Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau đại thắng mùa xuân năm 1975 và kinh nghiệm lịch sử đối với công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.43 KB, 7 trang )

MỞ ĐẦU
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đưa cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ của dân tộc
Việt Nam ta đến thắng lợi huy hồng, trọn vẹn: non sơng thu về một mối, đất nước
sạch bóng qn xâm lược. Cuộc tổng tấn cơng và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
cũng đã để lại cho chúng ta nhiều bài học lịch sử vô cùng quý giá đối với công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và cách mạng
công nghiệp mới hiện nay. Để đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này, em xin lựa chọn đề
tài: “Phân tích q trình hồn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau
đại thắng mùa xuân năm 1975 và kinh nghiệm lịch sử đối với công cuộc đổi
mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết
thúc học phần của mình.

NỘI DUNG
1. Q trình hồn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau đại
thắng mùa xuân năm 1975
1.1.

Hoàn cảnh lịch sử

Sau đại thắng mùa xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt
lãnh thổ, song ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Thực
tế đó trái với nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dan hai miền Nam – Bắc
là sớm được sum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống
nhất, một cơ quan đại diện quyền lực chung cho nhân dân cả nước.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước kết thúc, nhân dân ta đã hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong phạm vi cả nước, đưa nước ta
chuyển sang giai đoạn mới. Đây là điều kiện có tính quy luật để nhân dân ta thống
nhất đất nước và đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1




Như vậy, việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước là một yêu cầu cấp thiết
và là một tất yếu của cách mạng nước ta. Đồng thời nó hợp với quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam.
1.2.

Quá trình thống nhất

Đáp lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, đồng thời phù hợp
với thực tế lịch sử dân tộc – “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” –
Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành TRung ương Đảng (9/1975) đã đề ra nhiệm vụ
hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Nghị quyết của Đảng nêu rõ: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha
thiết của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng
Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.
Từ ngày 15 đến 21 /11/1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất
nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự.
Hội nghị nhất trí hồn tồn các vấn đề về chủ trương, biện pháp nhằm thống nhất
đất nước về mặt nhà nước.
Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành
trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri (chiếm 98.8% tổng số cử tri) đi bỏ phiếu và bầu
ra 492 đại biểu. Từ 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội khóa VI nước Việt Nam thống
nhất họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội.
Quốc hội thơng qua chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam
thống nhất, quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( từ
ngày 2/7/1976), quyết định Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Quốc kỳ là lá Cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô là Hà
Nội, thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội đã bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp. Tôn Đức Thắng được bầu
làm chủ tịch nước, Trường Chinh được bầu làm chủ tịch Ủy ban thường vụ QUốc
hội, Phạm Văn Đồng làm thủ tướng. Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chức
thành ba cấp chính quyền: cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, cấp huyện
2


và tương đương, cấp xã và tương đương. Ở mỗi cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân.
Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất
nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Từ đây, việc tiếp tục hoàn thành thống nhất
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, sẽ gắn liền với
việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả
nước. Ngày 31/1/1977, Đại hội đại biểu các Mặt trận của hai miền Nam – Bắc đã
họp ở thành phố Hồ Chí Minh, quyết định thống nhất các Mặt trận thành Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Ngày 18/12/1980, Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua.
1.3.

Ý nghĩa của việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước

Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là một yêu cầu tất yếu
khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam và kết quả giành được đó thể
hiện lịng u nước, tinh thần đồn kết dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm
xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất của toàn thể nhân dân ta.
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đa tạo nên những điều kiện
chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh của đất nước, tạo điều kiện thuận
lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra những khả năng to lớn trong việc phát
triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp
tác với các nước trên thế giới, nâng cao vị thế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước và việc nước Việt Nam đã hịa
bình, thống nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại.
Ngày 2/7/1976 khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố thành lập
thì đã có 94 nước đặt quan hệ ngoại giao. Đến 1980 đã tăng lên 106 nước, đến
31/21/1989 có 114 nước đặt quan hệ ngoại giao, trong đó có 76 nước có đặt quan
hệ thương mại. Ngày 20/9/1977, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở
thành thành viên thứ 149 của Liên Hợp quốc. Từ đây ta có tiếng nói trên trường
quốc tế, tham gia vào những công việc chung của thế giới.

3


2. Kinh nghiệm lịch sử đối với công cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay
Thứ nhất, là bài học chớp thời cơ chiến lược. Bài học nhận định, nắm bắt
thời cơ chiến lược tiếp tục được vận dụng sáng tạo, góp phần quyết định giúp cho
Đảng ta lãnh đạo đất nước vượt qua những thử thách sống cịn, giành được những
thắng lợi có tính chất lịch sử. Giờ đây, đất nước ta lại đang đứng trước thời cơ
chiến lược mới với những thách thức mới, nghiêm trọng và phức tạp. Q trình
tồn cầu hóa ngày càng tăng tốc đã đưa lại cho sự nghiệp phát triển bền vững đất
nước những nguồn lực và vận hội mới. Chưa bao giờ hàng hóa thuộc nhiều chủng
loại của Việt Nam lại vươn xa đến thế trên khắp toàn cầu; Việt Nam cũng tham gia
ngày càng tích cực và có trách nhiệm trong các cơng việc mang tầm vóc thế giới và
khu vực, uy tín quốc gia ngày càng được nâng cao. Song, tồn cầu hóa cũng đặt ra
nhiều thách thức hiểm nghèo chưa từng có. Biến đổi khí hậu tồn cầu có thể đặt
một số vùng của nước ta trước nguy cơ thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn khó bề
khắc phục; làn sóng xâm thực văn hóa có thể làm xói mịn hệ giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc; dịch bệnh, như đại dịch bệnh COVID-19 chẳng hạn, gây ra
những thiệt hại vô cùng to lớn. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng cơng nghiệp mới

cũng mở ra cơ hội vô cùng to lớn cho các nước đi sau như Việt Nam có thể thực
hiện thành cơng chiến lược phát triển rút ngắn để thốt khỏi tình trạng tụt hậu, gia
nhập vào hàng ngũ những quốc gia tiên tiến nhất. Tuy nhiên, kèm theo đó, nguy cơ
mà cuộc cách mạng này đưa lại cũng rất lớn: đó có thể là sự lệ thuộc lâu dài và
vĩnh viễn về cơng nghệ và sự kiểm sốt vơ giới hạn của những tập đồn cơng nghệ
tồn cầu đối với mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc.
Trong bối cảnh đó, bài học về sự phân tích khoa học, về tầm nhìn và bản lĩnh
chớp thời cơ chiến lược của Đại thắng mùa Xuân 1975 càng có giá trị thiết thực.
Thực tế là, giống như 45 năm trước, đất nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam
khơng có lựa chọn nào khác, ngồi việc cả quyết xơng vào dịng thác lũ của thời
4


đại, chấp nhận thách thức lịch sử, do đó, biến nguy thành cơ, phát huy cao độ ý chí
và khát vọng của dân tộc để chiếm lấy những lợi thế, vượt qua trở ngại để tiến
bước.
Thứ hai, là bài học về sự sáng tạo và mưu lược trong chỉ đạo chiến lược.
Bản thân sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã là q trình sáng tạo
khơng ngừng, hơn nữa, trong chỉ đạo chiến tranh, nhất là những chiến dịch quyết
chiến chiến lược thì sự sáng tạo và mưu lược là địi hỏi rất cao và mang tính bắt
buộc. Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là minh chứng tiêu biểu
nhất của tài nghệ cầm quân xuất chúng của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương.
Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay cũng đặt ra yêu cầu rất cao về tính
sáng tạo và mưu lược đối với sự lãnh đạo và chỉ đạo chiến lược của Đảng và nhà
nước ta. Đương nhiên, sự sáng tạo và mưu lược đó khơng có sẵn trong sách vở nào,
cũng không chỉ dựa được vào sự già dặn của tích lũy kinh nghiệm và thơng minh,
tài trí cá nhân, mà trước hết phải là thành tựu của sự lãnh đạo tập thể, trước hết là
tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương, các
cơ quan nhà nước.Song, cũng còn cần phải phát huy trí tuệ, tham mưu của đội ngũ
chuyên gia, các bộ chỉ huy các cấp và của toàn thể nhân dân. Sự sáng tạo và mưu

lược trong kỷ ngun tồn cầu hóa và văn minh trí tuệ lại càng phải dựa vào những
kết quả nghiên cứu, phân tích thực sự khách quan, khoa học của các cơ quan và đội
ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp, cũng như những sáng kiến phong phú của nhân
dân.
Hiện nay và trong tương lai, sự cạnh tranh phát triển khốc liệt nhất giữa các
quốc gia, các nền kinh tế, các tập đoàn và các cơng ty chính là cạnh tranh về tốc độ
đổi mới tri thức, tốc độ rút ngắn vịng đời cơng nghệ, và tựu trung lại là mức độ tích
hợp văn hóa và hàm lượng trí tuệ trong các sản phẩm kinh tế và văn hóa. Trong bối
cảnh đó, Đảng ta đã xác định rất chính xác: khoa học cơng nghệ và giáo dục đào
tạo là quốc sách hàng đầu; phát triển văn hóa, nhất là cơng nghiệp văn hóa phải tạo
5


bước đột phá để văn hóa trở thành một nguồn lực phát triển trực tiếp, gắn phát triển
văn hóa với phát triển con người để văn hóa thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh
thần của xã hội. Tuy nhiên, nhận thức trong chỉ đạo chiến lược cịn có lúc, có nơi
chưa thực rõ, nhất là chưa tìm ra được khâu đột phá then chốt nhất để tạo ra được
chuyển biến có tính chất mở đường, tạo ra chuyển động có tính dây chuyền, làm
thay đổi tồn bộ cơng cuộc phát triển.
Thứ ba, là bài học về phát huy cao độ hào khí dân tộc trên nguyên tắc đặt đại
nghĩa dân tộc và lợi ích quốc gia lên trên hết. Lịch sử đã cho thấy, trước những
khúc quanh, trong những thời khắc quyết định, nếu hào khí dân tộc được phát huy,
đại nghĩa dân tộc được giương cao thì nhất định dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua mọi
thử thách và lập được những kỳ công hiển hách.
Trong bối cảnh mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay,
hào khí dân tộc càng đang rất cần được khơi dậy và phát huy để toàn dân tộc chung
sức, đồng lịng, cộng trí, cộng lực để đưa đất nước thốt khỏi tình trạng tụt hậu, bảo
vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Đã 47 năm trơi qua, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của Đại thắng
mùa Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn.

Chiến cơng hiển hách đó khơng chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc
mà cịn ln cổ vũ tồn Đảng, tồn qn và toàn dân ta trên những chặng đường
cách mạng mới.

KẾT LUẬN
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con
đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Thắng lợi của nhân dân
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng
cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hồ bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động
6


viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế
quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Kỷ niệm 40
năm Ngày giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước là dịp ôn lại những
trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát
triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm
được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí
quyết tâm trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Hồng Tung - Nguyễn Văn Kim, Lịch sử và văn hóa: tiếp cận đa
chiều, liên ngành, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.
2. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh
Cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị
Quốc gia Sự thật, 2004.
4.

GS.TS. Phạm Hồng Tung, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, xem tại: truy cập ngày 30/04/2022.

5.

Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước ở Việt Nam sau
năm 1975 có ý nghĩa quan trọng gì, xem tại: truy cập ngày 30/04/2022.

7



×