MỞ ĐẦU
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó
lường. Tồn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước.
Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội nhập
quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức
ngày càng đa dạng và phức tạp.
Giai đoạn này đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng rất
nhiều thách thức. Sau hơn ba thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và
lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Mơi trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế
và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy
nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải
đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay
vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Để phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong hơn ba thập kỷ tiến
hành công cuộc đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp
tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt
1
1
Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Trên cơ sở đường lối đối ngoại
đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa
phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ
với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế
quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Bài thu hoạch này đề cập đến vấn đề: “Những nội dung chủ yếu trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
của Đảng”.
2
2
NỘI DUNG
1- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại:
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta. Những nội dung có tính khoa học và cách mạng
về thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế; về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân tư tưởng cùng tồn tại hịa bình giữa các nước có chế độ
chính trị, xã hội khác nhau…Trong học thuyết Mác-Lênin luôn được Đảng ta chủ
trương nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh thế giới mới và điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm về
đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế,
bao gồm: Độc lập dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; ngoại
giao tâm cơng; ngoại giao hịa bình, hữu nghị với các dân tộc khác; ngoại giao “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” và ngoại giao nắm vững thời cơ, giành chiến thắng từng
bước.
2- Quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại của Đảng ta:
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của Việt Nam bắt đầu từ rất
sớm nhưng chủ yếu được đẩy mạnh từ sau khi Đảng ta phát động sự nghiệp đổi
mới. Hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung trọng tâm của Hội nhập quốc tế và là
một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Các quan điểm, chủ
3
3
trương của Đảng về Hội nhập kinh tế quốc tế mang tính nhất qn, hệ thống, ln
được cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại hội.
Ngay từ những năm 1980 của thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận
thức được tính cần thiết và tất yếu của Hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó tới nay,
đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất qn, khơng
ngừng được hồn thiện và triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của
từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đề ra đường lối Đổi mới toàn diện và
sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế
giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu
tranh vừa hợp tác. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để chúng ta
phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) xác định rõ chủ trương “độc lập tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn
mới của nước ta. Nhờ chủ trương này, Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao
vây cơ lập của các thế lực thù địch, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
đối ngoại song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu, Liên Xô tan rã. Một cơ chế hợp tác mới ra đời, vận hành theo những quy luật
mà hôm nay chúng ta đã rất quen thuộc: cơ chế thị trường. Đây là một cột mốc
quan trọng đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế trong thời kỳ mới.
4
4
Triển khai Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 3 (Khố VII) về
chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại đã cụ thể hố hơn nữa chính sách đối
ngoại của Việt Nam “phát huy những điểm đồng, hạn chế những điểm bất đồng” và
nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn mạnh
“cố gắng khai thơng quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB)..., mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực, trước hết là ở Châu Á - Thái
Bình Dương”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) xác định sự cần thiết phải xây dựng
một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu.
Từ đó, Đảng đưa nhiệm vụ đối ngoại lên một tầm cao mới: “Nhiệm vụ đối ngoại
trong giai đoạn tới là củng cố môi trường hồ bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn
nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất
nước” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Lần đầu tiên Nghị quyết
của Đảng đề cập đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục
tiêu phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Nó đánh dấu một bước chuyển biến
cơ bản trong nhận thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 18 tháng 11 năm 1996 của Bộ Chính trị về
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại và Nghị quyết 04-NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương (Khoá VIII) ngày 29 tháng 12 năm 1997 về tiếp tục đổi
mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000
là những văn kiện quan trọng chỉ đạo việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của
Việt Nam.
Nghị quyết 01-NQ/TW đã chỉ rõ 4 phương hướng phát triển kinh tế đối
ngoại thời kỳ này là tăng cường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút và sử
5
5
dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và phát triển các ngành dịch
vụ định hướng xuất khẩu thu ngoại tệ. Trong đó, tăng cường xuất khẩu là trọng
điểm chiến lược của kinh tế đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng nhằm phục
vụ tích cực cho phương hướng này.
Nghị quyết 04/NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương ra đời trong bối cảnh
Đảng ta đang nhìn lại những gì đã vượt qua để đánh giá khách quan những thách
thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cả trong nước và từ bên ngoài. Cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và ở một số nước trên thế giới là một
bài học lớn để chúng ta đúc rút những kinh nghiệm cho quá trình hội nhập và nhận
thức rõ rằng chúng ta hội nhập thành cơng bằng chính sức mình, với nội lực được
phát huy tối đa, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao.
Từ thực tế đó, Đảng ta đã đề ra nguyên tắc định hướng cho hội nhập kinh tế quốc
tế: “Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các
nguồn lực bên ngồi”, “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường
quốc tế”.
Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) đã khẳng định tính tất yếu, đánh giá
bản chất của tồn cầu hoá và cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam khi
tham gia q trình này: "Tồn cầu hố kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh". Một trong những mặt tiêu cực của toàn cầu hoá được
Đảng ta chỉ rõ là chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học,
cơng nghệ và thị trường. Tồn cầu hố đang là xu thế khách quan nhưng đang bị
chi phối bởi các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, do
đó việc cần nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đảng ta cũng nhận thức rõ hội nhập kinh tế
quốc tế mang lại nhiều cơ hội phát triển cho đất nước. Đảng chỉ rõ nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong bốn
6
6
nguy cơ và chúng ta có thể tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại để tránh khỏi nguy cơ này.
Đại hội IX đã kiểm điểm lại quá trình thực hiện đường lối đối ngoại do Đại
hội VIII đề ra, một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” và đề ra nguyên tắc cơ bản và bao
trùm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố
dân tộc, bảo vệ mơi trường”. Đại hội IX đã đổi mới phương châm đối ngoại được
đề ra từ Đại hội VII, phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các
nước...” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) tiếp tục cụ thể hóa, đưa ra các chủ
trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “lấy lợi ích dân tộc làm
mục tiêu cao nhất”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn
cầu, khu vực và song phương”, “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các Hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương”.
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1
năm 2007, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 5 tháng 2 năm 2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, trong đó nhấn mạnh việc “không ngừng tăng
cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả”, và “thực hiện nhất quán đường lối đối
7
7
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế...; tạo mơi trường hịa bình, ổn định
để xây dựng và phát triển đất nước”. Nghị quyết Đại hội XI đã nâng chủ trương
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác” lên thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Để cụ thể hóa chủ trương này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, chúng ta đang
chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện: hội nhập giờ đây không chỉ giới hạn
trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng trên nhiều lĩnh vực khác. Tuy nhiên, “hội
nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho
hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng,
bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy
phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ
trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với
điều kiện thực tế và năng lực của đất nước”.
Như vậy, với Nghị quyết 22-NQ/TW, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
quốc tế của Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập toàn
diện trên cả lĩnh vực cơ bản: kinh tế; chính trị, quốc phịng và an ninh; văn hóa, xã
hội, khoa học cơng nghệ và giáo dục, đào tạo.
Ngày 13 tháng 5 năm 2014, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 31/NQ-CP ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22NQ/TW và ngày 10 tháng 7 năm 2014, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 49/NQCP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
8
8
thành viên của WTO. Đây là các văn bản quan trọng, đề ra định hướng và các
nhiệm vụ chủ yếu triển khai công tác hội nhập trong thời gian tới.
Quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã
có những bước tiến quan trọng. Từ nhu cầu thực tế phải tăng cường mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế để phá thế bị bao vây, cô lập ở những
năm đầu thập kỷ 90, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến nay đã mang một sắc
thái mới. Chúng ta đã tích cực, chủ động để mở rộng thị trường ra nước ngoài và
từng bước khẳng định vai trị của mình trong nền kinh tế khu vực và quốc tế.
Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở
rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, tham gia tích cực và có trách nhiệm
tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần
gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, cải
thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân và cộng đồng
quốc tế vào sự nghiệp phát triển và đổi mới của đất nước, góp phần bảo vệ độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã trải qua giai đoạn thực hiện các
cam kết ban đầu, đến nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng đi vào
chiều sâu, việc thực hiện các cam kết trong giai đoạn mới chắc chắn sẽ có những
ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
Thực hiện các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế đã đạt được những kết quả vững chắc. Thành tựu lớn nhất trong phát
triển kinh tế-xã hội giai đoạn 1990-2000 là nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát
triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn từ 2001 đến nay, đất nước ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đưa đất nước tiến nhanh và vững
9
9
chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hóa là xu thế khách
quan, lơi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa
tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
3- Đại hội XII và những điểm mới về đường lối đối ngoại:
Đại hội XII của Đảng (năm 2016), trên cơ sở kế thừa những nội dung đối
ngoại của các Đại hội trước đó, đã nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là
phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc”, xác định nhiệm vụ đối ngoại
là phải “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, kiến quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề Đại hội.
Đó là "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc
đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định; xây
dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại."
So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan
trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng
thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước
trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.
Đại hội XII cũng đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối ngoại. Lần
đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện
10
10
Đại hội XI. Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi.” Qua đó, Đảng ta khẳng định: (1) Thứ nhất, lợi ích quốc gia
và lợi ích dân tộc là đồng nhất; (2) Thứ hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam
được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi, khơng phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; (3) Thứ ba, bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối
ngoại, lợi ích quốc gia - dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá
hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.
Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ
hơn. Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định phương châm đối ngoại “vừa hợp tác, vừa
đấu tranh.” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị quyết Trung ương
VIII (2003), nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng, đây là lần đầu tiên
Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen và
theo đó là sự linh hoạt trong quan hệ đối ngoại.
Quan điểm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nêu cụ thể
hơn. Hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững mơi trường hịa bình” và “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được mơi trường
hịa bình, các hoạt động đối ngoại sẽ thực hiện được phương châm thêm bạn bớt
thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi
nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai trị chủ cơng, là tuyến đầu
của cơng tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài ra, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần
đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đây, đồng thời
11
11
là nội hàm chính của lợi ích quốc gia - dân tộc, là những lợi ích cốt lõi và sống cịn
tồn Đảng tồn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng. Phương châm “kiên quyết, kiên
trì,” có nghĩa là đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
khơng được nóng vội, manh động mà phải tận dụng mọi biện pháp hịa bình, phù
hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi kênh, mọi phương thức có thể trong khi
khơng loại trừ bất kỳ biện pháp, phương cách nào để quyết bảo vệ đến cùng các lợi
ích kể trên.
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế
được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế được
nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa bằng những
quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm: (1) Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự
nghiệp của tồn dân và cả hệ thống chính trị. (2) Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên
cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức
mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước. (3) Thứ ba, hội nhập kinh tế là
trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
(4) Thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý
linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
Cụ thể, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình
triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào
việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước
lớn có vai trị quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ
đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tham gia
các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp
quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ
xây dựng nền kinh tế trí thức, con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
12
12
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối
ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây
dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà cịn phải phát huy vai trò của Việt
Nam tại các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương
được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
4- Cơ hội và thách thức trong công tác đối ngoại của Đảng ta giai đoạn
hiện nay:
Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng
với những diễn biến phức tạp. Xu thế hình thành trật tự thế giới mới theo hướng đa
cực ngày càng rõ. Các nước lớn gia tăng tập hợp lực lượng khơng chỉ ở khía cạnh
chính trị - an ninh truyền thống mà còn trong cả lĩnh vực kinh tế. Cạnh tranh địa
chính trị chiến lược diễn ra hết sức gay gắt, các nước lớn đẩy mạnh tập hợp lực
lượng ở nhiều địa bàn chiến lược. Quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục vận động
trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, song mặt cạnh tranh có biểu hiện diễn
biến phức tạp. Đã có nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết, kết nối kinh tế liên lục địa,
trong đó các nước lớn đóng vai trò chủ đạo, hoặc với tư cách khởi xướng ý tưởng,
hoặc có khả năng chi phối chủ yếu, đã được đưa ra. Trong khi đó, kinh tế thế giới
nhiều năm qua vẫn chưa thực sự phục hồi vững chắc, tốc độ tăng trưởng chậm hơn
kỳ vọng.
Tình hình các khu vực trên thế giới cũng có nhiều biến động. Ngoại trừ một
số chuyển biến tích cực, như việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cu-ba, hay
I-ran và nhóm P5+1 đạt được thỏa thuận hạt nhân lịch sử, các “điểm nóng” khác
vẫn trong tình trạng bế tắc, chưa tìm được lối thoát. Tại một số địa bàn, xung đột,
tranh chấp cịn có xu hướng căng thẳng hơn, xuất hiện thêm các “điểm nóng” mới,
tác động mạnh tới tình hình an ninh thế giới. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi
13
13
truyền thống, nhất là hoạt động khủng bố, khủng hoảng nhập cư, biến đổi khí
hậu,... đặt ra những thách thức ngày càng lớn đối với cộng đồng quốc tế.
Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực tăng trưởng kinh tế năng
động với việc đẩy mạnh nhiều hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế. Việc hiện thực
hóa Cộng đồng ASEAN góp phần tạo động lực mới giữa các quốc gia thành viên
và củng cố vị trí trung tâm của ASEAN tại khu vực. Tuy vậy, đây cũng là địa bàn
hội tụ hầu hết những đặc điểm phức tạp chung của tình hình thế giới. Việc các
nước lớn đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược, gia tăng ảnh hưởng tại khu vực cùng với
các vấn đề nội bộ của nhiều nước đã và đang làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn đối với
mơi trường hịa bình, ổn định của khu vực. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo và chủ
nghĩa dân tộc cực đoan có xu hướng căng thẳng hơn; tình hình Biển Đơng có nhiều
diễn biến rất phức tạp.
Tình hình đó tác động sâu sắc, nhiều chiều tới nước ta, một mặt, tạo ra nhiều
cơ hội; mặt khác, đặt ra những thách thức rất lớn đối với môi trường an ninh, phát
triển và không gian sinh tồn của đất nước, địi hỏi cơng tác đối ngoại của Đảng,
cũng như tồn thể mặt trận đối ngoại nói chung phải khơng ngừng nỗ lực, củng cố,
đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội
nhập quốc tế, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5- Một số nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta trong tình hình mới:
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ cịn có nhiều biến động
phức tạp. Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Cục
diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Hợp tác, cạnh
14
14
tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau, nhất là giữa các nước lớn, ngày càng gia tăng. Đối
với nước ta, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế ngày càng được củng cố,
nâng cao, nhưng chúng ta cũng đứng trước nhiều yêu cầu mới, vấn đề mới trong
việc phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nhằm khai thác tối đa các thuận lợi, thời cơ, vượt qua các khó khăn, thách
thức, trong thời gian tới, đối ngoại đảng cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, định
hướng lớn về đối ngoại theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, tập trung vào một số
nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Thứ nhất, tiếp tục phát huy lợi thế, sức mạnh, vai trò của đối ngoại đảng
trong duy trì mơi trường quốc tế hịa bình, ổn định, tăng cường và đưa các mối
quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đối ngoại đảng cần tiếp tục phát huy tốt vai trị xây dựng nền
tảng chính trị trong quan hệ với các đối tác quốc tế, qua đó góp phần thúc đẩy tổng
thể quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.
- Thứ hai, tích cực nâng cao hiệu quả thực chất, thúc đẩy các nội dung quan
hệ đảng tiếp tục đi vào chiều sâu, cả trên bình diện song phương và đa phương.
Tiếp tục chủ động, tích cực triển khai chủ trương tăng cường quan hệ truyền thống
với các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả; mở rộng và đưa quan hệ với các đảng
cầm quyền, tham chính đi vào chiều sâu. Chủ động và tích cực phát huy vai trị của
Đảng ta tại các diễn đàn đa phương chính đảng. Nội dung trao đổi, hợp tác trên
kênh đảng đi sâu vào các lĩnh vực, vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, như kinh nghiệm cầm quyền, năng lực và
kỹ năng lãnh đạo, quản lý và trình độ, kiến thức chun mơn của lãnh đạo, cán bộ
đảng các cấp.
15
15
- Thứ ba, phối hợp đồng bộ và chặt chẽ với ngoại giao nhà nước và ngoại
giao nhân dân nhằm huy động và phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp cho công
tác đối ngoại. Đây là một truyền thống quý báu của đối ngoại nước ta. Việc huy
động và củng cố sức mạnh vật chất luôn được kết hợp chặt chẽ với việc huy động
và phát huy sức mạnh tinh thần; kết hợp chặt chẽ các kênh, các binh chủng và lĩnh
vực của đối ngoại, từ ngoại giao nhà nước, đến đối ngoại đảng, ngoại giao nhân
dân. Trong bối cảnh hiện nay, đối ngoại càng cần phải trở thành một mặt trận thống
nhất dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng, với sự tham gia năng
động, sáng tạo, phối hợp nhịp nhàng của các cấp, các ngành, của mọi tổ chức, cá
nhân.
- Thứ tư, không ngừng đổi mới tư duy trên tất cả các kênh đối ngoại, cả về
nội dung, phương thức, chiến lược, chiến thuật triển khai hoạt động. Việc xử lý
linh hoạt các mối quan hệ quốc tế của Đảng tạo điều kiện thuận lợi chung cho cơng
tác đối ngoại, góp phần tăng cường nền tảng, sự gắn kết, bổ sung và thống nhất
trong thực tiễn triển khai hoạt động đối ngoại giữa đối ngoại đảng với ngoại giao
nhà nước và ngoại giao nhân dân. Đồng thời, trong cục diện thế giới phức tạp như
hiện nay, cần nắm chắc phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong kiên trì
thực hiện đường lối đối ngoại, không để các khác biệt về thể chế chính trị - xã hội
cản trở việc mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Đảng.
- Thứ năm, thường xuyên củng cố và tăng cường năng lực của lực lượng
tham gia cơng tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại đảng. Chúng ta phải xây dựng
đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực chun mơn tồn diện,
am hiểu luật pháp, giỏi ngoại ngữ và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc triển
khai hiệu quả các hoạt động đối ngoại.
16
16
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, công tác đối ngoại đảng đã đạt được nhiều kết
quả nổi bật, tạo điều kiện thuận lợi chung cho công tác đối ngoại của đất nước, góp
phần củng cố nền tảng chính trị, tăng cường sự gắn kết, bổ sung và thống nhất
trong thực tiễn triển khai hoạt động đối ngoại giữa đối ngoại đảng với ngoại giao
nhà nước và ngoại giao nhân dân, đóng góp quan trọng vào thành quả của cơng tác
đối ngoại trong việc tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Đó chính là tiền đề, động
lực để đối ngoại đảng tiếp tục phát triển, đưa quan hệ đối ngoại của Đảng ta, nước
ta đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt chủ trương, chính sách đối
ngoại của Đảng, trong thời gian tới, công tác đối ngoại đảng cần chú trọng mở
rộng, làm sâu sắc hơn nữa các mối quan hệ, cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
đối ngoại.
Là một bộ phận cấu thành của nền ngoại giao tồn diện Việt Nam, đối ngoại
đảng đã có nhiều đóng góp quan trọng, hiệu quả vào thành cơng chung của mặt
trận đối ngoại thời kỳ đổi mới, phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước. Việc xử lý linh hoạt các mối quan hệ quốc tế của Đảng tạo điều kiện
thuận lợi chung cho công tác đối ngoại, góp phần củng cố nền tảng chính trị, tăng
cường sự gắn kết, bổ sung và thống nhất trong thực tiễn triển khai hoạt động đối
ngoại giữa đối ngoại đảng với ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Với
những thành quả quan trọng, nổi bật đã đạt được thời gian vừa qua, với quyết tâm
mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước và các lực lượng làm đối ngoại, công tác đối ngoại
của nước ta sẽ tiếp tục đạt kết quả thực chất, hiệu quả tồn diện, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
17
17