Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tieu luan mon cong tac tu tuong cua dang trong giai doan hien nay công tác văn hoá, văn nghệ của đảng và thực trạng xây dựng văn hoá công sở ở trường chính trị sóc trăng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.96 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MÔN: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
ĐỀ TÀI:
CƠNG TÁC VĂN HỐ, VĂN NGHỆ CỦA ĐẢNG VÀ THỰC TRẠNG
XÂY DỰNG VĂN HỐ CƠNG SỞ Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
SĨC TRĂNG HIỆN NAY

Họ và tên học viên: Lê ………..
Mã số học viên: MP22……………
Lớp: Cao học XDĐ&CQNN ………………………

ST – 202....


i

MỤC LỤC
*
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
5. Ý nghĩa của đề tài................................................................................3
6. Kết cấu tiểu luận..................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................4


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠNG TÁC VĂN HỐ, VĂN
NGHỆ
CỦA ĐẢNG....................................................................................................4
1.1. Vị trí, vai trị và nhiệm vụ của văn hoá – văn nghệ trong đời sống
xã hội ......................................................................................................4
1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về cơng tác văn hố, văn nghệ
trong thời kỳ đổi mới đất nước................................................................10
CHƯƠNG 2. LIÊN HỆ CƠNG TÁC XÂY DỰNG VĂN HĨA CƠNG SỞ
Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ SĨC TRĂNG HIỆN NAY.............................16
2.1. Khái qt về Trường Chính trị Sóc Trăng........................................16
2.2. Những thành tựu, hạn chế và ngun nhân của xây dựng văn hố
cơng
sở tại Trường Chính trị Sóc Trăng...........................................................17
2.3. Phương hướng và giải pháp góp phần xây dựng văn hố cơng sở
Trường Chính trị Sóc Trăng trong thời gian tới......................................22
KẾT LUẬN....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................26


1

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính quyền, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết phát triển văn hóa với
xây dựng, phát triển kinh tế xã hội; phải xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ
thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống
văn hóa trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, trong cán bộ,

đảng viên, công chức, viên chức.
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã khẳng định:
“Quan hệ giữa vǎn hóa và kinh tế, chính trị...vǎn hóa là một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, vǎn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Trong Thư gửi
các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể
đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.
Kế thừa những quan điểm đó, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu sự đổi mới toàn diện tư duy lý luận
của Đảng, trong đó có vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con người. Vấn đề
văn hóa biểu hiện cụ thể, gồm: sự nghiệp giáo dục, hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Mặc dù chưa thể hiện rõ quan điểm xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế,
nhưng Đại hội đã đặt vấn đề hiệu quả của hoạt động văn hóa trong mọi hoạt
động xã hội, trong đó có chính trị và kinh tế. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt động văn hoá, văn nghệ
đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm,
nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”.


2

Tư tưởng đổi mới tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đề ra đúng
vào lúc UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 - 1997)
với định hướng lớn là văn hóa vì sự phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa và đa
dạng văn hóa. Sự thay đổi cách nhìn về vai trị của văn hóa là cực kỳ quan trọng,
thể hiện tầm nhìn, tầm tư duy bắt nhịp với xu thế thời đại. Tại Hội Trung ương 4
khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trị quan trọng của văn hóa, coi

“Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển một nền văn hoá, văn nghệ đáp ứng đời
sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng về lĩnh vực văn hoá.
Đồng thời cũng là nhiệm vụ cơ bản của từng ngành, từng đơn vị đối với lĩnh vực
văn hố của xã hội, xây dựng văn hố cơng sở là rất cần thiết. Vì vậy, qua việc
học tập môn Công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, người viết
lựa chọn đề tài “Công tác văn hoá, văn nghệ của Đảng và thực trạng xây
dựng văn hố cơng sở ở Trường Chính trị Sóc Trăng hiện nay” để làm bài
tiểu luận điều kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những nội dung lý luận cơ bản về cơng tác văn hố, văn nghệ
của Đảng ta. Đồng thời liên hệ với thực trạng xây dựng văn hố cơng sở ở đơn
vị cụ thể hiện nay là Trường Chính trị Sóc Trăng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơng tác văn hố, văn nghệ của Đảng;
vấn đề xây dựng văn hố cơng sở ở Trường Chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống cơ sở lý luận về cơng tác văn
hố, văn nghệ của Đảng và liên hệ công tác này với xây dựng văn hố cơng sở
của Trường Chính trị Sóc Trăng hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam công tác văn hoá, văn nghệ Đảng.


3

Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….

5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ vị trí, vai trị của văn hố,
văn nghệ trong đời sống xã hội, các vấn đề lý luận cơng tác văn hố, văn nghệ
của Đảng, cũng như quan điểm, chủ trương của Đảng trong xây dựng nền văn
hố ở nước ta. Đồng thời với đó, đề tài làm rõ thực trạng của công tác này tại
đơn vị Trường Chính trị Sóc Trăng với cơng tác xây dựng văn hố cơng sở.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC VĂN HỐ,
VĂN NGHỆ CỦA ĐẢNG
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRỊ VÀ NHIỆM VỤ CỦA VĂN HÓA - VĂN NGHỆ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1.1. Vị trí, vai trị
1.1.1.1. Văn hóa - văn nghệ là nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con
người
Lịch sử lồi người đã khẳng định rằng, con người có hai nhu cầu lớn nhất:
nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, và con người luôn luôn lao động, đấu tranh,
sáng tạo để thỏa mãn các nhu cầu đó của mình. Song, đặc trưng riêng biệt nhất
của con người chính là nhu cầu tinh thần, là khát vọng đạt tới sự phong phú,
cao đẹp của thế giới tinh thần, tâm hồn, vươn lên theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Đối với đời sống một con người, từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cuộc đời, văn
hóa ln ln có mặt, trở thành nhu cầu sâu xa, thường xuyên, hàng ngày. Đối
với cả lồi người, con người ln ln sống và phát triển trong hai cái nơi vĩ
đại, đó là đại tự nhiên, là mơi trường văn hóa do chính con người xây đắp và
sáng tạo cho mình.

Văn hóa là lĩnh vực sản xuất tinh thần như nhận định của C.Mác, tạo ra
những giá trị văn hóa, những tác phẩn và cơng trình nghệ thuật làm giàu đẹp thêm


5

cho cuộc sống con người. Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, lĩnh vực sản xuất
tinh thần tạo ra các giá trị đặc biệt, khi được nhân dân khẳng định, nó trở thành
những cơng trình có sức sống lâu dài, trường tồn với thời gian, không bị cũ, lạc
hậu mà giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy mãi mãi, là sự thể hiện bản sắc đặc
trưng, những vẻ đẹp độc đáo của một cộng đồng, một dân tộc.
1.1.1.2. Văn hóa - văn nghệ là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền
tảng tinh thần của đời sống ấy. Vì vậy, hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa ln ln
giữ vị trí quan trọng, quyết định đối với thực trạng, sự vận động và phát triển
của xã hội đó. Chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn và quán triệt quan điểm này
trong chỉ đạo, tổ chức thực tiễn, nhất là trong công tác lãnh đạo, quản lý mọi
mặt đời sống xã hội, đặc biệt khi xử lý mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa,
đảm bảo vị trí, vai trị tương xứng của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội;
khắc phục tình trạng coi nhẹ văn hóa, đối xử với văn hóa như một lĩnh vực phụ,
“phi sản xuất” hoặc coi trọng văn bản, nghị quyết, lời nói, nhưng coi nhẹ trong
thực tiễn và việc làm cụ thể.


6

Một dân tộc sáng tạo ra văn hóa của mình, và đến lượt nó, chứa đựng
trong nền văn hóa đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản sắc
của chính dân tộc đó. Bằng văn hóa và thơng qua văn hóa, dân tộc đó, qua các

thế hệ, xây dựng cho mình những chuẩn mực sống, lao động, đấu tranh, sáng
tạo và các quan hệ cộng đồng. Những chuẩn mực này được truyền bá, lưu giữ,
chắt lọc, bổ sung và phát triển trong tiến trình lịch sử; trở thành một hệ thống
các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, tạo nên nền tảng tinh thần của dân tộc đó.
Vì thế, “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì khơng
thể phát triển kinh tế - xã hội bền vững”.
Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa có
khả năng to lớn khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người,
tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của đời sống xã hội. Đặc biệt,
trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có và phát triển tồn diện của
một đất nước không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, mà yếu tố
ngày càng trở nên quyết định chính là nguồn lực con người, là tiềm năng và


7

năng lực sáng tạo của con người.
Nền kinh tế tri thức thời kỳ mới của sự phát triển xã hội hiện nay bắt
nguồn từ chính đặc điểm này. Tiềm năng, năng lực của con người không nằm ở
đâu khác mà nằm ngang trong văn hóa và do chính văn hóa trực tiếp tạo nên
trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh, sự thành thạo, tài năng của
mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Chính sự khẳng định văn hóa là động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội nên trong những năm đổi mới, vượt qua những hạn chế,
thiếu sót xảy ra trước đây (chỉ nhấn mạnh một trong hai yếu tố đó hoặc không
biết kết hợp chúng với nhau), Đảng ta đã thường xuyên nhấn mạnh vai trò của
cả hai động lực: kinh tế và tinh thần, chỉ ra yêu cầu phải biết kết hợp động lực
kinh tế với động lực tinh thần để tạo ra phong trào phấn đấu vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì cả sự tăng trưởng
kinh tế và sự phát triển văn hóa – xã hội.
Là động lực của sự phát triển, văn hóa cịn thể hiện ở khả năng điều tiết,
điều chỉnh các khuynh hướng, chiều hướng phát triển của xã hội và con người.
Hướng sự vận động tới cái tích cực, thối hóa, biến chất, đem tối…dẫn tới sự


8

kìm hãm và thậm chí sự tàn phá, xuống cấp của một xã hội, đặc biệt trong
những điều kiện mới của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Vai trị
điều tiết, điều chỉnh này thơng qua các chuẩn mực mà văn hóa đã xác định,
bằng việc định hướng giá trị đối với con người và cộng đồng.
Trong sự liên hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau giữa các hoạt động rất đa
dạng của đời sống, chúng ta cần phải hiểu rằng, văn hóa vừa là một thành tố
gắn bó khăng khít, vừa là thước đo trình độ phát triển của các lĩnh vực khác của
toàn xã hội. Do đó, với tư cách là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện
trình độ phát triển ngày càng cao của con người và của xã hội.
Trong các lý thuyết về phát triển, một quan niệm được khẳng định hiện
nay là coi mục tiêu phát triển phải thể hiện ở sự nâng cao chất lượng sống của
con người với việc đảm bảo sự hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần,
giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp, không chỉ cho thiểu số mà
phải cho đại đa số quần chúng và người lao động. Để đạt mục tiêu đó, nhất
thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất – kỹ thuật.
Song như thế chưa đủ và sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu chỉ lo tăng trưởng
kinh tế, coi tăng trưởng là sự phát triển xã hội và làm tất cả với bất kỳ giá nào


9


vì tăng trưởng đó, dù phải hy sinh về mặt văn hóa, xã hội, hy sinh và phá hoại
sự phát triển phẩm giá con người. Trong những trường hợp như thế, có tăng
trưởng nhưng khơng có phát triển, mà trái lại là sự “phản phát triển”.
Từ vị trí của văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, chúng ta cần phải nắm
chắc mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, văn hóa với kinh tế, trong đó đặc
biệt chú ý luận điểm quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII: “Xây
dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng,
văn minh, con người phát triển toàn diện”. Sự kết hợp kinh tế với văn hóa, văn
hóa với phát triển đang là yêu cầu bức xúc của tất cả các quốc gia, dân tộc hiện
nay. Theo nhận định của F.Mayor – nguyên Tổng giám đốc UNESCO: “Hễ
nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời mơi trường
văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh
tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”.
1.1.1.3. Văn hóa – văn nghệ giữ vai trò cực kỳ quan trọng và trực tiếp
trong nhiệm vụ xây dựng con người mới
Mục tiêu cao nhất của sự sản xuất tinh thần, lĩnh vực đặc thù của văn hóa,
là xây dựng nên hệ thống các giá trị làm chuẩn mực cho con người vươn tới, noi


10

theo. Khi các chuẩn mực, các giá trị đó được tiếp nhận, được thấm sâu vào từng
con người và từng cộng đồng thì đó chính là q trình hình thành và phát triển
các phẩm chất trong con người. Tổng hợp các phẩm chất tốt đẹp đã được hình
thành trong con người chính là nhân cách. Như vậy, nếu sản xuất vật chất tạo ra
nhiều của cải cho con người thì sản xuất tinh thần, mục tiêu cuối cùng của nó là
nhằm tạo ra những phẩm giá, những giá trị trong nhân cách con người. Khi nói,
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã hội thì cần phải hiểu rằng, các vai trị đó bao giờ và chủ yếu
thông qua nhiệm vụ xây dựng con người của văn hóa.

Con người là chủ thế sáng tạo văn hóa và đến lượt mình, văn hóa có chức
năng trực tiếp ni dưỡng, xây đắp và góp phần phát triển con người, đặc biệt
và trước hết là những phẩm chất tinh thần – tâm hồn của con người. Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh thiên chức đặc biệt của văn hóa, văn
nghệ là bám sát đời sống con người, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và
khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong
cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời, chiến thắng của xã
hội mới: quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với


11

thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những người
mới, việc mới không những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà cịn
để giáo dục con cháu ta đời sau.
Chính do vị trí, vai trị đặc biệt của văn hóa trong đời sống xã hội, đồng
thời do văn hóa ln ln có mặt trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của xã hội
và con người, nên cần phải biết phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho
các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi
phương diện của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng và cơng tác tư
tưởng.
1.1.2. Nhiệm vụ của cơng tác văn hố, văn nghệ trong đời sống xã hội
Nhiệm vụ trung tâm của công tác văn hố, văn nghệ của Đảng là góp
phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm,
lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp
đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.Trong những năm trước
mắt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các hoạt động văn hoá, văn nghệ phải được
phát triển lành mạnh, phong phú, đa dạng, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
về đời sống tinh thần của nhân dân; phấn đấu có nhiều tác phẩm tốt về cơng



12

cuộc đổi mới, phản ánh những hiện tượng, những nhân tố, những xu hướng
tích cực trong cuộc sống; lấy việc xây dựng và sáng tạo những giá trị mới,
việc bồi dưỡng, bảo vệ và phát huy mọi tài năng làm mục tiêu lớn nhất. Mặt
khác, cơng tác văn hóa văn nghệ phải kiên quyết phê phán những hiện tượng
tiêu cực, những khuynh hướng lệch lạc, đấu tranh chống mọi hành động và
luận điệu thù địch với Tổ

quốc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã

hội đang phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Nền văn hoá, văn nghệ mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cần nắm vững các tư tưởng chỉ đạo sau
đây:
- Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng trong văn hoá,
văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hoá, văn nghệ là bộ phận khăng khít của sự
nghiệp đổi mới. Thấm nhuần và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Văn hoá, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là
chiến sĩ trên mặt trận ấy".
- Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hoá, vun
đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công


13

chúng, dân tộc và thời đại.
- Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hố với nước
ngồi, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá

Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc
hại, bảo vệ nền văn hoá dân tộc.
- Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hoá và văn học, nghệ
thuật, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao
đẹp của dân tộc ta, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước.
Phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái
tốt, cái đẹp. Đấu tranh không khoan nhượng chống các luận điệu độc hại của
các thế lực thù địch.
- Văn hoá, văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động
văn hoá văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước. Khắc phục tình trạng "hành chính hố" các tổ chức văn hoá,
nghệ thuật và xu hướng "thương mại hoá" trong lĩnh vực này.
Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được Đảng đúc kết cơ
đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:


14

Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
phong phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội…; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam
góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, cịn
người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển
nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất
nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống,
lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng,
cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm
túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị

các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Xây dựng và thực hiện
các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ
thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức


15

và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp
ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới.
Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,
nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung
tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa
Việt Nam ra nước ngồi. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa
của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước
ngồi với cơng chúng Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vơ hiệu hóa sự xâm nhập
và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào nước ta; bồi
dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ.
1.2. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CƠNG TÁC VĂN
HỐ, VĂN NGHỆ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu
công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ trương đổi mới toàn diện, đồng
bộ và triệt để nhằm đưa đất nước đi vào thế ổn định và phát triển. Sau một thời
gian khủng hoảng kinh tế - xã hội và sau những biến động phức tạp của tình
hình chính trị quốc tế, hai kỳ đại hội trên ưu tiên tập trung xác định đường lối
phát triển kinh tế, ổn định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển,
nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm.



16

Tư tưởng đổi mới tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đề ra đúng
vào lúc UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 - 1997)
với định hướng lớn là văn hóa vì sự phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa và đa
dạng văn hóa. Sự thay đổi cách nhìn về vai trị của văn hóa là cực kỳ quan trọng,
thể hiện tầm nhìn, tầm tư duy bắt nhịp với xu thế thời đại. Tại Hội Trung ương 4
khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trị quan trọng của văn hóa, coi
“Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã đánh dấu một bước ngoặt đưa nước
ta sang giai đoạn phát triển mới. Đại hội đã quyết định đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề văn hóa gắn với phát triển được nhận thức ở
những chiều cạnh mới. Văn hóa khơng chỉ là động lực mà cịn là mục tiêu của
phát triển. Đó là hai mặt thống nhất trong mục tiêu phát triển văn hóa. Xây dựng
và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn
minh, con người phát triển toàn diện. Tư duy mới về phát triển văn hóa đã góp
phần phát huy giá trị nền tảng, cốt lõi của dân tộc, đồng thời ngăn cản, hạn chế
những tác động tiêu cực khi mở cửa, hội nhập quốc tế. Đại hội VIII của Đảng
khẳng định: “Văn hóa... vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa,văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,...”
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động
đổi mới tư duy, lãnh đạo toàn dân thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, trong đó có văn hóa. Nghị quyết này thể hiện bước chuyển quan trọng về
tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới; chứa đựng
nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm chỉ đạo nêu trong

Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị về cả lý luận và thực tiễn. Trong đó, quan
điểm văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thể
hiện sự đổi mới mạnh mẽ, khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và
kinh tế. Nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục


17

tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn minh, con người phát triển tồn diện. Văn
hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân
tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”. Có thể khẳng
định rằng, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đánh dấu bước tiến quan trọng
trong q trình phát triển, hồn thiện lý luận về văn hóa của Đảng, định hướng
phát triển văn hóa trong trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,..” và “…văn hóa… vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [8]. Hội nghị
Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư
tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả nhiệm vụ
xây dựng con người Việt Nam. Nghị quyết đã chỉ ra điều kiện tiên quyết bảo
đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là dựa trên cơ sở phát
triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Kết luận của Hội nghị
chỉ rõ: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên
chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững
của đất nước”.

Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) tiếp tục nhấn mạnh đến mối quan
hệ giữa chính trị và kinh tế với văn hóa. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục
phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam…, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế”. Với tinh thần đó, để chính trị và
kinh tế gắn kết chặt chẽ hơn với văn hóa, Nghị quyết đã đặt ra yêu cầu: “Nâng
cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của


18

nhân dân… Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa
trong kinh doanh...”.
Như vậy, tiến trình phát triển lý luận của Đảng về văn hóa nói chung và văn
hóa trong chính trị và kinh tế nói riêng ngày càng hồn thiện. Trước đây, Đảng
đặt vấn đề gắn kết phát triển văn hóa với kinh tế - xã hội, hiện nay Đảng ta
khẳng định, văn hóa khơng chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá
trình phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế phải tạo ra bước phát triển mới về
văn hóa; văn hóa phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với tinh thần đó, tại
Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến vấn đề văn hóa và phát triển với những nhận
thức sâu sắc hơn, ngày càng đề cao vị trí, vai trị của văn hóa, tiếp cận với bản
chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người. Đại hội cũng
đã đánh giá thực trạng quan hệ giữa văn hóa và tăng trưởng kinh tế trên hai
phương diện: mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và văn hóa trong kinh tế. Về
mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, Đảng ta đánh giá “Văn hóa phát triển
chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế”. Về văn hóa trong kinh tế, yếu tố văn
hóa cịn mờ nhạt, vắng bóng trong tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện rõ nét nhất là
mô hình tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua chủ yếu theo chiều rộng, dựa
vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư của nước ngồi và nguồn nhân
cơng chất lượng thấp. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khơng chỉ nhấn

mạnh “tính văn hóa” trong mọi hoạt động của đời sống xã hội mà đã đặt vấn đề
đưa văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả trong mọi hoạt động cả chính
trị và kinh tế: “Đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đi
vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,…”..
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI có sự phát triển mạnh mẽ lý luận về văn
hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó có quan hệ
giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết đề xuất sáu nhiệm vụ nhằm xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân
cách, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Với cách tiếp cận đặt văn hóa
trong mối quan hệ với chính trị và kinh tế, Nghị quyết đề ra hai nhiệm vụ mới


19

mà các văn kiện, nghị quyết trước đây chưa đề cập hoặc đề cập nhưng chưa
thành nhiệm vụ, là “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế” và “Phát triển
cơng nghiệp văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện thị trường văn hóa”.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
đã được Đảng ta đề cập từ lâu, nhưng từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, lần
đầu tiên lý luận về văn hóa của Đảng đề cập đến vấn đề xây dựng văn hóa trong
chính trị và kinh tế một cách rõ nét nhất và được tách thành một nhiệm vụ cụ
thể. Đảng ta cũng chỉ rõ về những dấu hiệu nội hàm cần phải đạt được trong
việc xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Hội nghị Trung ương 9 khóa
XI chỉ rõ: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan
nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh… Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa
trong kinh tế... Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức
tơn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững
và bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó có nghĩa là, cần phải làm cho văn hóa thấm sâu vào

mọi lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế - xã hội, trong tổ chức và hoạt
động chính trị và trong sản xuất, kinh doanh của các cá nhân và tổ chức.
Theo đó, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, trước hết phải chăm
lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đồn thể
chính trị, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
cơng chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý thức thượng tơn pháp
luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã
hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức các cơ quan Đảng, chính quyền, đồn thể. Đồng thời, tạo lập mơi
trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện
đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ


20

tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy
ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp,
doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng, một mặt, nêu lại tinh thần trên của Đại hội XII, hơn
nữa, mặt khác nhấn mạnh rằng, việc: “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các
nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng an ninh
là trọng yếu, thường xuyên” là một trong những nội dung của “Quan diểm chỉ
đạo” thuộc “Tầm nhìn và định hướng phát triển” tiếp tục thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng trong giai đoạn mới.

Văn kiện Đại hội XIII còn lưu ý đến xây dựng và phát huy văn hóa gia
đình; nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng; mơi trường văn
hóa cơng sở lành mạnh, dân chủ, đồn kết; văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân
và kinh doanh… “Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức hoạt động của các hội
văn học, nghệ thuật, tập hợp đơng đảo văn nghệ sĩ tham gia; khuyến khích tự do
sáng tạo, thực thi quyền tác giả”.
Văn kiện Đại hội XIII cịn nêu rõ một ngành cơng nghiệp văn hóa và lĩnh
vực văn hóa cụ thể quan trọng cần chú ý tác động. Đó là: phát triển văn hóa gắn
với du lịch; xây dựng nền báo chí, tuyền thơng, chun nghiệp, nhân văn và hiện
đại; sắp xếp ngành xuất bản, in và phát hành theo hướng tinh gọn, chất lượng,
hiện đại; tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thơng, thơng tin
trên internet…
Văn kiện Đại hội XIII cịn u cầu: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc
tế. Tiếp thu có khoa học tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, đồng thời nâng cao sức đề kháng của tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh
thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa
Việt Nam đến với thế giới”.
CHƯƠNG 2.


21

LIÊN HỆ CƠNG TÁC XÂY DỰNG VĂN HĨA CƠNG SỞ
Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ SĨC TRĂNG HIỆN NAY
2.1. KHÁI QT VỀ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ SĨC TRĂNG
Trường Chính trị Sóc Trăng tiền thân là Trường Đảng Mác - xít, là đơn vị
sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy Sóc Trăng, là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
của tỉnh. Trường được thành lập năm 1947, tại ấp Rạch Già - thị trấn Cù Lao
Dung, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng ngày nay. Qua các thời kỳ, Trường

Chính trị Sóc Trăng đã có nhiều đóng góp to lớn trong cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cho tỉnh nhà.
Căn cứ vào Quy định số 09-Qđi/TW, ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng Khóa XII quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quy chế số 08-QC/TU
ngày 27/04/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng Khóa XIII và Đề
án số 08-ĐA/TU ngày 24/8/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng về
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị tỉnh Sóc Trăng tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy ban hành Quyết định số 09-QĐi/TU ngày 06/03/2019 về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị Sóc Trăng. Theo đó, Trường Chính trị
Sóc Trăng là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp
và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Có chức năng, nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ,
công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh về lý luận chính trị - hành chính; chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và
chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể chính trị - xã hội; kiến thức về một số lĩnh vực khác; bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo ngạch cơng chức, viên chức. Ngồi ra,
Nhà trường cịn có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, định hướng,
đề xuất giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.


22

Thực hiện Quyết định số 999-QĐ/TU ngày 07/05/2018 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về việc phân bổ biên chế cho Trường Chính trị tỉnh là 54 biên chế. Tính
đến hết năm 2020, biên chế của Trường Chính trị tỉnh là 49 biên chế. Cơ cấu tổ
chức bộ máy Trường Chính trị gồm Ban Giám hiệu với 03 khoa, 02 phòng. Gồm
Khoa Lý luận cơ sở; Khoa Xây dựng Đảng; Khoa Nhà nước và Pháp luật; Phịng

Tổ chức, hành chính, thơng tin, tư liệu; Phịng Quản lý đào tạo. Tồn Đảng bộ
Trường có 50 đảng viên (01 đảng viên là nhân viên hợp đồng) dưới sự lãnh đạo
của Đảng ủy gồm 07 đồng chí.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao và u cầu của thực tiễn địi
hỏi, Trường Chính trị Sóc Trăng đã tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức, viên chức của mình có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ và trình độ chính trị ngang tầm với sự phát triển của xã
hội. Trong đó có tập trung xây dựng văn hóa cơng sở gắn với chương trình tổng
thể cải cách hành chính quốc gia qua các giai đoạn.
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA
XÂY DỰNG VĂN HĨA CƠNG SỞ TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ SĨC
TRĂNG
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân
2.2.1.1. Thành tựu
Những năm qua ở Trường Chính trị Sóc Trăng, Đảng uỷ và Ban Giám hiệu
Nhà trường đã và đang quán triệt xây dựng cơ quan, đơn vị văn hóa tới tất cả các
khoa, phịng và tồn thể cán bộ, giảng viên Nhà trường. Chính vì thế, văn hóa
cơng sở đã mang lại những kết quả rất thiết thực, tạo nên nét đẹp riêng có của
đơn vị. Ở Nhà trường, hệ thống các giá trị truyền thống và hiện đại luôn được
trân trọng và lưu giữ, đó là tình u thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tinh
thần xây dựng một tập thể đoàn kết vững mạnh, dạy tốt, học tốt, tôn trọng nhân
cách của nhau, đánh giá cao vai trò của người phụ nữ trong cơng vụ. Đó là sự
kết nối hệ thống các giá trị vừa mang đậm bản sắc riêng, vừa mang hơi thở
chung của thời đại. Trong hệ thống các giá trị đó, trình độ học vấn là điều kiện
để mở cánh cửa trí tuệ, tinh thần của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của


23

Nhà trường. Do vậy, hoạt động giảng dạy và phục vụ giảng day là hoạt động

trọng tâm của Trường Chính trị Sóc Trăng trong việc thực hiện “Quy chế văn
hố cơng sở tại các cơ quan hành chính Nhà nước”.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường đã tăng cả về
số lượng và chất lượng. Hiện nay, Trường đã có 51 đồng chí với 27 giảng viên,
trong đó có 13 giảng giảng viên chính. Về trình độ chun mơn, Trường có 05
tiến sỹ, 03 đồng chí đang nghiên cứu sinh, 28 thạc sỹ, 14 đại học (trong đó có 9
người đang học cao học. Cán bộ, giảng viên Nhà trường luôn phấn đấu vươn lên
trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, giữ vững phẩm chất cách mạng, lối
sống giản dị và tận tuỵ trong cơng việc, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đội ngũ giảng viên luôn đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát
huy tính tích cực của học viên, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Việc tham gia lớp “Bồi dưỡng phương pháp dạy – học tích
cực cơ bản” năm 2019 đã góp phần trau dồi kỹ năng, phương pháp sư phạm cho
đội ngũ giảng viên. Tại Hội thi Giảng viên dạy giỏi tồn quốc các trường chính
trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trường bộ, ngành lần thứ VII năm
2020 (tổ chức vào cuối tháng 4/2021) khu vực phía Nam, Trường Chính trị Sóc
Trăng có 01 giảng viên đạt thành tích giỏi - xuất sắc tiêu biểu, 01 giảng viên đạt
loại giỏi.
Bên cạnh đó, đội ngũ cơng chức, giảng viên ln tập trung nâng cao chất
lượng soạn giảng, quản lý học viên; tham gia nghiên cứu đề tài khoa học cấp
trường, cấp cơ sở; tích cực viết bài cho nội san, trang thông tin điên tử của
Trường, báo, tạp chıı́ của địa phương và Trung ương. Đồng thời, đội ngũ công
chức, giảng viên của Trường không ngừng nỗ lực để xây dựng chuẩn mực trong
giao tiếp và ứng xử với đồng nghiệp, học viên; nghiêm túc thực hiện nếp sống
văn minh trong làm việc và giảng dạy. Đồng thời cán bộ, giảng viên đã nghiêm
chỉnh thực hiện tốt quy chế của cơ quan, đặc biệt là quy định không được uống
rượu bia vào buổi trưa, hút thuốc lá trong cơ quan dưới mọi lý do và hình thức.
Trên tinh thần Quán triệt Chỉ thị 05/CT-TW ngày 15/05/2016 của Bộ Chính
Trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong



×