Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích – liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.5 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự
biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết
định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Suy cho cùng, sự phát triển xã
hội là kết quả của những hoạt động có ý thức của con người “đang theo
đuổi những mục đích nhất định”. Lợi ích chính đáng là động cơ thơi thúc
hành động của mỗi con người; việc giành, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp
pháp bao giờ cũng là động lực mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất thôi thúc con
người ta hoạt động. Trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hiện nay,
Đảng ta xác định: “Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hịa các lợi ích và
phương thức thực hiện lợi ích công bằng, hợp lý cho mọi người, cho các
chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”. Chính vì vậy, việc giải quyết các quan hệ
lợi ích một cách hài hịa, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đây cũng là lý do em xin chọn đề tài “Vai trò của nhà nước trong việc
bảo đảm hài hịa các quan hệ lợi ích – liên hệ với thực tiễn phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay” để làm rõ vai trò của Nhà nước trong đó.


NỘI DUNG
1. Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Lợi ích cá nhân, đó là tất cả những lợi ích vật chất, tinh thần gắn liền
với từng cá nhân cụ thể và dùng để thỏa mãn các nhu cầu riêng tư cụ thể
của cá nhân đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân; bao gồm:
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,...
Lợi ích xã hội là cái phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội và là cái
dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số) đối
tượng (vật chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện các quan hệ cơ bản và lâu
dài của xã hội.


Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bao gồm cả mặt thống
nhất và mâu thuẫn với nhau; trong đó thường thể hiện ở trạng thái mất cân
bằng do các chủ thể lợi ích khi thì đề cao lợi ích này, khi thì đề cao lợi ích
kia. Điều này thể hiện sự phức tạp của quan hệ lợi ích trong một hồn cảnh
lịch sử cụ thể. Trong q trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể ln
có xu hướng bảo vệ lợi ích thiết thân, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích bản thân,
dù điều đó có thể tạo mâu thuẫn, xung đột với các chủ thể lợi ích khác.
/>2. Quan niệm về sự hài hòa giữa các lợi ích
Hài hòa các lợi ích là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích của các
chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích được hạn chế; mặt thống


nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động góp phần thực hiện tốt hơn
các lợi ích, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Để có sự hài hịa giữa các lợi ích thì cần có sự can thiệp của nhà
nước. Bảo đảm hài hòa các lợi ích là sự can thiệp của nhà nước vào các
quan hệ lợi ích bằng các cơng cụ giáo dục, pháp luật, hành chính, kinh tế...
nhằm gia tăng lợi ích cho các chủ thể; hạn chế mâu thuẫn, tăng cường sự
thống nhất; xử lý kịp thời khi có xung đột.
/>GT%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA%A7n%20Kinh%20t%E1%BA
%BF%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20MNL%20(C)%20Tr
%20189-Tr263.pdf
3. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm hài hịa các quan hệ lợi ích
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một
nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã
hội chủ nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,

nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu
như vậy thì cơng cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


Hai là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Chính phủ có thể thơng qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa
chọn của mình để tác động đến sản xuất. Đồng thời, thơng qua thuế và các
khoản chuyển nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ đó tác động đến
việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.
Ba là, Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể
chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Vai trò kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho
dân giàu, nước mạnh, tăng trưởng ổn định và công bằng xã hội. Sự định
hướng nền kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua việc nhà
nước xây dựng quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Mặt khác, nhà nước tạo môi
trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật pháp đồng bộ, phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản hướng dẫn, các định chế,
các chính sách phát triển kinh tế. Để các chủ thể kinh tế giảm thiểu rủi ro,
tranh chấp. Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý để chống lại gian lận
bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật
về phá sản và khả năng thanh tốn, hệ thống tài chính với ngân hàng trung
ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được
thực hiện một cách nghiêm ngặt. Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ
chiến lược, kế hoạch, luật pháp và chính sách làm căn cứ cho hoạt động

kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền kinh tế để điều tiết các hành vi
ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.


Bốn là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và cơng cụ,
cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
bên cạnh sự phát triển tất yếu của xã hội xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo
ngày càng tăng. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một
cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất
tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
/>Thứ năm, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày
một tốt những chủ trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát triển của
cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà
nước đã ban hành và thực hiện ngày một tốt trên thực tế những chủ trương
đúng đắn về tạo cơ hội phát triển cho cả LICN và LIXH trên mọi lĩnh vực,
nhất là trong sở hữu và phân phối.
Thứ sáu, giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được
giải quyết sẽảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế.
Do đó, để giải quyết kịp thờikhi có mâu thuẫn phát sinh, các cơ quan chức
năng của nhà nước đã thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và
chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn
giữa các lợi ích là phải có sự tham gia của các bên liên quan, có nhân
nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết.Tuy ngăn ngừa là chính,



nhưng khi mâu thuẫn xảy ra giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có thể dẫn
đến xung đột (đình cơng, bãi cơng...). Khi đó, có sự tham gia hịa giải của
các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước đã góp phần giải
quyết vấn đề trên.
/>fbclid=IwAR20jLZf_yVr8Ub7LbC3vGb1YpzUcg7LwNPYst4HqT1TNhU
LsUYBZjy-jW0
4. Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải
quyết quan hệ lợi ích, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích để các chủ thể lợi ích xác
định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ lợi ích, tránh
xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Cần nâng cao nhận thức của các chủ thể
về tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích. Mỗi chủ thể cần được giáo
dục để tự đặt lợi ích của bản thân trong mối quan hệ với các lợi ích khác.
Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, chủ thể cá nhân
cần nhận thức được rằng, lợi ích xã hội chỉ có thể đạt được khi mỗi cá
nhân cố gắng thực hiện tốt các lợi ích chính đáng của mình thơng qua việc
tích cực học tập, lao động, rèn luyện, hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ;
mặt khác chủ thể của lợi ích xã hội chủ yếu là Đảng, Nhà nước cũng cần
nhận thức được rằng, muốn thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá nhân, của từng đối
tượng, nhất là quan tâm đến những người có cơng với cách mạng, những


đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội.
Hai là, tiếp tục hồn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Theo đó, cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh
doanh cho các doanh nghiệp, khơng phân biệt hình thức sở hữu, thành

phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt
động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp
luật, tạo cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực. Cụ thể hóa
các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận tài
sản cơng của mọi chủ thể trong nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận
lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật
sự trở thành lực lượng nịng cốt, đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo
thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đồn
kinh tế tư nhân mạnh, có cơng nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến.
Hồn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xóa bỏ
độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với doanh nghiệp
nhà nước.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hồn thiện chính sách tiền lương, kết hợp
thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội trong toàn xã hội, nhất là đối với các đối tượng còn


nhiều khó khăn như nơng dân, cơng nhân, những đồng bào vùng sâu, vùng
xa, đối tượng chính sách... thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo,
thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống đối với các đối
tượng có cơng với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ các giá trị
căn bản của sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ
các giá trị văn hóa - xã hội khác. Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo
Đề án cải cách tiền lương đã được ban hành, đảm bảo tiền lương thực sự
đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đặc
biệt đối với người cơng nhân; có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với
những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.

Bốn là, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm
ngăn chặn những hành vi tiêu cực như tham ơ, tham nhũng, lợi ích nhóm
Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp công khai,
minh bạch để phịng ngừa các hiện tượng tham ơ, tham nhũng, lãng phí.
Nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng tài sản cơng, phát huy tốt trách
nhiệm giải trình, thực hiện tốt các biện pháp cơng khai tài chính, minh
bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức... Trên phạm vi
toàn xã hội, cần phải tiến tới một xã hội minh bạch, trên cơ sở quản lý tốt
việc sở hữu tài sản của mỗi cá nhân, xây dựng một xã hội hạn chế dùng
tiền mặt, quản lý chặt chẽ các nguồn tiền trong thanh toán... Mặt khác, cần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý nghiêm minh những trường
hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, bn lậu, trốn thuế, hàng
giả, hàng kém chất lượng... đây là những hành vi phá hoại nghiêm trọng
các quan hệ lợi ích, gây tổn hại tới cả lợi ích cá nhân và các mục tiêu của
lợi ích xã hội.


Năm là, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình
đồng thời bảo đảm lợi ích xã hội
Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học
tập, lao động, sản xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ
chế, chính sách cụ thể, nhất là trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các
nguồn lực cho sự phát triển. Thông qua các biện pháp giáo dục - đào tạo,
tuyên truyền, các hoạt động thực tiễn phong phú để họ thấy rằng, để thỏa
mãn các nhu cầu, lợi ích của bản thân, trước hết cần có sự cố gắng, rèn
luyện, cần cù, vượt khó vươn lên, tích cực lao động, đóng góp cho xã hội;
đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm các lợi ích chính đáng của
bản thân từ các chủ thể khác; loại bỏ tư tưởng tự mãn, ỷ lại; có cái nhìn
tích cực về các vấn đề của xã hội, tìm ra những cơ hội cho sự phát triển
của mỗi cá nhân.

/>KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế,
tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các nguồn lực của Nhà nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Để
làm tốt hơn nữa vai trị của mình Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các thể


chế, chính sách quan tâm đến lợi ích của các cá nhân và xã hội, góp phần
tạo nên xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

/>
bao-hai-hoa-cac-quan-he-loi-ich-kinh-te
2. />/GT%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA%A7n%20Kinh%20t
%E1%BA%BF%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20MNL%20(C)
%20Tr%20189-Tr263.pdf
3. />fbclid=IwAR20jLZf_yVr8Ub7LbC3vGb1YpzUcg7LwNPYst4HqT1TNhU
LsUYBZjy-jW0



×