Phalles (thếki XVIII) đều khen các món
ăn Kinh Kì là “ngon và sạch”. Họ cũng chú ý đến những món ăn dân dã
độc đáo có phẩn lạ lẫm với người phương Tây như các loại nước mắm,
mắm tơm, cá gỏi, thịt chó và châu chấu. Nét đặc sắc của các món ăn Kẻ
Chg là cách chế biến mang tính tổng hợp, có phẩn cẩu kì, kén chọn, bổ
sung nhiều hương vị hấp dẫn ngon miệng, số lượng không nhiều nhưng,
chất lượng tỉnh xảo. Kẻ Chợ nổi
tiếng về các món cỗ nấu, thức ăn đặc sản
và các loại quà, bánh. Thịt bò tải Mai Động và Cầu Dền; cá, ốc Hồ Tây,
đầm Sét; các loại bún Tứ Kì (Thanh Trì), Phú Đơ (Từ Liêm) được chế biến
thành các món được nhiều người ưa thích. Trong các đặc sản phải kể
đến các loại rượu sen, rượu cúc ở các làng Mơ (rượu Hoàng Mơ, cờ Mộ
Trạch), làng Thụy, làng Vịng; các loại trà uống Lương Quy (Đơng Anh),
Đơng Lạc (Sóc Sơn); bành phục linh (bánh đậu xanh) Hàng Đường dùng
để tiến vua, bánh cuốn Thanh Trì, cổm Vòng... đều đã từng nổi tiếng.
'_UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hoá và Thế thao (2016), Danlt mục di sắn ăn hố phí gật thể
142
GIAOTRINH HA NOI HOC
Uổng trà, ăn trẩu, hút thuốc không chỉ là những thú vui thanh tao
mà còn là phương tiện hữu hiệu trong ứng xử, giao tiếp của người Kẻ
Chợ. Người uống trà rất kĩ lưỡng từ việc chọn các loại trà nổi tiếng, chọn
nước để pha trà đến việc chọn cách đun, pha, chuyên trà, chọn bộ đổ ấm
chén pha trà (các loại gốm sứ Bát Tràng và những gốm sứ Trung Hoa,
Nhật Bản có khi đặt mua từ những tàu bn nước ngồi). Người Thăng
Long đã nâng việc uống trà thành một nghệ thuật, một triết lí sống.
Không những ăn ngon mà người Thăng I.ong - Kẻ Chợ cũng sành
điệu trong cách mặc và phục sức. Theo luật lệ đẳng cấp, chỉ có tầng lớp.
quan lại mới được mặc gấm vóc đắt tiển (gấm Vạn Phúc hoặc gấm Trung,
Hoa). Màu sắc trang phục được quy định theo phẩm trật: Vua dùng màu
vàng, đại thẩn dùng màu tía, quan thường dùng áo thanh cát (màu xanh).
Trước ngực áo vua, quan có gắn một miếng vải gọi là bố tử thêu các hình
mng thú để phân biệt phẩm trật: quan văn thêu hình các lồi chim
(yểng, cị, vet, nhạn, cơng, hạc...), quan võ thêu hình các lồi thú (beo,
gấu, báo, hổ, sư tử, kì lân, nghệ). Ngồi áo, quần các quan cịn có khăn,
mũ, giày, hài. Quan văn và các tiến sĩ tân khoa được ban loại mũ cảnh
chuổn. Quan lại và cả người bình dân khi đi ra ngồi thường đeo bên
mình một túi vải nhỏ đựng trầu thuốc gọi là hà bao (đây), túi này bán
nhiều ở phố Hà Bao (phố Hàng Đẫy) gần của Đại Hưng.
Tầng lớp bình dân sử dụng quần áo có chất liệu và màu sắc giản dị
hơn. Đàn ông thường mặc quần áo bằng vải thô để mộc (không nhuộm,
màu trắng hoặc ngà), nhuộm thâm (đen) ở làng Võng Thị (ven hổ Tây)
hoặc màu nâu non, nâu già ở làng Đồng Lầm (Kim Liên). Nam giới mặc
quần lá toạ, đi chân đất. Theo Phạm Đình Hổ, cuối thời Lê Trung Hưng,
tăng lớp vương, công, khanh, sĩ ưa dùng áo thanh cát màu quỳ (màu
sừng), không dùng màu hoả minh (xanh sẫm), vĩ minh (xanh nhạt)". Khi
đi ra đường, trên đầu tấng lớp thị dân chít khăn đầu rìu, khăn chữ “nhân”,
khăn xếp, đội nón, đơi lúc dé dau tran, búi tóc. Trang phục của nữ Thăng
Long thường cẩu kì và chải chuốt hơn. Họ mặc yếm (màu trắng hoặc
đào), áo cánh, váy (chất vải được wa chuộng là lĩnh bưởi), ra đường họ
mặc áo dải tứ thân, thắt lưng hầu bao. Màu sắc được nữ giới ưa chuộng
Chương 5. Văn hóa Thắng long- Hà Nội
143
là đỏ pha sắc đào (điều) và hoa hiên, màu xanh pha sắc thiên thanh, hoa lí
hoặc lam giang. Có nhiều loại đổ trang sức dành cho phụ nữ như khuyên,
vòng, vàng, xà tích bạc. Người khá giả ra đường thường đi giày hoặc hài.
Cũng theo sự ghỉ chép của các giáo sĩ phương Tây Baldinotti, A.de
Rhodes, nhà ở tại Thăng Long - Hà Nội thế kỉ XVII - XVIII dai bd phan
đều làm bằng tre nứa, mái lợp tranh và vách trát đất, nhà của gia đình
khá giả, quan lại được dựng bằng gỗ, nhà của phú thương Hoa Kiểu được
xây bằng gạch ngói. Ở khu bn bán phía đơng, mật độ dân cư đông đúc,
mặt tiển nhà thường hẹp (khoảng 2-3 m), nhưng sâu lịng (25-30 m), đó
là kiểu nhà ống. Chiểu cao nhà thường thấp (do luật lệ đẳng cấp), có hai
mát hiên và hai lớp nóc gọi là “tràng thiểm điệ
âm thành nhà
“chồng điêm”). Nhà ngăn thành nhiều gian theo chiểu dọc, cách nhau
bằng những khoảng sân trời, trong nhà bày các chậu cây cảnh, hòn non
bộ, bể cá. Gian ngoài vừa là cửa hàng vừa là nơi sản xuất hàng hố. Gian
chính có bàn thờ tổ tiên, bộ ghế tràng kỉ dùng để tiếp khách, có những
buồng nhỏ kín đáo dành cho phụ nữ. Phía sân sau có bếp, mảnh vườn
nhỏ trồng rau, hoa, giếng nước và khu vệ sinh. Ra khỏi khu vực phố cổ,
đất đai rộng rãi, nhà cửa thoáng rộng hơn, dựng theo chiểu ngang theo
kiểu truyển thống, thường có thêm vườn cây, ao cá (thổ trạch viên trì).
5.2.2. Disản phi vật thể
Di sản phí vật thể là sản phẩm tỉnh thần, gồm nhiều loại hình: truyền
thuyết, huyền thoại, văn học dân gian, lễ hội, nghệ thuật trình diễn, cơng
trình khoa học, trí thức về tự nhiên xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập
quán, nghề thủ công truyền thống... Di sản này được lưu truyền qua các
thế hệ dưới phương thức truyền khẩu, truyển nghề, trình diễn hoặc được
bảo tổn qua các hình thái vật thể như văn bản, văn bia, di vật,... gắn liễn
với cuộc sống cộng đồng dân cư.
Kho tàng văn học dân gian Hà Nội rất phong phú, đủ thể loại như
huyền thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, giai thoại, ca dao,
tục ngữ, dân ca, hò, về... Kho tàng này tổn tại và phát ïn qua truyền