Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Bối cảnh địa lý tự nhiên, cư dân, lịch sử Đông Nam Á. Sơ lược văn hóa Đông Nam Á trong tiến trình lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC & XÃ HỘI

TÊN ĐỀ TÀI: Bối cảnh địa lý tự nhiên, cư dân, lịch sử Đông Nam Á. Sơ lược

văn hóa Đơng Nam Á trong tiến trình lịch sử
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Văn hóa Đơng Nam Á
Mã phách:………………………………….(Để trống)

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 3
NỘI DUNG.......................................................................................................................... 4
1. Khái quát chung về Đông Nam Á .......................................................................... 4
1.1.

Bối cảnh địa lý tự nhiên .................................................................................... 4

1.2.

Cư dân ................................................................................................................ 5

1.3.

Lịch sử ................................................................................................................ 5

2. Văn hóa Đơng Nam Á trong tiến trình lịch sử ...................................................... 6


2.1.

Văn hóa Đơng Nam Á thời kỳ tiền - sơ sử ........................................................ 6

2.1.1.

Văn hóa Đơng Nam Á thời kỳ tiền sử .......................................................... 6

2.1.2.

Văn hóa Đơng Nam Á thời sơ sử ................................................................. 8

2.1.3. Những thành tựu chung của lớp văn hóa bản địa Đông Nam Á thời tiền sử
và sơ sử
2.2.

Văn hóa Đơng Nam Á từ buổi đầu lịch sử đến thế kỷ X ................................. 9

2.2.1.

Bối cảnh văn hóa - lịch sử ........................................................................... 9

2.2.2.

Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Đông Nam Á - Trung Hoa ...................... 11

2.2.3.

Tiếp xúc và giao lưu văn hóa Đơng Nam Á - Ấn Độ ................................. 11


2.3.

Văn hóa Đơng Nam Á từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX ................................ 12

2.3.1.

Bối cảnh văn hóa - lịch sử ......................................................................... 12

2.3.2.

Những thành tựu văn hóa .......................................................................... 13

2.4.

Văn hóa Đơng Nam Á từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 ....................... 14

2.4.1.

Bối cảnh văn hóa - lịch sử ......................................................................... 14

2.4.2.

Các đặc điểm và thành tựu văn hóa .......................................................... 15

2.5.

Văn Hóa Đơng Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay ............ 16

2.5.1.


Bối cảnh văn hóa - lịch sử ......................................................................... 16

2.5.2.

Một số đặc điểm văn hóa ........................................................................... 17

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 21

2


MỞ ĐẦU
Ngày nay, không gian sống và hoạt động của chúng ta ngày càng mở rộng ,
nhu cầu hiểu biết và giao tiếp không ngừng tăng lên. Chúng ta muốn hiểu biết
nhiều hơn về lịch sử các quốc gia Đông Nam Á, một trong những chiếc nơi đầu
tiên của lồi người. Trải qua quá trình phát triển, các dân tộc sống trong khu vực
này đã tạo dựng nên một nền văn hóa phong phú, độc đáo.
Đơng Nam Á ngày nay, xét về mặt lãnh thổ, như trên đã nói, bao gồm mười
nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ tiền sử, Đông Nam Á khơng chỉ bao gồm khu vực
nói trên mà rộng hơn nhiều. Khơng gian văn hóa Đơng Nam Á tiền sử thực ra còn
bao hàm cả vùng Hoa Nam của Trung Quốc và một phần Ấn Độ hiện nay. Như vậy
vùng văn hóa Đơng Nam Á tiền sử phía bắc tới bờ nam sơng Dương Tử, phía tây
tới biên giới bang Assam của Ấn Độ, phía đơng tới các quần đảo Philippines và
phía nam tới tận quần đảo Nam Dương (Indonesia). Với một không gian như thế,
Việt Nam nằm gọn ở trung tâm của Đơng Nam Á, nó mang đầy đủ những đặc
trưng của văn hóa Đơng Nam Á bản địa.
Cùng sinh ra và phát triển trên một khu vực địa lý, cư dân Đông Nam Á đã
sang tạo ra một nền văn hóa bản địa riêng biệt, độc đáo, có cội nguồn chung từ thời
tiền sử và sơ sử, trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Nền văn hóa

mang tính khu vực thống nhất đó được phát triển liên tục trong suốt chiều dài lịch
sử cho đến tận ngày nay. Ngoài ra quan hệ láng giềng ngày càng mở rộng trên
nhiều lĩnh vực, do vậy việc tìm hiểu lịch sử văn hóa Đơng Nam Á trở thành nhu
cầu rất thực tế, chính vì thế nên tôi đã chọn đề tài: “Bối cảnh địa lý tự nhiên, cư
dân, lịch sử Đông Nam Á. Sơ lược văn hóa Đơng Nam Á trong tiến trình lịch sử”
huy vọng thơng qua thực hiện đề tài góp phần trau dồi thêm tri thức về lịch sử
Đông Nam Á cho bản thân.

3


NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Đông Nam Á
1.1. Bối cảnh địa lý tự nhiên
Đông Nam Á nằm trong phạm vi từ khoảng 92° đến 140° kinh đông và từ
khoảng 28° vĩ bắc chạy qua xích đạo đến khoảng 15° vĩ nam. Tổng diện tích của
Đơng Nam Á khoảng trên 4 triệu km2. Đông Nam Á bao gồm quần thể các đảo,
bán đảo, quần đảo, các vịnh và biển chạy dài suốt từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ
Dương.
Khí hậu Đơng Nam Á là tính chất gió mùa nóng và ẩm. Điều kiện nóng ẩm,
mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Đơng Nam Á, và chính
nó đã góp phần tạo nên đặc trưng của văn hóa Đơng Nam Á - nền văn minh thực
vật hay văn minh lúa nước.
Đơng Nam Á có mạng lưới sơng ngịi dày đặc. Đây là một nguồn lợi lớn về
kinh tế, trước hết là về mặt giao thông vận tải. Các sơng lớn có giá trị kinh tế cao
phần lớn đều nằm ở bán đảo Trung Ấn: sông Mêcông (dài 4500 km, đoạn chảy vào
khu vực Đông Nam Á dài 2600 km), sông Hồng, sông Saluen (3200 km), sông
Irawadi (2150 km), sông Menam (1200 km). Các sông ở khu vực hải đảo thường
ngắn, dốc và có giá trị thủy điện cao. Hệ thống sơng ngịi dày đặc chính là một
trong những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống của người dân Đông Nam

Á ngay từ buổi đầu tiền sử của họ.
Đông Nam Á là vùng khá giàu có về khống sản: sắt, niken, đồng, thiếc, kẽm,
chì, vonfram,… Thiếc ở Đông Nam Á chiếm 705 trữ lượng thế giới (khoảng 3,6
triệu tấn) và có hàm lượng cao. Malaysia đứng hàng đầu (1,5 triệu tấn), sau đó là
Indonesia (gần 1 triệu tấn). Trữ lượng dầu mỏ ở Đông Nam Á khá lớn, tạo thành
một vành đai dọc bờ biển Sarawak, Sabah (Malaysia), Brunei cho đến tận Nam
Việt Nam.
Đông Nam Á có một vị trí đặc biệt quan trọng trên đường giao lưu quốc tế. Nó
“nằm trọn” giữa hai đại dương lớn: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Eo
Malacca, có người ví như kênh đào Su-ê, nối biển Đông với biển Andaman thuộc
Ấn Độ Dương, trở thành cửa ngõ trên tuyến đường hàng hải quốc tế, nối liền Đông
Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên) với Tây Âu và châu Phi. Đông Nam Á nằm
gần hai quốc gia lớn nhất phương Đông: Trung Quốc và Ấn Độ. Qua đường biển,
4


các nước Đơng Nam Á cịn nằm gần siêu cường quốc kinh tế Nhật Bản. “Chỗ
đứng” như vậy làm cho Đông Nam Á từ xa xưa đã trở thành một khu vực quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế lẫn quân sự. Không phải ngẫu nhiên mà
nhiều người đã coi Đông Nam Á như là một “hành lang” hay một “chiếc cầu nối
Đông - Tây”.
1.2.

Cư dân

Đông Nam Á bao gồm 10 quốc gia: Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Singapore, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào và Việt Nam, trong đó 5 nước
nằm trên quần đảo Mã Lai và 5 nước nằm trên bán đảo Trung Ấn. Tính đến năm
1994, dân số Đông Nam Á lên tới 478 triệu người. Nước đơng dân nhất là
Indonesia (192 triệu người), sau đó đến Việt Nam, Philippines, Thái Lan,

Myanmar, Malaysia. Nước có dân số ít nhất là Brunei (300 nghìn), rồi Singapo
(hơn 3 triệu).
1.3.

Lịch sử

Đông Nam Á được các nhà khoa học coi là một trong những cái nôi của nhân
loại. “Ngay từ buổi đầu bình minh của lịch sử - Ja.V.Chesnov viết - Đơng Nam Á
đã là một trong những cái nơi hình thành lồi người. Đây chính là địa bàn hình
thành đầu tiên của đại chủng phương nam”.11 Người ta đã tìm được những dấu vết
khảo cổ học thể hiện quá trình chuyển biến từ vượn thành người ở khu vực này,
chẳng hạn dấu vết hóa thạch vượn bậc cao ở Pondaung (Myanmar) có niên đại 40
triệu năm và vượn khổng lồ (Meganthropus paleojavanicus) ở Java (Indonesia)
sống cách đây khoảng 5 triệu năm. Cũng tại Indonesia, trên đảo Java, các nhà khảo
cổ học còn phát hiện được nhiều mảnh sọ, hàm dưới và hàm trên hóa thạch của
dạng người mà giới khoa học gọi là Pitekantrov có niên đại cách đây khoảng 2
triệu năm. Đó là dấu vết xưa nhất về giống người cổ tại khu vực Đơng Nam Á.
Những dấu tích của một số dạng Pitekantrov muộn hơn, sống trong thời gian cách
đây khoảng từ 500.000 đến 900.000 năm, cũng được phát hiện tại Java. Những kết
quả khai quật ở hàng loạt địa điểm khác nhau ở Đông Nam Á như Patdtan
(Indonesia), Tampan (Malaysia), Kabaloan (Philippinnes), Anyath (Myanmar),
Pingnoi (Thái Lan), hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn, Việt Nam), núi
Quan Yên (Xn Lộc), núi Đọ (Thanh Hóa), Hang Giịn - Dầu Giây (Đồng Nai),…
đã tìm thấy di cốt và những cơng cụ đồ đá của người tối cổ Đông Nam Á.
5


Cùng với sự có mặt của Người tinh khơn là sự xuất hiện của các tộc người
Đông Nam Á.
Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước) có một dòng người thuộc

chủng Mongoloid từ vùng lục địa châu Á (Tây Tạng) di cư về hướng Đông Nam và
dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo Trung Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp
chủng giữa họ với cư dân Melanesien (còn gọi là Mã Lai cổ) với nước da ngăm
đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp. Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú
trên tồn bộ địa bàn Đơng Nam Á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía bắc tới
sơng Dương Tử, phía tây tới bang Assam của Ấn Độ, phía đơng tới vùng quần đảo
Philippines và phía nam tới các hải đảo Indonesia.13 Chủng Indonesia chính là
những người mà Nguyễn Đình Khoa gọi là tiền Đông Nam Á. Từ chủng này, trải
qua hàng nghìn năm lịch sử, lại được phân thành hai chủng mới là Austroasiatique
và Austronesien. Chủng Austroasiatique được hình thành vào cuối thời đá mới, đầu
thời đại đồ đồng.
2. Văn hóa Đơng Nam Á trong tiến trình lịch sử
2.1. Văn hóa Đơng Nam Á thời kỳ tiền - sơ sử
2.1.1. Văn hóa Đơng Nam Á thời kỳ tiền sử
Là một trong những cái nôi của nhân loại, như đã trình bày trong phần mở đầu,
người vượn (Homo-Erectus) xuất hiện ở Đông Nam Á khá sớm (cách đây khoảng
400.000 - 500.000 năm). Mở đầu cho nền văn hóa tiền sử Đông Nam Á là giai
đoạn mà các cư dân nguyên thủy Đông Nam Á sử dụng mảnh tước (mảnh ghè) làm
công cụ lao động. Đây là những công cụ đá rất thơ sơ nhưng đã có sự gia cơng ghè
đẽo của con người. Hàng vạn mảnh ghè như vậy đã được tìm thấy ở Indonesia,
Philippines, Thái Lan, Myanmar,… Ở Malaysia, những công cụ bằng đá cuội được
G.de Sieveking và D.Walker phát hiện ở Kota Tampan. Tại đây hai nhà khoa học
đã tìm thấy 165 cơng cụ chế tác từ viên cuội và 89 công cụ chế tác từ mảnh tước. Ở
Việt Nam, khu vực Núi Đọ (Thanh Hóa) được coi là tiêu biểu nhất về sự lưu giữ
loại công cụ này. Tại đây, các nhà khoa học cịn tìm được một số rìu tay bằng đá
được chế tác khá cơng phu.
Người tinh khôn (Homo-Sapiens) ở Đông Nam Á xuất hiện từ khoảng 20 đến
15 nghìn năm TCN. Người tinh khơn sống thành bộ lạc, biết săn bắt, hái lượm và
chế tác công cụ lao động từ đá cuội. So với mảnh tước giai đoạn trước, các công cụ
6



đá cuội từ thời kì này đã có một bước tiến mới trong kĩ thuật chế tác và có nhiều
hình loại ổn định. Người tinh khôn Đông Nam Á sinh sống trên các đồi gò hoặc
một số hang động.
Người nguyên thủy Đông Nam Á đã biết dùng lửa. Thức ăn chủ yếu của họ là
nhuyễn thể, cây, quả, hạt và một số động vật vừa và nhỏ.
Từ thời kì đồ đá cũ, người nguyên thủy Đông Nam Á bước vào thời kỳ đồ đá
giữa cách đây khoảng 10.000 năm, với những thay đổi vơ cùng quan trọng. Đó là
q trình hợp chủng giữa người Monggoloid với người Melanesien (thuộc đại
chủng Australoid) tạo ra chủng Indonesien-tiền Đông Nam Á. Vào thời kỳ này, kỹ
thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là những viên cuội
được ghè đẽo trên cả hai mặt, rìu đá cuội có lưỡi ở một đầu. Hơn thế nữa, cư dân
chủng Indonesian còn biết sử dụng các nguyên liệu khác như đất sét, sừng, xương,
tre, gỗ,… Tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất cho văn hóa đồ đá giữa ở Đơng Nam Á là
văn hóa Hịa Bình.
Sau thời đại đồ đá giữa, người tiền sử Đông Nam Á bước vào thời đại đồ đá
mới, cách đây khoảng 5000 năm. Điểm nổi bật trong thời đồ đá mới là con người
đã biết làm đồ gốm. Ở Việt Nam, nền văn hóa đặc trưng cho thời kỳ này là văn hóa
Bắc Sơn, ở đó người ta tìm được nhiều cơng cụ đá có mài lưỡi. Rìu mài lưỡi kiểu
Bắc Sơn cịn có ở hang Kepah, núi Cheoh, thị xã Tongkat, đồi Chuping, hang
Kajang, hang Kechil (Malaysia), ở Kendang Lambu (Jawa, Indonesia). Ở hang
Madu (Kelanta, Malaysia) người ta tìm được 500 cơng cụ ghè đẽo. Có thể nói, rìu
mài lưỡi ở Đơng Nam Á là cơng cụ đá mài sớm nhất thế giới.
Cư dân Đông Nam Á thời đại đồ đá mới đã biết tìm đến những nơi ở thuận lợi
cho cuộc sống của mình. Người ta không chỉ sống ở các hang động như trước mà
còn lấn dần ra các vùng ven biển. Nghề đánh cá từ đó được phát triển. Các cụm
dân cư trở nên đông đúc hơn, ổn định hơn do sự quy tụ khơng chỉ đơn thuần là
những người cùng dịng máu.
Một điều đặc biệt nữa là ở thời kỳ này đã có dấu hiệu của nền nghệ thuật hội

họa. Đó là những hiện vật xương có vết khắc hình cá, hình thú, là những hoa văn,
kí hiệu biểu thị mặt trời được vẽ trên mặt gốm,… Một số tín ngưỡng nguyên thủy
cũng đã xuất hiện ở thời kỳ tiền sử Đông Nam Á.

7


2.1.2. Văn hóa Đơng Nam Á thời sơ sử
Thời kì sơ sử, cách đây khoảng 4.000 năm, cư dân Đông Nam Á bước vào một
thời kỳ mới mà các nhà khoa học thường gọi là thời kì kim khí.
Ở thời kì này, đồ gốm vẫn tiếp tục được phát triển với chất lượng tốt hơn. Đá,
gỗ, tre, nứa, xương,… vẫn được con người sử dụng để chế tạo công cụ lao động và
vũ khí. Tuy nhiên, ở thời kỳ này, cái mà nhà khoa học quan tâm đến nhất chính là
sự xuất hiện của các dụng cụ bằng đồng. Chính vì thế thời kỳ này cịn được gọi là
thời đại đồ đồng.
Sống trong vùng khí hậu nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã chuyển sang trồng
lúa cạn ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng. Rồi từ việc thuần dưỡng ở
thung lũng, cây lúa được chuyển dần xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng
ngập nước. Ở thời đại đồ đồng, gắn liền với quá trình trồng cấy là sự phát triển của
các loại công cụ lao động bằng kim loại và công việc chăn nuôi gia súc. Với sự
xuất hiện của cuốc, xẻng, mai, thuổng, cày,… kĩ thuật canh tác đã có một bước
nhảy về chất so với các dụng cụ bằng đá trước đây. Năng suất lao động, vì thế ngày
càng được nâng cao. Cơng việc chăn nuôi được đẩy mạnh, nhất là việc chăn ni
trâu bị dùng làm sức kéo.
Ở thời đại đồ đồng, cư dân Đông Nam Á sơ sử thường sinh sống thành làng ở
những nơi đất cao và gần sơng ngịi. Điều này chứng tỏ họ đã biết thích ứng với
mơi trường tự nhiên. Nhà của cư dân vùng này là nhà sàn. Cách ăn mặc của họ gọn
gàng, phù hợp với cơng việc lao động: nam đóng khố, cởi trần cịn nữ giới thí mặc
yếm và váy. Việc đi lại được tiến hành chủ yếu bằng thuyền. Sông và biển là
những con đường giao thông huyết mạch cho sự giao lưu văn hóa lúc đó.

Cư dân Đơng Nam Á sơ sử cũng đã có một đời sống tinh thần và một trình độ
nghệ thuật khá phong phú, đa dạng. Điều đó cịn được lưu giữ rất rõ trên các hoa
văn, trong các nhạc cụ. Vào thời kỳ này, các nhạc cụ như trống đồng, sênh, phách,
khèn,… khá phát triển.
Bắt đầu từ thời kỳ sơ sử, nhiều nghi lễ, tín ngưỡng ra đời, gắn liền với cơng việc
trồng lúa nước nói riêng và sản xuất nơng nghiệp nói chung, như tục thờ thần Mặt
trời, thờ thần Nước, thần Đất, thần Lúa,... Hàng loạt lễ hội dân gian cũng đã được

8


tổ chức như đua thuyền, thả diều, dâng lửa, vun thóc trên sân,... Đây cũng là thời
kỳ nảy sinh các thần thoại, huyền thoại.
2.1.3. Những thành tựu chung của lớp văn hóa bản địa Đơng Nam Á thời tiền
sử và sơ sử
Cùng sinh ra và lớn lên trên một khu vực địa lý, cư dân cổ đại Đông Nam Á đã
tạo ra một nền văn hóa bản địa có nguồn gốc chung, mang tính thống nhất cho tồn
vùng, đó là một nền văn hóa, văn minh đặc sắc với nghề nông nghiệp lúa nước là
chủ đạo.
Những thành tựu chủ yếu của nghề nông nghiệp Đông Nam Á thời tiền sử là:
- Trồng được lúa và các loại rau màu như bầu, bí, khoai sọ,…
- Thuần dưỡng được các loại gia súc như trâu bò, lợn gà.
- Làm được nhà để ở.
- Biết dung một số cây thuốc để chữa bệnh.
Vào thời đại đá mới, một thành tựu khác của nền văn hóa tiền sử và sơ sử Đơng
Nam Á sau nghề trồng lúa nước, như đã nói, là sự xuất hiện của một nghề kim khí
đặc biệt: nghề luyện kim đồng, mà tiêu biểu nhất là đồ đồng Đông Sơn. Nghề
luyện kim đồng, thực ra đã xuất hiện trước cả nền văn hóa Đơng Sơn rất lâu. Kỹ
thuật luyện đồng Đông Sơn là sự phát triển kế tục không ngừng của kỹ thuật luyện
kim các giai đoạn văn hóa tiền Đơng Sơn.

2.2. Văn hóa Đơng Nam Á từ buổi đầu lịch sử đến thế kỷ X
2.2.1. Bối cảnh văn hóa - lịch sử
Đến thế kỷ thứ III TCN, người Âu Việt (cũng thuộc Bách Việt như Lạc Việt) và
người Lạc Việt hợp nhất với nhau thành nước Âu Lạc. Tuy nhiên, nhà nước non trẻ
vừa mới ra đời đã rơi vào tình trạng bị đơ hộ. Năm 179 TCN, Triệu Đà vua nước
Nam Việt, đánh đuổi An Dương Vương, chiếm Âu Lạc, và sát nhập Âu Lạc vào
Nam Việt, đồng thời chia Âu Lạc ra làm hai quận: quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
Đến năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính nước Nam Việt. Nước Âu Lạc vốn thuộc
Nam Việt nên cũng bị thơn tính theo. Lúc này, bản thân Âu Lạc lại được mang một
tên mới là châu Giao Chỉ, dưới đó có 7 quận. Tính từ thời điểm đó đến mãi thế kỷ
9


thứ X, phần Đông Nam Á từ bờ nam sông Dương Tử đến núi Hoành Sơn (Đèo
Ngang) đã bị đế quốc Trung Hoa đô hộ.
Như vậy, ngay từ đầu công ngun, phần đất phía bắc của Đơng Nam Á đã bị
sát nhập vào Trung Quốc, trừ một vương quốc của người Thái là nước Nam Chiếu
(sau đó là Đại Lí) ở Tây Nam Trung Quốc (nay là Vân Nam).
Lúc bấy giờ, để phục vụ cho nhu cầu của các hoàng đế đơng và tây và của các
tầng lớp giàu có, việc buôn bán những sản phẩm quý như hương liệu, châu ngọc, tơ
lụa,... giữa Nam Á và châu Âu ngày càng tấp nập. Các nhà buôn Ấn Độ đã đến
vùng đất phía đơng sơng Hằng, tức vùng Đơng Nam Á, mua hương liệu, gia vị,
long não, xạ hương, gỗ mun,... để mang đi bán ở các vùng Tiểu Á, Ba Tư và La
Mã. Ngồi ra, họ cịn đến vùng Đơng Nam Á để tìm vàng (Đơng Nam Á, như đã
nói, được gọi là Suvannabhumi nghĩa là “bán đảo vàng”). Chính vì thế đã nảy sinh
mối quan hệ giao lưu Ấn Độ - Đơng Nam Á. Và cũng chính vì sự có mặt của cư
dân Ấn Độ ở đây mà bản thân các bộ lạc, các liên minh bộ lạc Đông Nam Á có
điều kiện liên kết với nhau, tạo ra một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự ra đời
của một loạt nhà nước sơ khai Đông Nam Á. Có thể nói, sự hình thành các quốc
gia Đơng Nam Á đã chịu ảnh hưởng khơng ít của văn hóa Ấn Độ (ở phía nam) và

văn hóa Trung Quốc (ở phía bắc).
Ở phía nam Đơng Nam Á lục địa, từ khoảng đầu công nguyên đến thế kỷ thứ
VII đã ra đời một loạt nhà nước sơ khai, trong đó có những nhà nước khá mạnh
như vương quốc Phù Nam mà thủ đô là Vyadhapura (ở Preivieng, Cămpuchia ngày
nay) bao gồm chủ yếu là các thành thị thương cảng ở ven biển mà quan trọng nhất
là Óc Eo, Takkola và Ligor ở eo biển Malacca (nay là nam Thái Lan), hoặc là
vương quốc Chămpa (Chiêm Thành) với các thành thị ven biển như Indrapura
(Quảng Nam - Đà Nẵng), Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Phan Rang). Nếu
như Âu Lạc ở phía bắc được coi là nhà nước hình thành do nhu cầu kiểm sốt giao
thơng đường bộ thì các nhà nước như Phù Nam, Chămpa,... ở ven biển Đông lại là
những nhà nước được hình thành do nhu cầu kiểm sốt đường giao thông trên biển.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ thứ VII cịn có nhiều quốc gia khác xuất hiện ở
khu vực Đông Nam Á. Ở phần lục địa, cộng đồng Môn xây dựng đến mấy quốc
gia: Pegu (Hamsawati), Thaton (Sudhanmawati), Xích Thổ. Trên bán đảo Mã Lai
xuất hiện nhà nước Tumasik (khu vực bang Johor và Singapo ngày nay), nhà nước
10


Melayu (khu vực đảo Sumatra ngày nay), nhà nước Taruma (trên đảo Jawa).
Vương quốc Taruma ngay từ thế kỷ thứ IV đã có quan hệ bn bán mật thiết với
Ấn Độ và Trung Quốc.
Nói chung, đến thế kỷ thứ X, tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều bắt đầu đi
vào thế ổn định, để ngay sau đó bước vào thời kỳ phát triển cực thịnh trên toàn
vùng.
Trong một bối cảnh như trình bày, văn hóa Đơng Nam Á thời kỳ này mang tính
chất đa dạng: một mặt vừa giữ gìn, phát triển bản sắc, truyền thống văn hóa bản
địa, mặt khác vừa tiếp thu những cái mới của hai nền văn hóa Trung Quốc và Ấn
Độ.
2.2.2. Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Đơng Nam Á - Trung Hoa
Trung Quốc tạo được ảnh hưởng to lớn ở Đông Nam Á từ đầu triều Hán

(202TCN - 220). Đây là thời kỳ đế quốc Trung Hoa mở mang bờ cõi đến giáp
Đơng Nam Á. Triều đình Trung Hoa thiết lập hệ thống triều cống đối với các nước
chư hầu. Trải qua phần lớn chiều dài lịch sử Trung Hoa, các hồng đế trị vì thường
áp dụng chính sách làm suy yếu hoặc chia cắt các dân tộc thuộc vùng ngoại vi đế
quốc. Nhìn chung, những giai đoạn thống nhất, ổn định và mạnh mẽ về chính trị ở
Trung Hoa thường đi đôi với thời kỳ quốc gia này can thiệp hoặc chi phối được
hầu hết các nước Đông Nam Á.
Đồng thời với việc xâm chiếm lãnh thổ, đế quốc Tần, Hán đã tiến hành một loạt
chính sách đồng hóa văn hóa Đơng Nam Á trên mọi lĩnh vực. Chúng bắt dân bản
xứ Đông Nam Á tổ chức xã hội, học tập, làm ruộng, rồi ăn, mặc, ở ,... đúng như
người Hán. Điều đó có nghĩa là đế quốc Tần, Hán muốn thiết lập ở Đông Nam Á
một thể chế chính trị, một cơ cấu xã hội, thậm chí một phong tục tập quán theo
kiểu Trung Hoa. Song song với sự cưỡng bức nói trên là việc truyền bá các hệ tư
tưởng như: Nho giáo, Đạo giáo,... vào Đông Nam Á.
2.2.3. Tiếp xúc và giao lưu văn hóa Đơng Nam Á - Ấn Độ
Ngay từ đầu công nguyên, các cư dân Đơng Nam Á đã có dịp tiếp xúc, giao lưu
với văn hóa Ấn Độ qua các thương gia và các nhà truyền đạo.

11


Trước hết, đó là sự phổ biến của chữ viết Pali-Sanscrit ở rất nhiều quốc gia
Đông Nam Á như Cămpuchia, Lào, Thái Lan,… Thêm nữa hàng loạt từ Ấn Độ
cũng đã được du nhập vào các ngôn ngữ Đông Nam Á như vào tiếng Melayu (ngôn
ngữ quốc gia của bốn nước Đông Nam Á hiện nay là Malaysia, Indonesia, Brunei
và Singapo), tiếng Việt, tiếng Khmer, tiếng Thái,… Trong tiếng Việt chẳng hạn,
một số từ chỉ cây cối (như “mít”, “lài”) và một loạt từ thuộc Phật giáo (“Bụt”, “bồ
đề”, “bồ tát”, “phù đồ”, “chùa”, “tháp”, “tăng già”,…) đều có gốc từ Ấn Độ.
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đơng Nam Á cịn được biểu hiện ở lĩnh vực
chính trị - xã hội. Nhiều nhà nước Đông Nam Á được hình thành trong thời kỳ này

tn theo mơ hình chính trị - xã hội kiểu Ấn Độ, trong đó nhà nước Chămpa, một
trong những vương quốc cổ đại ra đời sớm nhất ở Đơng Nam Á, là một ví dụ điển
hình.
Những ảnh hưởng có thể coi là rõ rệt nhất, đậm nét nhất của văn hóa Ấn Độ vào
Đơng Nam Á là việc phổ biến đạo Phật và đạo Bàlamôn (sau này là đạo Hindu).
Các tôn giáo này, đặc biệt là đạo Phật có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống
văn hóa tinh thần của người dân bản địa Đông Nam Á. Ở một số quốc gia sau này,
Phật giáo đã trở thành quốc giáo.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Ấn Độ được thể hiện rất rõ nét ở các đền
tháp, chùa chiền được xây dựng ở khắp Đông Nam Á mà tiêu biểu hơn cả là
ĂngcoVát (Campuchia), hệ thống các tháp ở vương quốc Champa, chùa
Borobudur (Indonesia), tháp Thạt Lng (Lào). Đối với các cơng trình kiến trúc đồ
sộ này, ảnh hưởng của quan niệm nghệ thuật kiến trúc tơn giáo Ấn Độ rất đậm đà:
Đó là kiến trúc Hindu giáo (Ăngco Vat, tháp Chămpa) và kiến trúc Phật giáo
(Borobudur, Thạt Luông).
Về phương diện văn học, hai trường ca nổi tiếng của Ấn Độ là Ramayana và
Mahabharata được truyền sang nhiều vùng Đông Nam Á và thậm chí ở một số nơi,
chẳng hạn ở đảo Java (Indonesia), dựa theo cốt truyện gốc này, người ta đã tạo
nên những biến thể khác tương tự.
2.3. Văn hóa Đơng Nam Á từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX
2.3.1. Bối cảnh văn hóa - lịch sử

12


Từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX, lịch sử - văn hóa Đơng Nam Á trải qua hai
thời kỳ chính: thời kỳ xác lập và phát triển thịnh đạt của các vương quốc dân tộc
(thế kỷ X - XV) và thời kỳ suy thoái của chúng (thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XIX).
Trước đó, thế kỷ VII - thế kỷ IX, có thể coi là giai đoạn chuẩn bị, tích lũy của
các vương quốc phong kiến Đơng Nam Á. Và thế kỷ X là thế kỷ “bản lề” trong quá

trình phát triển của các vương quốc này. Từ đây đánh dấu một kỷ nguyên mới đối
với các quốc gia Đông Nam Á: “kỷ nguyên độc lập dân tộc mở đầu cho thời đại
phục hưng trên tồn Đơng Nam Á với đặc điểm nổi bật là trở lại chính mình, là sự
khẳng định ý thức dân tộc, một nền văn hóa dân tộc đã định hình”.
Từ thế kỷ XIV, sau khi Tumasik (khu vực Singapore ngày nay) bị thiêu hủy bởi
người Java, khu vực Malacca (thuộc Malaysia ngày nay) trở thành một trung tâm
thương mại lớn ở Đông Nam Á. Từ thế kỷ XV, Malacca trở thành một quốc gia có
ảnh hưởng rất lớn ở vùng này, đặc biệt là sau khi đế quốc Majapahit bước vào con
đường suy yếu dần.
Sau thế kỷ XV,nói chung các quốc gia Đông Nam Á đã bắt đầu đi vào thời kỳ
suy thối. Tất nhiên, tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng nước mà thời gian và
mức độ suy thoái của mỗi nước khơng hồn tồn như nhau. Trên bán đảo Trung
Ấn, theo trình tự thời gian, Cămpuchia bước vào thời kỳ suy thoái sớm nhất
(khoảng thế kỷ XIII), sau đó đến Chămpa (thế kỷ XV), tiếp theo là Việt Nam,
Miến Điện và cuối cùng mới là Xiêm và Lan Sang.
Tóm lại, sau một thời kỳ khá dài phát triển thịnh vượng, đến khoảng cuối thế kỷ
XVI, phần lớn các quốc gia ở Đông Nam Á đều đi vào con đường suy thối. Sự
suy thối này có ngun nhân sâu sa từ trong lòng chế độ phong kiến đã lỗi thời.
Trước những đòi hỏi cấp bách phải thay đổi nền kinh tế - xã hội, các nhà nước
phong kiến lúc bấy giờ khơng những khơng thực hiện được mà cịn dồn hết sức
vào các cuộc chiến tranh liên miên, gây ra những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Với
một tình hình như thế, cộng với sự xâm nhập của các đế quốc phương Tây, các
quốc gia Đông Nam Á càng đi vào con đường suy sụp nhanh chóng.
2.3.2. Những thành tựu văn hóa
Trên cái nền của văn hóa bản địa cộng với sự tiếp thu văn hóa Trung - Ấn của
thiên niên kỉ đầu công nguyên, trong thiên niên kỉ tiếp theo của thời kì lịch sử, văn
13


hóa Đơng Nam Á đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về mặt vật chất và tinh

thần.
Văn hóa Đông Nam Á cần phải kể đến là sự xuất hiện chữ viết mới của các dân
tộc-phương tiện chuyển tải thông tin quan trọng nhất của con người. Theo những
dấu tích đã biết, chữ Thái cổ đã hình thành ở vùng đông bắc Đông Dương - tây
nam Trung Quốc, tức là khu vực đông người Thái sinh sống. Chữ Thái cổ có nhiều
yếu tố giống chữ Pegu cổ (ở Miến Điện) vốn xuất hiện vào đầu công nguyên. Song
bản thân chữ Pegu cổ thực ra cũng bắt nguồn từ chữ Ấn Độ cổ. Chữ Thái - Xiêm,
tức chữ viết của cư dân Thái khu vực Chao Phraya, ra đời vào khoảng thế kỉ XIII.
Chữ Lào ra đời khoảng thế kỉ XIV trên cơ sở chữ Xiêm cổ. Một văn bản có niên
đại chính xác liên quan đến sự xuất hiện của chữ Lào là Lời huấn thị của Pha
Ngừm năm 1353. Các văn bản muộn hơn là văn bia Vat That (Luôngphabăng) năm
1548, văn bia Donsai năm 1560 và văn bia That Luông (Viengchan) năm 1566. Ở
Việt Nam, đồng thời với chữ Hán, chữ Nôm cũng xuất hiện trong thời Lý - Trần.
Sự xuất hiện của một số các tôn giáo mới ở Đông Nam Á: Hồi giáo và Kito
giáo.
Sự xuất hiện một số các bộ luật ở quốc gia Đông Nam Á.
Sự hưng thịnh của văn học Đông Nam Á.
2.4. Văn hóa Đơng Nam Á từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945
2.4.1. Bối cảnh văn hóa - lịch sử
Đến cuối thế kỉ XIX, tất cả các quốc gia Đông Nam Á (trừ Xiêm) đều rơi vào
tay thực dân phương Tây.
Tất cả các quốc gia Đông Nam Á khác đều nằm trong tay sự đô hộ của thực dân
phương Tây: Philippines thuộc Mĩ, Indonesia thuộc Hà Lan, Malaysia, Brunei,
Miến Điện thuộc Anh, Việt Nam, Cămpuchia, Lào thuộc Pháp.
Sau năm 1940, các nước Đông Nam Á lại rơi vào một hiểm họa ngoại xâm
khác: Nhật Bản.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á giành độc lập dân tộc, lật đổ ách
thống trị của thực dân đã diễn ra ở tất cả các nước trong suốt thời kì từ cuối thế kỉ
XIX đến năm 1945.
14



2.4.2. Các đặc điểm và thành tựu văn hóa
Văn hóa Đơng Nam Á thời kì này mang hai đặc điểm chính: 1) tốt lên tinh
thần u nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính trong cuộc đấu tranh giành độc lập,
tự do. 2) tiếp thu những thành quả tiến bộ của văn hóa phương Tây cả về mặt vật
chất lẫn về mặt tinh thần.
Những thành quả của văn hóa vật chất:
Điểm nổi bật trong thời kì này là sự phát triển nhanh chóng của các đơ thị theo
hướng khơng chỉ là trung tâm chính trị - văn hóa mà cịn là những trung tâm công thương nghiệp lớn.
Bắt đầu từ thủ đô Yangon của Miến Điện. Tại đây người ta xây dựng thành phố
theo kểu hiện đại của phương Tây: hai đường trục lớn và bốn đường phố chính
giao nhau, chia thành phố thành các ô vuông mà trung tâm là ngôi chùa Sule xinh
đẹp.
Từ năm 1856, Singapore đã được coi là một thành phố - trung tâm thương mại
lớn của Đơng Nam Á, nó được quy hoạch và xây dựng nhanh chóng thành một
thành phố cảng sầm uất. Vai trị của nó càng được khẳng định từ khi kênh đào Sue
được hồn thành. Hàng hóa từ các vùng khác nhau của Đông Nam Á được chuyển
tới đây để rồi từ đây chúng lại được chuyển đi Trung Quốc, Ấn Độ và các nước
phương Tây. Ngược lại, từ Mĩ, Australia các thương gia lại mang đến đây kim loại
màu, sắt, vũ khí, bơng,…
Vào đầu thế kỉ XX, với sự có mặt của người Mĩ, thủ đơ Manila càng có tốc độ
đơ thị hóa nhanh chóng, hàng loạt tịa nhà như Trung tâm hành chính - thương mại,
bưu điện, Tịa nghị viện, nhà hát Metropolitentan, bệnh viện Trung ương,… được
mọc lên. Manila được mở rộng cả về lãnh thổ lẫn dân số.
Ở Thái Lan, dưới triều vua Rama V (tức Chulalongkon), bộ mặt thủ đơ
Bangkok có nhiều thay đổi. Rất nhiều cơng trình cơng cộng được xây dựng, một
trong những cơng trình kiến trúc lớn được hồn thành vào năm 1880 là tịa nhà ba
chóp trong Cung điện lớn. Nhiều tịa nhà mô phỏng cấu trúc phương Tây đã xuất
hiện trong thời kì đầu thế kỉ XX như nhà Quốc hội, thậm chí nhà chùa

Benchamopobit được xây dựng bằng đá cẩm thạch.

15


Ở Việt Nam, đầu thế kỉ XX, Hà Nội và Sài Gịn trở thành những đơ thị sầm uất,
những trung tâm thương nghiêp - công nghiệp lớn của cả nước. Hải Phịng cũng trở
thành cảng lớn thứ hai ở Đơng Dương. Nhiều thị xã, thị trấn bắt được xây dựng
hoặc mở rộng dần như Nam Định, Hải Dương, Hòn Gai, Huế, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Biên Hịa,…
Xét về mặt văn hóa vật chất, đồng thời với sự phát triển của các đô thị Đông
Nam Á là sự phát triển của một loạt cơng trình xây dựng khác liên quan đến đơ thị
và đến sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa của đất nước nói chung như giao
thơng vận tải, bưu điện, trường học, ngân hàng, thư viện, bệnh viện, nhà máy,…
Văn học Đông Nam Á bước vào giai đoạn chuyển mình, thay đổi khá tồn diện
cả về nội dung lẫn hình thức:
Trước hết, một xu hướng phát triển đáng được ghi nhận là việc đề cao, sử dụng
tiếng nói, chữ viết dân tộc trong các sáng tác văn học.
Một điểm nổi bật khác của thành tựu văn học Đơng Nam Á thời kì này là sự
xuất hiện nhiều khuynh hướng văn học mới.
Sự đa dạng về mặt thể loại cũng là một đặc điểm đáng chú ý của văn học Đông
Nam Á nửa cuối thế kỉ XIX nửa đầu thế kỉ XX.
Tóm lại, qua 100 năm nằm trong sự đô hộ của phương Tây và giao lưu văn hóa
với phương Tây, tồn khu vực Đơng Nam Á đã có nhiều sự thay đổi lớn về mặt
văn hóa. Dĩ nhiên, sự thay đổi đó phải trả bằng máu xương và nước mắt bởi gót
giày của thực dân xâm lược. Thời gian này ở tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều
diễn ra hai xu hướng trái ngược nhau nhưng lại rất thống nhất, đó là vừa chống lại
sự bành trướng và xâm lược của phương Tây vừa không chối từ việc tiếp thu
những yếu tố văn hóa mới tiến bộ của nó để đưa Đơng Nam Á nhanh chóng hịa
nhập vào thế giới hiện đại. Chính vì thế bản sắc văn hóa dân tộc Đơng Nam Á

khơng những khơng bị thơn tính bởi những yếu tố ngoại lai mà còn được bồi đắp,
được làm phong phú thêm, tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển tồn diện
sau này khi các quốc gia Đơng Nam Á lần lượt giành được độc lập dân tộc và bước
vào thời kì xây dựng đất nước.
2.5. Văn Hóa Đơng Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay
2.5.1. Bối cảnh văn hóa - lịch sử
16


Sau khi Nhật rút khỏi Đơng Nam Á (1945), có thể nói nhân dân Đơng Nam Á
lại bước vào thời kì thứ hai chống thực dân phương Tây. Từ đó phong đấu tranh
giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở tất cả các nước. Và vào những thời điểm
lịch sử khác nhau, các nước Đông Nam Á đã giành được độc lập ở những mức độ
khác nhau để rồi cùng bước vào con đường xây dựng và phát triển cho đến ngày
nay.
2.5.2. Một số đặc điểm văn hóa
- Cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hóa được tăng cường:
Thấy rõ được tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa trong đời sống hiện đại,
chính phủ các quốc gia Đông Nam Á, những năm qua, đã chú ý đến việc tăng
cường cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hóa. Tại thủ đơ và các thành phố lớn
Đơng Nam Á, hàng trăm hàng nghìn nhà hát, rạp chiếu bóng, rạp xiếc, bảo tàng,
thư viện, nhà xuất bản, nhà in, hiệu sách, nhà triển lãm, phòng tranh, sân vận động,
nhà văn hóa,… đã được xây dựng và nâng cấp. Các thiết bị tiên tiến, hiện đại cũng
đã dần được đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả. Có
những nơi như ở Manila, Philippines vào năm 1969, người ta còn xây dựng cả một
tổng thể kiến trúc văn hóa đồ sộ bao gồm bảo tàng Dân tộc học, bảo tàng Lịch sử,
thư viện, phòng tranh, nhà hát,… Ngay ở một đất nước nhỏ như Brunei, từ những
năm 60, người ta đã xây dựng một viện bảo tàng vĩ đại tại trung tâm thành phố, ở
đó có rất nhiều hiện vật có giá trị về mặt khảo cổ học và dân tộc học. Cạnh viện
bảo tàng là một thư viện lớn nhất quốc gia. Đến năm 1989, một thư viện lớn khácThư viện Quân đội-lại được hoàn thành, đấy là chưa kể đến nhiều thư viện ở các

trường đại học, viện nghiên cứu,… Tại nhiều quốc gia Đơng Nam Á, nhiều cơng
trình văn hóa đồ sộ đã được xây dựng trong thời gian gần đây như Thư viện Quốc
gia, Bảo tàng quốc gia Malaysia tại thủ đô Kuala lumpur, Bảo tàng dân tộc học
Việt Nam tại Hà Nội,… Ngày nay, ở tận các xã bản xa xơi trên núi cao, ngồi hải
đảo cũng có mạng lưới thư viện, radio, tivi,…
- Gắn liền với việc tăng cường cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hóa là sự ra
đời và phát triển mạnh mẽ của văn hóa chun nghiệp:
Các đồn kịch, đồn xiếc, các xí nghiệp phim truyện, phim truyền hình, các
đồn ca múa nhạc dân tộc,… đều có ở tất cả các quốc gia Đơng Nam Á. Nói
chung, sau ngày các quốc gia Đơng Nam Á được giải phóng, đội ngũ văn nghệ sĩ
17


và các nhà làm cơng tác văn hóa chun nghiệp, kể cả các nhà nghiên cứu, phê
bình và các nhà quản lí văn hóa, tăng lên nhanh chóng. Đồng thời với sự gia tăng
về số lượng là sự không ngừng nâng cao trình độ chun mơn của họ.
Hoạt động báo chí, xuất bản cũng được đẩy mạnh. Ở Đơng Nam Á có hàng
trăm tờ báo, tạp chí, hàng trăm nhà xuất bản mỗi năm cho ra mắt bạn đọc hàng
chục triệu xuất bản phẩm. Ở Malaysia chẳng hạn, có hơn 40 tờ báo hàng ngày,
trong đó có những tờ báo nổi tiếng như New Straits Times, The Star, Malaysian
Post, Berita Harian, Utusan Malaysia,… Số lượng báo nhiều đến mức, chỉ riêng hai
bang ở phía đơng Malaysia (Sarawak và Sabah) đã có tới 20 tờ.
Nói chung, ở các nước Đơng Nam Á đều có các cơ quan nhà nước cao nhất
quản lí các tổ chức và hoạt động văn hóa là Bộ Văn hóa.
Với bản thân các nghệ sĩ, từ xã hội phong kiến đến xã hội mới là cả một chặng
đường thay đổi lớn lao. Nếu như trước đây họ thường bị coi là “xướng ca vơ lồi”
thì ngày nay họ lại nhận được những danh hiệu cao quý như “siêu sao”, “nghệ sĩ
ưu tú”, “nghệ sĩ nhân dân”,… Sự quan tâm của chính phủ các quốc gia Đơng Nam
Á đối với đội ngũ văn hóa chuyên nghiệp đã góp phần quan trọng vào sự phát triển
văn hóa khu vực trong thời đại ngày nay.

- Sự giao lưu văn hóa khu vực và thế giới ngày càng mở rộng:
Sau khi các quốc gia Đông Nam Á giành được độc lập, sự giao lưu văn hóa với
thế giới bên ngồi là một yêu cầu khách quan, tự nhiên và tự giác. Sự giao lưu ấy
khá toàn diện, trên tất cả các phương diện của văn hóa (điện ảnh, âm nhạc, sân
khấu, ca múa, bảo tàng, xuất bản,..) và ở mọi nơi trên thế giới (châu Âu, châu Mĩ,
châu Phi, châu Úc và các nước láng giềng châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Ấn Độ,…). Các nước Đông Nam Á đã tích cực tham gia vào những
hoạt động văn hóa mang tính quốc tế như Liên hoan phim Quốc tế, Hội chợ triển
lãm sách Quốc tế, các Festival, Giải âm nhạc Quốc tế,… và hàng loạt các hội thảo,
hội nghị khoa học quốc tế về những vấn đề văn hóa.
Trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự giao
lưu văn và hợp tác văn hóa trong khu vực, trong nội bộ các nước ASEAN với
nhau.

18


- Bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống và tiếp thu văn hóa thế giới hiện
đại:
Nhìn lại tồn bộ q trình lịch sử văn hóa Đơng Nam Á, người ta thấy nổi lên
những mốc lớn đánh dấu sự phát triển của nó.
Ở thời kỳ tiền sử và sơ sử, tức thời kỳ phát sinh và định hình văn hóa bản địa
Đơng Nam Á, cư dân ở vùng này đã lấy việc trồng lúa nước làm nghề sống chủ
yếu của mình. Ngồi ra, nghề biển và nghề rừng cũng là những nghề đặc biệt quan
trọng trong việc chuyền tải văn hóa và hội tụ đời sống văn hóa của cư dân toàn khu
vực.
Vào thời kỳ tiền sử và sơ sử, cuộc sống quần tụ theo tổ chức cơ sở làng xã là
đặc trưng của cơ cấu xã hội Đông Nam Á.
Sau văn hóa Hịa Bình, văn hóa Đơng Sơn tỏa rộng trên tồn khu vực. Văn hóa
Đơng Sơn là biểu hiện cao nhất về sự gặp gỡ, sự hội tụ văn hóa thống nhất của các

dân tộc Đơng Nam Á thời bấy giờ. Chứng cớ về sự gặp gỡ này có thể dẫn ra hàng
loạt: trống đồng Đơng Sơn có ở khắp nơi, cả ở lục địa lẫn hải đảo, đồ gốm khơng
chỉ có ở Sa Huỳnh (Việt Nam) mà cịn xuất hiện ở Kalanay (Philippines), dao găm
ở Đơng Sơn (Việt Nam) và ở Indonesia,....
Trong thiên niên kỷ đầu tiên, dấu ấn sâu đậm nhất trong văn hóa Đơng Nam Á
là sự tiếp thu những thành quả của văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Ngồi sự xuất
hiện của các tôn giáo được đưa vào từ Ấn Độ và Trung Hoa (Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Nho giáo), một bước đổi mới văn hóa hết sức quan trọng là sự ra đời của các
nhà nước sơ khai Đông Nam Á theo mơ hình tổ chức của Ấn Độ.
Bước vào thời kỳ cận hiện đại, các quốc gia Đông Nam Á đứng trước hai thử
thách to lớn: sự ngưng trệ của xã hội tiểu nông,với nền kinh tế tự cấp tự túc và sự
thống trị của thực dân phương Tây. Trước tình thế đó, các dân tộc Đơng Nam Á
vừa phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc vừa phải tiếp nhận nền văn
hóa phương Tây để hiện đại hóa đất nước.

19


KẾT LUẬN
Đông Nam Á, như chúng ta đã biết, nằm trên đường giao lưu Trung Hoa - Ấn
Độ, nằm gọn trên trục thông thương Đông - Tây qua hai đại dương. Vị trí ấy tạo
điều kiện cho Đơng Nam Á, ngay từ buổi đầu lịch sử, đã tiếp thu ảnh hưởng của
văn hóa Trung, Ấn, Ảrập và, sau này, sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn phương
Tây. Những dấu ấn về sự tiếp thu ấy còn để lại khá đậm nét trong văn hóa Đơng
Nam Á. Các yếu tố mới tiếp thu từ bên ngoài cùng với các yếu tố bản địa đã làm
cho vườn hoa văn hóa Đơng Nam Á càng đa dạng sắc màu trong cuộc sống hiện
đại.
Đông Nam Á có một bản sắc văn hóa riêng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử,
bản sắc ấy ngày càng được bồi đắp thêm bởi những yếu tố tiến bộ. Ngày nay, các
nước Đông Nam Á đều đã giành được độc lập và đang bước vào thời kì phát triển

kinh tế, xây dựng xã hội mới giàu mạnh, tiên tiến, hiện đại. Chỉ với mấy chục năm
khôi phục kinh tế, phát triển đất nước, các quốc gia Đông Nam Á đã thu được
những thành tựu đáng kể. Có được những thành tựu ấy, một trong những lí do
quan trọng nhất là bởi vì khu vực này từ xa xưa đã có một bản sắc văn hóa chung,
đặc sắc, mà chỉ ngày nay trong hồn cảnh thế giới mới, nó mới có điều kiện phát
huy sức mạnh vốn có của mình.
Văn hóa là động lực quan trọng nhất của sự phát triển một nước, một khu vực.
Với một bề dày văn hóa giàu có, trong điều kiện hội nhập mới, từng quốc gia Đơng
Nam Á nói riêng, cả khu vực Đơng Nam Á nói chung nhất định sẽ có những bước
tiến dài trong một tương lai không xa. Đông Nam Á nhất định sẽ trở thành một khu
vực phát triển của thế giới.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Văn Tấn (1983), Tiền sử học Đông Nam Á: Tri thức và khuynh hướng.
Trong sách: “Về khảo cổ học tiền sử : “Culture in ASEAN and the 21
century”. UniPress. The Centre for the Arts National University of
Singapore.
2. Ngô Thế Phong (1983), Vài ghi nhận trong khi xem xét thời đại đá mới ở
Đông Nam Á. Trong sách: “ Về khảo cổ học tiền sử Đông Nam Á”. Viện
Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội.
3. Phạm Nguyên Long (1983), Một số vấn đề lịch sử Đông Nam Á. Trong
sách: “Về lịch sử Đông Nam Á thời cổ”. Viện Đông Nam Á xuất bản.
4. Hà Văn Tấn (1984), Văn hóa ngun thủy Đơng Nam Á như một cội nguồn
của văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian.
5. Lưu Kiếm Thanh (1993), Thủ đô các nước Đông Nam Á. Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
6. Nguyễn Lệ Thi (1993), Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á. Trong

cuốn: “Việt Nam - Đông Nam Á. Quan hệ lịch sử - văn hóa”. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
7. Cao Xuân Phổ (1993), Một số vấn đề về văn hóa và phát triển ở khu vực
Đông Nam Á. Trong cuốn: “Việt Nam – Đông Nam Á. Quan hệ lịch sử - văn
hóa”. Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Hà Văn Tấn (1994), Giao lưu kĩ thuật - Vấn đề đáng quan tâm đối với tiền sơ sử Việt Nam và khu vực. Khảo cổ học.
9. Nguyễn Ngọc Dung (1995), Xu hướng khu vực hóa Đơng Nam Á trong lịch
sử. Trong cuốn: “Đông Nam Á ngày nay”, Khoa Đông Nam Á, Trường Đại
học mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
10. Đinh Ngọc Bảo (1995), Mối quan hệ khu vực qua các nền văn hóa khảo cổ
thời tiền sử Đông Nam Á. Nghiên cứu Đông Nam Á.
11.Hall D.G.E. lịch sử Đơng Nam Á, (1997). Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12.Condominas Georges (1997), Không gian xã hội vùng Đơng Nam Á. Nxb
Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
13. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đơng Nam Á. Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
14. Tạp chí nghiên cứu Đơng Nam Á.
15. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử.
21



×