Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn NN pháp luật vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.67 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) được xác định trong văn kiện và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thể
hiện bước đột phá quan trọng cả về tư duy lý luận lẫn thực tiễn tổ chức xây dựng
bộ máy nhà nước của Đảng ta.
Nhà nước pháp quyền là một mơ hình, phương thức tổ chức nhà nước và xã
hội dựa trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tơn pháp luật. Đảng ta đã nhận
thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra: “Trăm điều phải có
thần linh pháp quyền”. Từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1-1994), Đảng ta đã chính thức nêu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
thực sự của dân, do dân, vì dân. Trải qua các hội nghị và các kỳ Đại hội Đảng, nhất
là từ Đại hội VIII (năm 1996) đến nay, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp
quyền XHCN và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng được bổ
sung và có những bước phát triển quan trọng. Tại Đại hội XII, Đảng ta có những
bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN, trong đó vừa làm sâu sắc thêm những quan điểm, tư tưởng đã được thể
hiện nhất quán trong các văn kiện trước đó của Đảng, vừa có những phát triển mới
đáp ứng địi hỏi của tình hình thực tiễn.
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng nêu vấn đề: “Xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN”. “Xây dựng” và “hoàn thiện” Nhà nước pháp
quyền đều là những nhiệm vụ quan trọng, được tiến hành đồng thời, bổ khuyết cho
nhau, xây dựng cũng chính là hồn thiện, vừa xây dựng vừa hồn thiện; ngược lại,
trong hồn thiện có xây dựng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nên tôi đã quyết định chọn “Vấn đề nhà nước
pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm bài thu hoạch hết môn lần
này.
PHẦN NỘI DUNG



1. Cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
1.1. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân
chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư
tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và
pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755),
JJ.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)... phát triển
như một thế giới quan pháp lý mới.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng
vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776),
Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826).
1.2. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về nhà nước và
pháp luật
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
Mặc dù C.Mác, Ph.Ăngghen chưa sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền,
nhưng những tư tưởng cốt lõi và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền đã
được đề cập sâu sắc trong quan điểm khoa học và cách mạng, đó là xây dựng một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp thể hiện chủ quyền của nhân dân; một hệ thống pháp
luật dân chủ triệt để. Như vậy, trong nghiên cứu xây dụng xã hội mới và nhà nước
kiểu mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thừa kế và phát triển tư
tưởng nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
Tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền của C.Mác và Ph.Ăngghen
tập trung vào các yếu tố liên quan đến nhà nước pháp quyền, đó là pháp luật, nhà
nước gắn với chủ quyền và quyền tự do dân chủ của nhân dân.


Về pháp luật: Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và

Ph.Ăngghen đã khẳng định pháp luật ln ln có tính giai cấp, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị về chính trị và kinh tế. Mặt khác, pháp luật phản ánh thực tại
khách quan và lợi ích chung của xã hội, qua hệ xã hội.
Ngay từ những năm 1842 - 1843, trong những cuộc tranh luận về tự do báo
chí , C.Mác đã khẳng định vai trị của pháp luật trong việc bảo vệ quyền tự do dân
chủ của nhân dân.
Theo nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật thì trong nhà nước
pháp quyền, pháp luật trở thành tối thượng. Mọi thành viên xã hội, kể cả nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật, xử sự đùng yêu cầu
của pháp luật, khơng có ngoại lệ. Chỉ có như vậy pháp luật mới trở thành chuẩn
mực chung, là thước đo của mọi người.
Về nhà nước: Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác chủ trương
xây dựng một chế độ dân chủ triệt để trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện
phát triển tự do của tất cả mọi người”, nhà nước kiểu mới phải “giải phóng con
người, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn diện con người”. Muốn
vậy phải “biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục
tùng xã hội”. Dân chủ trong nhà nước kiểu mới là “do nhân dân tự quy định”, là
bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân.
Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo chủ quyền của nhân dân, tất cả quyền
lục thuộc về nhân dân. Phân tích vấn đề này C.Mác cho rằng ngay cả cơ quan nhà
nước có chủ quyền, thực hiện quyền lực của mình cũng chỉ là đại biểu cho chủ
quyền của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân.
Trong nhà nước pháp quyền phải đảm bảo đạo đức, phẩm chất năng lực và
trách nhiệm của công chức trong khi thi hành công vụ.
Nhà nước pháp quyền dân chủ phải có thiết chế ngăn ngừa sự tùy tiện lạm
quyền của công chức nhà nước. Tán thành phân chia quyền lực nhà nước và xác


định vị trí, vai trị của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy nhà
nước.

Tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về nhà nước và pháp luật kiểu mới
Những tư tưởng nhà nước pháp quyền nêu trên của C.Mác và Ph.Ăngghen được
V.I.Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà nước kiểu mới. Người
chỉ rõ “Mục đích của chính quyền Xơ viết là thu hút những người lao động tham
gia vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút những người lao động tham gia vào
quản lý là một trong những ưu thế quyết định nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
V.I.Lênin đã khái quát nhiều quan điểm về xây dựng nhà nước kiểu mới, đó là “nhà
nước khơng cịn ngun nghĩa”, “nhà nước nữa nhà nước”, “nhà nước quá độ”, để
rồi tiến dần đến một chế độ tự quản của nhân dân. Muốn vậy, trước hết phải thực
hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý
nhà nước, quyền bãi miễn, quyền kiểm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước và cán bộ công chức của nhà nước nhân dân.
Về pháp luật, V.I.Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế trong
quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa phải dùng “luật lệ của
mình” như là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi triệt để. Đặc biệt
là khi chuyển sang chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin nhấn mạnh những hình thức
quan hệ mới được xác lập trong quá trình cách mạng và trên cơ sở của chính sách
kinh tế do chính quyền thục hiện phải được thể hiện trong pháp luật và được bảo
vệ về mặt tư pháp. Mặt khác, chính V.I.Lênin là người đã sáng tạo ra khái niệm
pháp chế xã hội chủ nghĩa, và là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật nghiêm minh và thống
nhất.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
Hồ Chí Minh là người sang lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân
dân ta giành chính quyền, xây dụng nhà nước pháp luật kiểu mới ở nước ta. Mặc


dù trong di sản lý luận của Người không đề cập đến khái niệm nahf nước pháp
quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, nhưng xét

theo yêu cầu và nội dung khoa học của Nhà nước pháp quyền thì những tư tưởng,
quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới - nhà nước xã hội
chủ nghĩa - đã thể hiện khá đầy đủ, sâu sắc những đặc trưng, nội dung cơ bản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ kết hợp nhuần
nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc kế thừa, tiếp thu có chọn
lọc kho tang tri thức, kinh nghiệm, tinh hoa văn hóa trí tuệ của nhân loại và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Có thể khái
quát trên những nội dung cơ bản sau:
- Giai cấp công nhân phải tổ chức, xây dựng chính đảng tiên phong của mình
để lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, lãnh đạo
nhà nước cách mạng tổ chức xây dụng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là nhà nước thật sự của dân, do dân, vì
dân, đảm bảo chủ quyền của nhân dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, tổ chức, hoạt
động theo pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp chặt chẽ
với giáo dục đạo đức.
- Pháp luật trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa là pháp luật dân chủ, thực hiện
chủ quyền, , bảo vệ tự do, ý chí và lợi ích của nhân dân.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có trách nhiệm và cịu trách nhiệm trước
nhân dân, cơng dân phải làm trịn nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là nhà nước trong sạch;
ngăn chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu
cực khác trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức nhà nước là “đầy tớ trung
thành”, là “công bộc” của nhân dân.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước, cán bộ, cơng chức của nhà nước, kiểm sốt việc thực hiện quyền
lực nhà nước trên các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp.



1.4. Quá trình nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới và đặc trưng của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quá trình nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln luôn xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng
tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, nghiên cứu, tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa của nhân loại, bao gồm các tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp
quyền, tổ chức nhà nước và kinh nghiệm áp dụng các học thuyết đó của các nước trên
thế giới để đưa vào thử nghiệm và từng bước xây dựng, hoàn thiện ở Việt Nam. Đây là
q trình tìm tịi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, khơng sao chép, rập khn, giáo điều
mà luôn luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng
Việt Nam.
Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện của Đảng
phản ánh quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn trọng, thực
hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.


- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và
Luật trong đời sống xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức theo

nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chịu trách
nhiệm trước cơng dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực
hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực hiện

đường lối đối ngoại hồ bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các
nước láng giềng, các nhà nước và các dân tộc khác trên thế giới; tôn trọng và cam
kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong q trình thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Sự xác định mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN trong Báo cáo chính trị của Đại hội X khơng chỉ là khẳng
định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu
một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới - một nhà
nước của dân, do dân, vì dân.


Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi mới)

đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng khố IX, X đã
khẳng định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã có những tiến bộ quan trọng:
- Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp
1992 và nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý
để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây
dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân
chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng
sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.
Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân
cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc
thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động
của báo chí...
- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ
quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước


đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách
nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ
nhiều yếu kém:

- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản
lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội cịn bị bng lỏng, làm giảm sút lịng tin
của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát
huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị
trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng
phí và thất thốt nghiêm trọng.
- Tổ chức bộ máy nhà nước cịn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cịn
có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương
- địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức
bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung
quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng buông lỏng và
bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước.
Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của
bộ máy nhà nước, trong đó chủ yếu là:
- Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều
việc phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm.


- Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây
dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực
tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng
quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước; thiếu
những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ
mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.

- Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết
định một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa
phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
- Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn
vị.
Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết
thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của
cán bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc
theo hiến pháp, pháp luật.
2.2. Phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay
Thứ nhất, Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
- Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng
và là mục tiêu bao trùm của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
- Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống cịn của
nhà nước ta. Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân còn là tiêu chí đánh giá tính
chất nhà nước của dân, do dân, vì dân.


- Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện:
+ Nhân dân tham gia bầu cử các đại biểu của mình vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp.
+ Nhân dân tham gia công việc quản lý nhà nước ở địa phương và cơ sở
(Tham gia dân quân tự vệ, dân phịng…)
+ Tham gia góp ý, xây dựng, đánh giá các chủ trương, chính sách của nhà
nước phù hợp với thực tiễn của địa phương.

+ Tham gia giám sát các cơ quan nhà nước, các đại biểu của dân trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
+ Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo ngăn chặn những hành vi tham nhũng,
tiêu cực của cán bộ, công chức nhà nước.
+ Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực hiện đầy đủ Quy chế dân
chủ ở cơ sở: phổ biến cụ thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Thứ hai, Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật.
Yêu cầu khách quan, cấp bách của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ
chức thực hiện pháp luật xuất phát từ chính yêu cầu của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền VN XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Phấn đấu hồn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã
hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính dân chủ, pháp
chế, khoa học. Đồng thời đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế mà nhà nước đã tham gia ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập. Trong đều
kiện Đảng cầm quyền, phải bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật.
- Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối đầy
đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Công tác


xây dựng pháp luật đã được cụ thể hoá trong từng khoá, từng năm và từng kỳ họp
Quốc hội.
Cùng với việc hồn thiện hệ thống pháp luật là cơng tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật phải được đẩy mạnh. Các hoạt động tư vấn pháp lý, hoạt
động luật sư, công chứng, giám định…nhằm đáp ứng yêu cầu của một nhà nước
pháp quyền.
Thứ ba, Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội

Xây dựng Quốc hội bảo đảm thực hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn do Hiến pháp và luật quy định.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực
cao nhất của nhà nước.
Các giải pháp cụ thể:
Một là: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của việc thực hiện các
chức năng của Quốc hội:
- Là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp,
- Là cơ quan có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về
đối nội và đối ngoại, bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hố- xã hội, an ninh, quốc
phịng của đất nước.
- Là cơ quan giám sát tối cao các hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Hai là: Phát huy vai trò của Đại biểu Quốc hội:
- Đại biểu là thành tố cơ bản trong cơ quan quyền lực cao nhất. vì vậy, cần
xác định rõ vị trí vai trị của đại biểu quốc hội (đại biểu chuyên trách và đại biểu
không chuyên trách.
- Đổi mới chế độ bầu cử, đảm bảo tính đại diện trong cơ cấu nhưng chát
lượng phải được đưa lên hàng đầu. Nâng cao năng lực đại biểu, nhất là bản lĩnh và
nghiệp vụ.
Ba là: Tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội:
Các cơ quân của Quốc hội gồm:


- Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
- Hội đồng dân tộc,
- Các uỷ ban.
Bốn là: Tăng cường mối quan hệ giữa Quốc hội và nhân dân
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, với tư cách là người
dai diện cho nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân và nhà nhà nước.
- Thông qua các kỳ họp, các phương tiện thông tin đại chúng thông báo đầy

đủ những việc mà Quốc hội bàn bạc và quyết định.
- Thơng qua đại biểu của mình Quốc hội quy định cơ chế tiếp xúc cử tri
trước và sau kỳ họp là nội dung quan trọng trong mối quan hệ giữa Quốc hội và
nhân dân.
Năm là: Bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Quốc hội
- Tăng cường đội ngũ chuyên gia giỏi cho VP Quốc hội,
- Đảm bảo kinh phí cho hoạt động của Quốc hội,
- Đảm bảo cơ sở vật chất: trụ sở, phương tiện, tài liệu và các nguồn thơng tin
cần thiết…trong đó chú trọng cộng nghệ thông tin hiện đại.
Thứ 4. Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước
- Nền hành chính nhà nước chính là hoạt động thực hiện chức năng hành
pháp, bao gồm hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ TW đến địa
phương.
- Nền hành chính nhà nước là nơi cụ thể hoá chủ trương đường lối, chính
sách , pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Hoạt động hành chính là bộ mặt của một nhà nước, của một địa phương.
Kết quả quản lý nhà nước gồm nhiều cơ quan nhưng hiệu quả cụ thể là thơng qua
hoạt động của cơ quan hành chính, là cầu nối của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Nền hành chính nhà nước đảm bảo hoạt động của nhà nước được thực
hiện theo chương trình, kế hoạch đã dự kiến; xử lý các tình huống trong quản lý
nhà nước nhằm đảm bảo an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội.


Thứ 5: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp
Hoạt động tư pháp chủ yếu là hai cơ quan: Toà án và Viện kiểm sát. Trong
truy tố và xét xử phải đảm bảo khách quan, vô tư, đúng người đúng tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Xây dựng hệ thống pháp luật theo hướng đáp ứng cơ chế thị trường, tương
thích với luật pháp quốc tế mà chúng ta đã gia nhập và ký kết.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp:
+ Về Toà án: Sửa đổi Luật Tổ chức Toà án , tăng thẩm quyền cho toà cấp
huyện, thành lập toà án khu vực, rút gon thủ tục xét xử.
+ Viện kiểm sát: Tăng cường chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, mở rộng thẩm quyền cho VKS cấp huyện tương ứng với Toà án.
+ Về công tác điều tra: Giảm sự chồng chéo của cơ quan điều tra; xác định
rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan điều tra.
+ Về công tác thi hành án: tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành
án vào một đầu mối theo tinh thần Nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị.
- Chấn chỉnh các tổ chức và các hoạt động bổ trợ tư pháp: Các hoạt động
luật sư, công chứng, hộ tịch, giám định… từng bước xã hội hoá nhưng cần xác
định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, đạo đức của người thực hiện.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngành tư pháp: chú ý vận dụng những
đặc thù của nghề nghiệp.
Thứ 6. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền
Các giải pháp nói trên phải được thực hiện đồng bộ và biến thành quyết tâm
của cả hệ thống chính trị
Thứ 8. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền


Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền thể
hiện ở các nội dung:
- Xác định quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản,
- Đề ra đường lối, chính sách,
- Lãnh đạo hoạt động của các cơ quan dân cử,
- Lãnh đạo hoạt động của các cơ quan hành chính,
- Lãnh đạo hoạt động của các cơ tư pháp,
- Lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật,

- Lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là: Công tác tư tưởng, tổ chức và kiểm tra,
thể hiện hai nhóm giải pháp sau đây:
- Nhóm giải pháp chỉnh đốn:
+ Nâng cao cơng tác gió dục chính trị, tư tưởng,
+ Đổi mới các khâu trong công tác cán bộ (quy hoạch, đào tạo, đánh giá, sử
dụng…
+ Xây dựng chính quyền, đồn thể,
+ Đảy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
- Nhóm giải pháp đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo:
+ Xây dựng và hoàn thiện các quy chế phối hợp giữa Đảng với Nhà nước.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng,
+ Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác cán bộ trong bộ
máy nhà nước.


KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là chủ trương, đường lối
có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu, khách
quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở kế thừa những
thành tựu cả về nghiên cứu lý luận lẫn thực tiễn triển khai xây dựng Nhà nước
pháp quyền đã có, Đại hội XII đã có nhiều phát triển mới về xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cả trên phương diện hình thức trình
bày, cách diễn đạt, cả trên phương diện nội dung các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
nhằm đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị và của tồn dân. Trên cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng, mỗi tổ chức, cá nhân cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc đóng
góp cơng sức, trí tuệ để xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, góp
phần củng cố chế độ, đưa nước ta hội nhập sâu rộng với quốc tế, ngày càng phồn

vinh, phát triển./


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng”, Tạp chí cộng sản.
2. PGS. TS Nguyễn Văn Dũng “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội XII”, www. qdnd.vn
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Sđd, tr.64.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Sđd, tr.126.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
7. PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbCTQG, H,2000, tập 4, tr. 133.
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 7, tr.368.
10. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, tr.292.
11. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4, tr.56.
12. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 7, tr.56.
13. Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận về Nhà nước và pháp luật, tập 1,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004.




×