HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
----------------------------------------
THU HOẠCH
MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ XÂY DỰNG
CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
NÊU VÀ PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ tên học viên: Nguyễn ………………..
Mã số học viên: MP 22 …………………..
Lớp: Cao học XDĐ & CQNN ……………………………
HÀ NỘI – 202….
2
MỞ ĐẦU:
Trong các xã hội có phân chia giai cấp và đối khang giai cấp, các giai cấp thống
trị bao giờ cũng thành lập và duy trì bộ máy nhà nước để củng cố và giữ vững địa vị
thống thống trị cũng như bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Nhà nước thực chất là hình
thức tổ chức chính trị - xã hội do lực lượng nắm quyền kinh tế, chính trị, xã hội thành
lập nhằm để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Nó gắn liền với chế độ tư
hữu hay sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất trong xã hội và những lợi ích khác nhau
giữa các giai cấp trong một chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Do đó, về phương diện bản
chất, Nhà nước bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp thống trị. Về phương diện
chính trị - hành chính, Nhà nước là một bộ phận trung tâm của hệ thống chính trị, nắm
giữ quyền quản lý nhà nước trong toàn xã hội. Đây là đặc điểm cơ bản để có thể nhận
diện nhà nước với các tổ chức xã hội khác.
Ở mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau có một kiểu nhà nước nước mang bản
chất giai cấp khác nhau do chế độ chính trị và giai cấp thống trị quy định. Ở các nước
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ chủ yếu để thiết lập và tổ chức thực hiện dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Ở nước ta, sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và thành lập Nhà nước Việt Nam mới lấy tên Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, nay là Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một nhà nước
kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á.
Nhằm hiểu rõ bản chất và chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tơi chọn chủ đề: “Nêu và phân tích chức năng của Nhà nước Việt Nam
hiện nay” làm bài thu hoạch của mình cho mơn học: Lý luận chung về Nhà nước và
chính quyền Nhà nước.
3
NỘI DUNG:
1. Khái quát bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể hiện và
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Điều 2 Hiến pháp 2013
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức”. Mặt khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo và
thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, ... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Đó là bản chất của Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất
này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam lấy liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực hiện chính sách đại đồn kết toàn dân tộc. Đây là
nguyên tắc hiến định, thể hiện tính giai cấp của Nhà nước và sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tính giai cấp với tính dân tộc và tính nhân dân của Nhà nước Cộng hồ chủ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ hai, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền cùa nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà
nước. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân tổ chức ra và vì lợi ích
của nhân dân. Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước
4
và quản lý xã hội, bảo đảm quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực
sự có quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.7, tr.434). Theo
Người, ở nước ta, mọi quyền hành và lực lượng đều là của nhân dân, từ nhân dân mà
ra. (...). Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc
của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân”
(Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.6, tr.232) .
Người còn khẳng
định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng,
đều là cơng bộc của dân ... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại
đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới u ta,
kính ta” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr. 64-65).
Thứ ba, dân chủ là thuộc tính của Nhà nước Cộng hồ chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia đông đảo vào các công việc của Nhà
nước và xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân
là mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để lãnh
đạo và tổ chức lực lượng xây dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà nước phải dựa
vào mọi nguồn lực của nhân dân để phục vụ nhân dân. Nhà nước phát huy dân chủ đến
cao độ mới động viên được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
Thứ tư, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống
nhất của các dân tộc Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng và đồn kết
giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Điều 5 Hiến pháp
2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn
5
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc”.
Thứ năm, mục tiêu của Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập và tồn vẹn lãnh thổ, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách hồ bình, hữu nghị, mở
rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước.
Điều 12 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập,
hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng
can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Tóm lại, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những tổ
chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một công
cụ quản lý mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó nhân
dân thực hiện quyền lực và lợi ích của mình, cũng qua đó mà giai cấp cơng nhân và
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội về mọi mặt.
2. Những chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước,
thể hiện bản chất, mục đích của nó, được quy định bởi thực tế khách quan của tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và tình hình quốc tế từng giai đoạn phát triển.
6
Về nguyên tắc, do mỗi nước và trong từng giai đoạn đoạn phát triển có những đặc
điểm và hồn cảnh khơng hồn tồn giống nhau, cho nên nội dung các chức năng của
nhà nước cũng có những điểm khác nhau về mức độ, phạm vi, tầm quan trọng và
phương pháp tổ chức thực hiện. Song, nhìn tổng thể, nhà nước có hai nhóm chức năng
sau:
2.1. Các chức năng đối nội của nhà nước
Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất
nước, thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
2.1.1. Bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an tồn xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc là một trong những chức năng cơ bản quan trọng nhất của nhà
nước. Đó là những phương diện hoạt động của nhà nước nhằm mục đích chống lại các
thế lực thù địch bên ngoài, nhữn âm mưu chống phá từ bên trong, nhằm giữ vững độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đối với nhà nước Việt Nam hiện
nay, bảo vệ Tổ quốc lại càng có vai trị cấp thiết và ln được đặt lên hàng đầu. Nó bắt
nguồn từ yêu cầu của sự phát đất nước cũng như từ thái độ của kẻ thù, của các thế lực
phản động, thù địch đối với nước ta và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Muốn tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta
phải bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên đất nước. Nhà nước phải có đủ
sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo
ổn định chính trị - xã hội và tạo những điều kiện thuận lợi cho nhân dân sản xuất kinh
doanh.
Muốn vậy, Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực lượng vũ trang, an ninh
vững mạnh tồn diện, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có bộ phận đi
thẳng vào hiện đại, đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Đảng ta, trong nhiều
văn kiện đều khẳng định: Củng cố quốc phịng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định
chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, nhà
7
nước, của cả hệ thống chính trị và của tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng
an nhân dân là nòng cốt. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan
trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, tồn dân và tồn quân ta thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình
nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa . Đồng thời, Đảng ta cũng
chỉ rõ, phải xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật, phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
2.1.2. Bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Đây là một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; bởi vì, việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất của nhà
nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Với quan niệm dân
chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ, Hồ Chí Minh khơng chỉ đặt nhân dân lên vị
thế chủ thể xã hội, mà cịn nói rõ mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời giữa vị thế
chủ thể xã hội của nhân dân với hành động làm chủ xã hội của nhân dân. Người khẳng
định: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”, là lợi ích thiết thực của nhân dân,
là động lực thúc đẩy nhân dân hành động vì đất nước, vì dân tộc. Với Hồ Chí Minh,
dân chủ là động lực không chỉ cho những thành công của cách mạng giải phóng dân
tộc, mà cả cho những thành cơng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất
nước Việt Nam.
Đồng thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước
trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại,
phát triển của bản thân Nhà nước và chế độ. Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối
liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
8
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
Chính vì thế, Văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ rõ: 5 bài học kinh nghiệm quý báu
đã được đúc kết, trong đó có bài học thứ hai là: “Trong mọi công việc của Đảng và
Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sau sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là
trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi chủ
trương, chính sách phải xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt
chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã
hội chủ nghĩa” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr 2728).
2.1.3. Bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là chức năng, nhiệm vụ quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, liên
quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước. Pháp luật là
phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả các chức
năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực quản
lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một
cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội bằng pháp luật. Kỷ cương (kỷ luật) là biểu hiện của tự do đúng theo nghĩa
vận hành trong một xã hội lành mạnh. Dân chủ khơng có nghĩa là có tự do tuyệt đối.
Tự do đúng nghĩa chính là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu, nghĩa là suy
nghĩ và hành động theo đúng quy luật của tự nhiên và xã hội. Nếu làm trái, không chỉ
9
ảnh hưởng xấu đến tự do của toàn xã hội và những người xung quanh, mà còn làm mất
tự do của chính mình. Kỷ cương phải gắn liền với pháp chế, mà pháp chế ở nước ta là
pháp chế trong sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân; pháp luật là tối thượng trong xã hội.
2.1.4. Tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng đầu và
là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm xây dựng một
xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao. Ở nước ta hiện nay, nhà nước
không những là tổ chức của quyền lực chính trị, mà cịn là chủ sở hữu các tư liệu sản
xuất chủ yếu; trực tiếp tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước. Việc tổ chức và quản
lý kinh tế của nhà nước ta là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm cải tạo quan hệ sản xuất bóc lột, để xác lập củng cố
và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu của người lao
động.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng rất
khó khăn và phức tạp, địi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn các vấn đề có tính quy
luật của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Đồng thời phải có những
chính sách, phương pháp và biện pháp phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nội dung của chức năng tổ chức
và quản lý kinh tế của nhà nước rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, trong đó cần tập trung
vào những vấn đề sau: (1) Phải tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu
hợp lý, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh từng vùng miền và bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển ổn định. (2) Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử
dụng và phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý, định hướng của Nhà nước. (3) Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng bảo đảm
tính kế hoạch trong quản lý kinh tế quốc dân, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa
- tiền tệ - thị trường. (4) Mở rộng và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
10
2.1.5. Tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Đảng ta đã chỉ rõ: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là xã
hội có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và cơng nghệ tiên tiến; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi sự áp
bức, bóc lột, bất cơng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục
đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và cơng nghệ, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của
nhân dân nhằm phát triển toàn diện con người vừa có đức, vừa có tài phụ sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức quản lý
văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội.
2.2. Các chức năng đối ngoại của nhà nước
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà
nước và dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ
quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân loại thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
Chức năng đối ngoại của Nhà nước ta gồm những nội dung cơ bản:
2.2.1. Bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm
lăng từ các quốc gia bên ngoài.
Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà nước phải chăm lo xây dựng và củng cố khả
năng quốc phòng của đất nước, phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của nhân dân; giáo dục quốc phòng và an ninh cho tòan dân; thực hiện chế
11
độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội. Xây dựng cơng nghiệp quốc
phịng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp kinh tế với quốc phòng và đối
ngoại, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ, công nhân, nhân
viên quốc phòng. Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước
trong mọi tình huống.
2.2.2. Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả
các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên ngun tắc cùng tồn tại hịa bình,
tơn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở kiên trì
đường lối độc lập tự chủ và đồn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời
gian tới là giữ vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST, H1991, tr.88).
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích
quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
2.2.3. Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì trật tự
thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hịa bình và tiến bộ xã hội trên thế
giới.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều vào
cộng đồng thế giới. Vì vậy, bất cứ nhà nước tiến bộ nào cũng đều có nghĩa vụ ủng hộ
phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
12
không tách rời sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới. Ngày nay, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên
thế giới cùng phấn đấu vì một thế giới hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Vai trò,
vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng cao. Do đó, thơng qua vai trị, tiếng
nói của mình tại các tổ chức, diễn đàn quốc và khu vực, Nhà nước ta sẽ góp phần tích
cực chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống sự áp đặt của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chống chính sách gây chiến và chạy đua vũ
trang, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
KẾT LUẬN:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa có nội dung, nhiệm vụ rất rộng và phức tạp, do đó
những chức năng của nhà nước cũng rất phong phú và đa dạng. Chức năng nhà nước
là một khái nhiệm quản lý, trong đó nội dung, mục đích của quản lý nhà nước được
biểu hiện một cách cụ thể. Vì vậy có thể nói, các chức năng của nhà nước là những
"con kênh" thơng qua đó hoạt động quản lý của nhà nước được thực hiện nhằm định
hướng các hoạt động của đất nước phát triển theo mục tiêu đã định.
Mặc dù mỗi chức năng của nhà nước đều có đối tượng tác động riêng, nhưng các
chức năng đều có mối liên hệ qua lại mật thiết với nhau, ảnh hưởng, tạo tiền đề lẫn
nhau, không thể tách rời nhau. Tất cả các chức năng nhà nước hợp thành một hệ thống
thống nhất thể hiện bản chất và những nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa ...
Để thực hiện các chức năng đó của Nhà nước, một hệ thống các cơ quan nhà
nước tương ứng được thành lập. Tuy nhiên, cần phân biệt chức năng của nhà nước nói
chung với chức năng của các cơ quan nhà nước. Chức năng nhà nước tồn tại một cách
khách quan, phản ánh bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những mặt hoạt
13
động rộng lớn có tính chất định hướng lâu dài. Một chức năng chung của nhà nước có
thể do nhiều loại cơ quan nhà nước với các chức năng và nhiệm vụ cụ thể khác nhau
thực hiện. Còn chức năng của các cơ quan nhà nước bao giờ cũng phụ thuộc vào chức
năng của nhà nước nói chung, được thành lập để thực hiện một hay một vài nội dung
của các chức năng của Nhà nước. Việc thực hiện chức năng của các cơ quan nhà nước
suy cho cùng là nhằm để thực hiện chức năng của nhà nước nói chung. Vì các chức
năng nhà nước thống nhất với nhau, cho nên các cơ quan nhà nước trong khi thực hiện
các chức năng đó cũng có sự quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau, tạo thành hệ thống
các cơ quan nhà nước thống nhất và đồng bộ./.