ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài
VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHƯƠNG TÂY THỜI KỲ KHAI SÁNG
Đà Nẵng tháng 4 năm 2017
1
LỜI CẢM ƠN
Xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc đối với Th.S Ngô Khắc
Sơn đã khuyến khích, động viên và tận tình giúp đỡ tơi hồn thành bài nghiên
cứu này.
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy cơ khoa Giáo dục chính trị và q
thầy cơ trong bộ phận thư viện trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã
cung cấp những kiến thức quý báu cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập
cũng như trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Đà Nẵng, ngày 24 tháng 4 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Phương Loan
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………... 6
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………….
6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………….
7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………..
7
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………
8
5. Bố cục đề tài…………………………………………………………………….
8
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu………………………………………………….
8
NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ…………………………………. 11
1.1. Một số quan niệm cơ bản…………………………………………………….
11
1.1.1. Con người trong chính trị………………………………………………… 11
1.1.1.1. Chính trị là gì ? ……………………………………………………… 11
1.1.1.2. Con người trong lịch sử tư tưởng chính trị……………………………17
1.1.2. Quyền con người………………………………………………………… 20
1.1.2.1. Khái niệm…………………………………………………………… 20
1.1.2.2. Quan niệm mác xít về con người …………………………………… 22
1.1.2.3. Trong Hiến pháp 2013 của Việt Nam…………………………………22
1.2. Quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng
chính trị phương Tây trước thời kỳ Khai sáng…………………………………..
1.2.1. Thời cổ đại………………………………………………………………
3
28
28
1.2.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội
………………………………………… 28
1.2.1.2. Nhận thức về quyền con người……………………………………… 29
1.2.2. Thời trung cổ ………………………………………………………………30
1.2.2.1. Điều kiện lịch sử - xã hội…………………………………………… 30
1.2.2.2. Quan niệm của một số nhà tư tưởng tiêu biểu……………………… 32
Chương 2 : QUAN NIỆM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHƯƠNG TÂY THỜI KỲ KHAI SÁNG…………. 35
2.1. Thời kỳ Khai sáng…………………………………………………………….. 35
2.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội………………………………………………… 35
2.1.2. Sự thay đổi về quyền cai trị……………………………………………… 36
2.2. Quan niệm của một số nhà tư tưởng tiêu biểu………………………………
36
2.2.1. Khế ước xã hội trong Leviathan của Thomas Hobbes…………………… 37
2.2.1.1. Con người trong trạng thái tự nhiên………………………………… 37
2.2.1.2. Luật tự nhiên………………………………………………………… 38
2.2.1.3. Khế ước xã hội……………………………………………………… 39
2.2.2. Các quyền tự nhiên trong Khảo luận thứ hai về chính quyền
của John Locke……………………………………………………………………. 40
2.2.2.1. Luật tự nhiên………………………………………………………… 41
2.2.2.2. Trạng thái tự nhiên…………………………………………………… 42
4
2.2.3. Tinh thần pháp luật của Montesquieu………………………………………44
2.2.3.1. Quyền tự nhiên của con người……………………………………… 45
2.2.3.2. Tự do, bình đẳng là bản chất của con người………………………… 46
2.2.4. Khế ước xã hội của Rousseau…………………………………………… 47
2.2.5. Bản chứng minh các quyền của phụ nữ
(Vindication of the Rights of Woman ) của Mary Wollstonecraft……………..
50
Chương 3: ĐÁNH GIÁ QUAN NIỆM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHƯƠNG TÂY THỜI KỲ KHAI SÁNG…………. 53
3.1. Giá trị và hạn chế……………………………………………………………... 53
3.1.1. Giá trị……………………………………………………………………….53
3.1.2. Hạn chế…………………………………………………………………… 55
3.2. Những giá trị tham chiếu cho Việt Nam…………………………………….
57
3.2.1. Quyền con người – Quyền công dân được quy định
trong Hiến pháp Việt Nam………………………………………………………..
57
3.2.2. Quyền con người – Quyền công dân trong xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam………………………………………………..
61
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………... 65
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Những chân lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như những sự thật hiển
nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa đã cho họ các quyền khơng thể
thay thế được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Để bảo vệ những quyền này, các chính phủ, do chính con người thiết lập nên
có được quyền lực chính đáng xuất phát từ sự đồng thuận của nhân dân” 1- Trích Tun
ngơn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1176.
Đây được xem là văn bản đầu tiên (về mặt nhà nước) ghi nhận về quyền con
người, nêu cao ngọn cờ nhân quyền với các quyền tự do, bình đẳng, bác ái,… Tuy nhiên,
ý thức về vấn đề quyền con người và thực hiện quyền con người đã xuất hiện từ rất sớm
cùng dịng chảy lịch sử phát triển của lồi người. Manh nha trong thời kỳ cổ đại, trung
đại và được xác nhận chính thức trên phương diện nhà nước về quyền con người trong
thời kỳ cận đại – Khai sáng. Từ đây, gắn liền với các cuộc chiến tranh; các cuộc cách
mạng giải phóng giai cấp, giải phóng con người, quyền con người đã dần trở thành một
giá trị chung của toàn nhân loại.
Và trong thế giới đương đại hiện nay, giá trị cao đẹp đó ngày càng có vị thế xứng
đáng của mình, được pháp điển hóa trong Công ước quốc tế. Làm cơ sở pháp lý cho mỗi
cá nhân, quốc gia, dân tộc đấu tranh cho quyền tự quyết và lựa chọn con đường phát triển
của mình. Đặc biệt đối với một quốc gia có q trình lịch sử lâu dài đấu tranh dựng nước
và giữ nước như Việt Nam ta, ý thức về quyền con người và những giá trị của nó trong xã
hội chính trị lại càng được thấm thía và gìn giữ. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, các bản
Hiến pháp của nước ta đã ghi dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở
1 Wolfgang Benedek. Tìm hiểu về quyền con người (2008), Nxb Tư pháp, tr.12,13
6
nhận thức pháp lý ngày càng sâu sắc và thực hiện Công ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, Hiến pháp 2013 đã khẳng định lại một lần nữa việc
thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách mạnh mẽ, rõ ràng và hiện đại
nhất.
Những điều đó càng làm nổi bật lên giá trị tiền đề của vấn đề về quyền con người
được khởi xướng trong thời kỳ Khai sáng, việc nhận thức đúng đắn và hoàn chỉnh những
giá trị tích cực của vấn đề đó trong thời đại ngày nay sẽ đóng góp rất to lớn vào cơng
cuộc xây dựng, phát triển tư tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người trên tồn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Để góp phần làm rõ hơn về vấn đề trên, cũng như góp phần nghiên cứu lý luận,
phân tích mặt tích cực, giá trị của nó đối với tình hình hiện nay, tơi lựa chọn đề tài “Vấn
đề về quyền con người trong tư tưởng chính trị phương Tây thời kỳ Khai sáng” để làm
Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những quan niệm, học thuyết về quyền con người trong tư
tưởng chính trị phương Tây thời kỳ Khai sáng, đề tài đánh giá những giá trị, hạn chế, từ
đó thấy rõ hơn ý nghĩa của tư tưởng về quyền con người của giai đoạn mang tính bước
ngoặt này đối với việc xây dựng, hồn thiện các thiết chế về quyền con người đối với các
tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ
- Chỉ ra những tiền đề tư tưởng trong lịch sử tư tưởng chính trị trước thời kỳ Khai
sáng và những quan niệm mác-xít và hiện đại về quyền con người.
- Phân tích một số nội dung cơ bản tư tưởng về quyền con người trong thời kỳ
Khai sáng.
- Trên cơ sở quan điểm mác-xít đánh giá những giá trị và hạn chế của tư tưởng về
quyền con người trong thời kỳ Khai sáng và rút ra những nội dung có giá trị có thể kế
thừa và vận dụng được ở Việt Nam.
7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm về quyền con người trong tư tưởng chính trị phương Tây thời kỳ Khai
sáng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời kỳ Khai sáng ở phương Tây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: phân tích, tổng hợp, liệt kê,
so sánh, khái quát hóa.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo. Đề tài gồm có 3 chương , 6
tiết:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và quan niệm về
quyền con người trong lịch sử tư tưởng chính trị.
Chương 2. Quan niệm về quyền con người trong tư tưởng chính trị phương Tây
thời kỳ Khai sáng.
Chương 3. Đánh giá quan niệm về quyền con người trong tư tưởng chính trị
phương Tây thời kỳ Khai sáng.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu.
Vấn đề con người và quyền con người trong lịch sử tư tưởng chính trị đã có
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài của khóa luận có thể đưa ra một
số cơng trình, tác phẩm tiêu biểu sau đây:
* Những tư liệu đề cập đến những khía cạnh khác nhau liên quan đến đề tài:
8
- Cuốn “Lịch sử triết học, Triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa” của Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô, đã dành một phần khái quát viết về thời kỳ triết học Khai
sáng, trong đó nêu lên những điều kiện, tiền đề hình thành nên tư tưởng thời kỳ này.
Đồng thời cuốn sách cũng đưa ra những tư tưởng cơ bản của từng nhà triết học khai sáng.
- Cuốn “Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học” do Vũ Minh Tâm chủ
biên, đã đưa ra những quan niệm triết học về con người qua các thời kỳ lịch sử, trong đó
tác giả cũng đã nêu quan niệm triết học về con người trong thời kỳ Khai sáng. Tuy nhiên
các tư tưởng này chỉ được tác giả đề cập một cách chung chung, chưa đi sâu và phân tích.
Trong bài “Q trình nghiên cứu phức hợp về con người” Tạp chí triết học số
4 (1977) của Đặng Xuân Kỳ, đã nêu các quan niệm về con người trong các giai đoạn lịch
sử của triết học phương Tây. Mặt khác, tác giả còn nêu nên cách thức nghiên cứu về con
người. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu trình bày ở khía cạnh phương pháp là chính. Ngồi ra
trên một số Tạp chí Triết học, Tạp chí Cộng sản, tạp chí Giáo dục lý luận... Các tác giả
như Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Hữu Toàn, Phạm Minh Lăng... đã
có nhiều bài viết với nhiều ý kiến sâu sắc xoay quanh vấn đề con người và quyền con
người trong lịch sử. Đương nhiên trong phạm vi của một bài báo, các tác giả khơng có
điều kiện để trình bầy vấn đề trên và nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện, nhưng
những luận giải mà các tác giả đưa ra đã gợi mở được nhiều vấn đề có thể tiếp tục đi sâu.
* Những tư liệu nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài:
Cuốn “Bàn về tinh thần pháp luật” của Mostesquieu (do Hoàng Thanh Đạm
dịch) đã cung cấp thêm những sự kiện của thời đại Montesquieu. Quan trọng hơn là cuốn
sách này, đã phác thảo những nét cơ bản về một xã hội công dân và nhà nước pháp
quyền. Trong đó, ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau và tương tác
lẫn nhau để đảm bảo công bằng xã hội và phát triển đất nước dưới quyền cai trị của một
ông vua. Thơng qua đó, ơng đã phân tích rõ nguồn gốc, cũng như quá trình hình thành
của con người từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội.
9
Cũng vào năm 2004, cuốn “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau đã được
Hoàng Thanh Đạm dịch ra tiếng việt. Cuốn sách này đã cung cấp một số tư tưởng cơ bản
của Rousseau về xã hội, vạch ra định hướng xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp
quyền. Thơng qua đó Rousseau đã đưa ra quan niệm của mình về con người và các quyền
của con người. Mặt khác, ở đây có thể liên hệ giữa tư tưởng của Montesquieu trong
“Tinh thần pháp luật” với tư tưởng của Rousseau trong “Khế ước xã hội”.
Năm 2006, tác giả Lê Tuấn Huy viết cuốn “Triết học chính trị Montesquieu
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”. Đây là cuốn sách hay có giá trị
trong bối cảnh đất nước hiện nay. Trong đó, tác giả đã đưa ra một cách rõ ràng nguồn gốc
cũng như điều kiện hình thành tư tưởng chính trị, đồng thời cũng phân tích những tư
tưởng chính trị của Montesquieu. Nhìn chung, những cuốn sách này, đã nêu lên một số tư
tưởng của các triết gia Khai sáng tiêu biểu là của Montesquieu và Rousseau, trong đó có
quan niệm về con người. Tuy nhiên, các nhà triết học chỉ đưa ra một số phác thảo về con
người và những vấn đề xoay quanh con người. Quan niệm về con người chưa được các
ông đưa ra một cách hệ thống. Tóm lại có thể nói rằng, nhìn tổng qt thì vấn đề con
người trong lịch sử tư tưởng chính trị nói chung và thời kỳ Khai sáng nói riêng đã được
các tác giả đề cập trên nhiều bình diện với những khía cạnh tư tưởng khác nhau. Tuy
nhiên để đánh giá được đúng giá trị quan niệm về con người trong tư tưởng chính trị Khai
sáng vẫn cần có những nghiên cứu đi sâu kể cả dưới góc độ lịch sử tư tưởng. Do vậy, dựa
trên những nguồn tài liệu của lịch sử triết học, kế thừa các cơng trình nghiên cứu của các
tác giả đã được cơng bố, khóa luận này cố gắng tìm hiểu và trình bày một cách có hệ
thống quan niệm về con người và quyền con người trong tư tưởng chính trị phương Tây
thời kỳ Khai sáng.
10
B.NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
1.1. Một số quan niệm cơ bản
1.1.1. Con người trong chính trị
1.1.1.1. Chính trị là gì ?
Chính trị là một hiện tượng xã hội ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và
nhà nước. Từ khi xuất hiện, chính trị đã có ảnh hưởng to lớn đối với quá trình hình thành
và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và tồn nhân loại. Trước khi
chính trị ra đời với tư cách là một bộ môn khoa học (political science), nghiên cứu chính
trị như một chỉnh thể, có đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù,…đã có rất nhiều
các quan niệm, tư tưởng, học thuyết khác nhau bàn về chính trị và các khía cạnh của
chính trị. Nhìn chung có thể phân định thành hai giai đoạn khác nhau, đó là quan niệm về
chính trị của các học giả trước Mác và quan niệm của chủ nghĩa Mác.
Các quan niệm về chính trị trước Mác :
Herodotos (sống ở thế kỷ 5 trước Công nguyên (khoảng 484 TCN - 425 TCN) :
Được mệnh danh là ‘‘người cha của chính trị học”. Ơng so sánh các loại hình chính phủ
khác nhau và tìm ra những ưu và khuyết điểm của mỗi loại thể chế:
Quân chủ trị: Quyền lực nằm trong tay một người và theo ông đây là một chính
phủ khơng được tổ chức tốt vì nó khơng để cho người khác phản kháng, cãi lại cái mà
11
người đó muốn. Nó làm bại họai lương tri của những người ưu tú mà tôn sùng sự phỉnh
nịnh, ghen ghét với những người cao q. Do đó ơng kịch liệt phê phán nền quân chủ.
Quý tộc trị: là thể chế được thiết lập khi tuyển chọn được một hội đồng có chủ
quyền tối thượng để cầm quyền nhà nước, bao hàm những người ưu tú nhất của đất nước.
Có sự bàn bạc, cọ sát của hội đồng các nhà thơng thái, tinh hoa về trí tuệ và phẩm chất,
vừa tránh được độc tài quân chủ vừa tránh được đám đơng khơng hiểu biết tham gia nắm
chính quyền. Nhưng cuối cùng lại có sự tranh giành, tàn sát lẫn nhau, mưu toan quyền lực
và lợi ích cá nhân, chia bè phái và chế độ một ông vua lại tái phát.
Dân chủ trị: thể chế được thiết lập do số đông nhân dân nắm quyền lực. Đó là con
đường chống độc tài, qua bỏ thăm để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn
và ngăn cản được sự lợi dụng quyền lực. Quản lý xã hội trên nguyên tắc “tất cả đều bình
đẳng trước pháp luật và tự do phát biểu đề xuất”. Nhưng dân chúng thường không hiểu
biết thì dễ bầu ra sự khơng hiểu biết, dễ lung lay kích động bởi các nhà cầm quyền, xã hội
lại dễ rơi vào trạng thái bè phái vơ chính phủ từ đó chế độ một vua lại tái phát.
Ơng đã chỉ ra những loại hình thể chế khác nhau, làm cơ sở cho chính trị học và đi
tìm một loại thể chế chính trị tốt hơn khắc phục những nhược điểm của các lại thể chế
chính trị đó. Từ chỗ nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể
trên, ơng khẳng định tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này.
Platon (427-347 TCN): Ơng cho rằng, chính trị xuất hiện trước hết như một sự
hiểu biết duy lý dành cho việc giáo dục chung con người. Sau đó nó trở thành nghệ thuật
dẫn dắt xã hội con người. Người ta có thể dẫn dắt con người bằng sự bắt buộc và bạo lực,
nhưng người ta cũng có thể dẫn dắt con người bằng sự ưng thuận của ý chí tự do của họ.
Nghệ thuật cai trị bằng sức mạnh sẽ mang đến một chế độ độc tài và nghệ thuật cai trị
bằng thuyết phục con người gọi là chính trị - “Chính trị là nghệ thuật cai trị những con
người với sự bằng lịng của họ”. Theo ơng chính trị phải là chuyên chế, tất cả phải phục
tùng quyền uy, không một bộ phận nào để cho tự do thuần túy. Platon chia xã hội thành
ba hạng người khác nhau: Ở địa vị cao nhất là các nhà triết học, những người này có vai
12
trò quan trọng trong việc cai trị đất nước, họ nắm quyền bính trong tay và đảm nhận vai
trị lãnh đạo. Ở địa vị thấp hơn là những người lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh. Những
người thuộc tầng lớp nơng dân, thợ thủ cơng. Họ có nhiệm vụ làm ra của cải vật chất,
đảm bảo cuộc sống cho nhà nước.
Theo Platon nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng hóa các nhu cầu con người và từ đó
xuất hiện các dạng phân công lao động để thỏa mãn các nhu cầu ấy. Vì vậy, trong xã hội
phải duy trì các hạng người khác nhau. Do đó khơng thể có sự hồn tồn bình đẳng giữa
mọi người. Sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, nó phá họai chỉnh thể và thống
nhất của nhà nước. Vì vậy nó phải được loại trừ ra khỏi xã hội. Theo ông cho dù nhà
nước nào cũng tồn tại hai nhà nước thù định lẫn nhau: một là nhà nước của những người
giàu có, cịn nhà nước kia là của những người nghèo khó. Vì vậy, cần phải có sự thống
nhất về sở hữu. Tóm lại quan điểm chính trị của Platon có nhiều hạn chế, một mặt ơng
muốn xóa bỏ sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu cộng đồng. Mặt khác ơng thấy cần phải duy
trì sự khác nhau giữa các đẳng cấp và bất bình đẳng trong xã hội.
Aristotle (384 - 322 TCN): ông được coi là “bách khoa tồn thư” của trí tuệ Hy
Lạp cổ đại. Trong tác phẩm “Chính trị” của mình, ơng đã nghiên cứu các mặt cấu thành
các thành bang: các gia đình và cơng dân, lãnh thổ và dân cư, chính phủ, hình thức chính
quyền, chế độ chính trị,… Ơng cho rằng chính trị là khoa học lãnh đạo con người, là khoa
học làm chủ, là khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân. Những quan điểm cơ bản
của ông về chính trị thể hiện như sau:
Về nhà nước và con người: Ông quan niệm con người là động vật chính trị. Từ chỗ
luận giải về thế giới tự nhiên, hai cá thể muốn tồn tại và phát triển được chúng cần kết
hợp với nhau để duy trì nịi giống. Về điểm này con người và các động vật khác, kể cả
thực vật là giống nhau. Đối với con người, đó là hình thức kết hợp gia đình. Tuy nhiên,
con người khơng chỉ dừng lại ở đó, với nhu cầu ngày một cao hơn, họ kết hợp với nhau
thành thôn trang, và thôn trang lại liên hợp lại thành thành bang. Khi đó, xã hội phát triển
13
đến một mức độ cao, ở đó con người sống tự cấp, tự túc và tuân theo những chuẩn mực
được đặt ra phù hợp với cuộc sống cộng đồng.
Nhà nước trong quan hệ với dân cư, được Aristotle tuyệt đối hố khi ơng đứng trên
lập trường của giai cấp chủ nô, khinh miệt những người nô lệ. Theo ông, dân cư đều là
một phần của nhà nước, nhưng không phải mọi dân cư đề là thành viên của nhà nước, ví
dụ như nơ lệ. Ơng nhấn mạnh, sự tồn tại giữa chủ nô và nô lệ là khách quan.
Về quyền lực chính trị: Ơng cho rằng, quyền lực chính trị ra đời tự nhiên cùng với
thành bang, và là sự chuyển tiếp quyền lực trong gia đình. Có thể phân chia quyền lực
thành các quyền lập pháp, hành pháp và phân xử.
Về hình thức chính phủ: Ơng phân tích các hình thức chính phủ: Qn chủ, q
tộc, dân chủ. Theo ơng, khơng có một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp
với tất cả các thời đại và các nước. Ơng xếp chính phủ theo hai loại: một là chính phủ
chân chính, hai là chính phủ biến chất. Tuy vậy, ông ủng hộ chế độ quân chủ là hơn cả.
Khổng tử (551 – 479 TCN): Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho
chính đạo, chính danh. Ơng xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương,
Ngũ thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đơng lúc bấy giờ và cả
sau này.
Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ơng. Ơng cho rằng
chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng lễ nghĩa và đạo đức tự nhiên của con người,
chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ơng đã giải thích điều đó tại một trong những
đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo
dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy tuy có giảm được phạm pháp, nhưng
người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân,
dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục
nhã khi phạm tội, mà cịn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt
tư tưởng."
14
Các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế sự lạm quyền của
những nhà cai trị. Theo ơng người cầm quyền phải có đạo đức, đặt nhân nghĩa lên hàng
đầu và đặt lợi ích của dân chúng cao hơn lợi ích bản thân. Ơng cho rằng lời lẽ phải ln
ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Sự thành thật có thể làm
cảm động lịng người, quy tụ thiên hạ.
Hàn Phi Tử (279 – 233 TCN): Ông quan niệm để thực hiện họat động chính trị
cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và
pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia. Hàn Phi cho rằng pháp luật là cơng cụ
hữu hiệu nhất để đem lại hịa bình, ổn định và cơng bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái
thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì
nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân
chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông
không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng
thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tơi thân u nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.2
Tóm lại, các quan niệm về chính trị của các nhà tư tưởng thời cổ đại ở cả phương
Đông và phương Tây tuy đã có những cách nhìn nhận hợp lý, có những kiến giải phù
hợp, rất có giá trị, sau này được các nhà tư tưởng thời Phục hưng và cận đại kế thừa, phát
triển nhưng vẫn còn những hạn chế về mặt lịch sử. Tất cả điều này đã được Mác, Ăngghen, Lênin chỉ ra và giải nghĩa nó một cách có cơ sở khoa học và thực tiễn rõ ràng.
Quan niệm về chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Một là, chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi
ích giai cấp. Chính trị xuất hiện cùng với sự ra đời của giai cấp và nhà nước. Sự xuất hiện
đó một mặt là cơng cụ để một giai cấp giữ vị trí thống trị nền sản xuất xã hội, mặt khác
nhằm điều hoà và giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa giai cấp đó với các giai tầng xã hội
khác. Họat động chính trị chính là họat động thực tiễn của các giai cấp - vì lợi ích giai
cấp.
2 Phan Ngọc (dịch), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr.130
15
Hai là, cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự
tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội
dung, nhiệm vụ của nhà nước. Quyền lực là vấn đề trung tâm của chính trị. Từ chỗ nắm
quyền lực chính trị, người ta tổ chức ra bộ máy thực thi quyền lực đó - là nhà nước. Nhà
nước cần phải tổ chức theo hình thức nào, vận động theo những mục tiêu, nội dung họat
động của nhà nước là gì, cơng dân tham gia vào công việc của nhà nước ra sao. Tất cả
những điều đó là nội dung nịng cốt của chính trị.
Ba là, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị khơng thể
khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
Tính tập trung về kinh tế của chính trị biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, tất cả mọi họat động của nền kinh tế đều đặt dưới sự quản lý - điều tiết
của một thể chế chính trị. Họat động chính trị chính là họat động vì lợi ích của một quốc
gia, cộng đồng và trên hết là lợi ích giai cấp.
Thứ hai, các thành phần kinh tế của một cộng đồng, quốc gia thì chính trị không
thể không nắm phần quan trọng, phần chủ yếu nhất của nền kinh tế đó.
Chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, chính trị ln là họat động đi trước, họat động tạo hành lang, tạo môi
trường cho kinh tế phát triển.
Thứ hai, chính trị có ổn định thì kinh tế mới có bước phát triển. Chính trị mất ổn
định nền sản xuất xã hội sẽ bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh quốc gia.
Bốn là, chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh
hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Chính trị khơng chỉ dừng lại ở việc làm thế nào để điều tiết một nhà nước họat động,
quản lý tất cả các mặt của đời sống xã hội, ban hành pháp luật... tức là họat động đối nội,
mà cịn liên quan đến quan hệ mang tính đa quốc gia, mang tầm vóc quốc tế, có ảnh
16
hưởng lớn đến sự tồn vong của một quốc gia - tức là họat động đối ngoại. Do vậy vấn đề
chính trị là hết sức phức tạp và nhạy cảm. Để giải quyết vấn đề chính trị địi hỏi có cả
kiến thức khoa học cùng sự uyển chuyển, khéo léo của nghệ thuật.
Từ đây, chúng ta có thể rút ra kết luận khái quát về chính trị: Chính trị là lĩnh vực
quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ,
tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của
nhà nước và xã hội, là họat động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính
trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu
đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Theo Mác, chính trị liên quan đến quyền lực và quyền lực không được phân chia
một cách đồng đều giữa các tầng lớp trong xã hội. Chính điều này đã gây nên sự xung đột
và đấu tranh giữa các giai cấp. Chính trị là một q trình mà qua đó các giai cấp có xung
đột về quyền lực đấu tranh để giành lấy, nắm giữ hoặc gây ảnh hưởng đến quyền lực nhà
nước. Đối với Mác, theo nghĩa này, chính trị làm cho cuộc sống con người trở nên bất ổn.
Để có được cuộc sống tốt đẹp hơn cần “tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một
xã hội khơng có giai cấp”3, tức là phải loại bỏ chính trị ra khỏi đời sống của con người.
Vì chính trị biểu hiện cho sự xung đột giai cấp, nên nếu khơng cịn giai cấp nữa thì cũng
sẽ khơng cịn nhà nước và chính trị cũng sẽ biến mất. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác chủ
trương xây dựng một xã hội khơng có chính trị.
1.1.1.2. Con người trong lịch sử tư tưởng chính trị
Chính trị đã xuất hiện với tư cách là một trong những lĩnh vực định hướng cho
việc điều hành những công việc phức tạp của quốc gia. Tuy nhiên việc xác lập nó trên
thực tế cần phải thơng qua các thể chế chính trị, hay nói cách khác, là nằm trong tay chủ
thể nắm bắt quy luật và vận hành nền chính trị - con người trong chính trị.
Con người trong tư tưởng chính trị phương Đông:
3 K.Marx. F.Engels, Tuyển tập, Tập II, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1981, tr.662
17
Khổng Tử (551 – 479): vị hiền triết bậc nhất của Trung Hoa cổ quan niệm rằng
con người chỉ có hai loại là quân tử - tiểu nhân và đều có thiên tính. Bậc cầm quyền phải
có thiện đạo và nhân đạo, lấy đức làm cốt lõi và đề cao nhân trị.
Theo Khổng Tử, con người và vạn vật trong vũ trụ đều là kết quả của sự bẩm thụ
lý - khí của trời đất và sự hội hợp của âm dương mà thành. Xuất phát từ quan điểm
“Thiên nhân tương đồng”, Khổng Tử cho rằng, đạo sống của con người là biểu hiện của
đạo trời. Bản tính của con người, theo Khổng Tử, là tính tự nhiên trời phú cho con người,
sinh ra đã có. Bản tính đó là “con người ta hết thảy đều giống nhau. Nhưng bởi nhiễm
thói quen, nên họ thành ra xa khác nhau. - Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” (Luận
ngữ). Bản tính tự nhiên của con người sinh ra đã giống nhau ấy, là bản tính ngay thật.
Con người trở thành ác và giả dối là do hoàn cảnh tác động làm thay đổi mà thôi. Những
phạm trù đạo đức, phản ánh những đức tính của con người, theo Khổng Tử, khơng tách
rời nhau mà có liên hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề cho nhau, tạo thành một thể thống
nhất hữu cơ. Con người muốn thực hiện điều nhân phải có lễ, thực hiện điều nhân theo lễ
là nghĩa, là trung, là hiếu, là kính…; trong đó, nhân được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa
sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người từ
trong gia tộc đến bên ngoài xã hội và liên quan đến các phạm trù đạo đức khác một cách
chặt chẽ. Có thể nói, các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng
tròn đồng tâm mà chữ nhân là tâm điểm. Bởi phạm trù nhân đã chỉ ra cái bản chất nhất
trong bản tính của con người.
Hàn Phi Tử (279 – 233 TCN):
Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi tán đồng quan niệm “tính con người ta vốn
ác”4 của Tuân Tử, đồng thời có bổ sung và phát triển thêm những nội dung mới. Những
nội dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá tàn nhẫn và thể hiện một sự
công phá từ bên trong khi ông nhận ra bản chất đích thực của con người lại thường bị che
giấu bởi những giá trị khơng thật. Ơng chấp nhận con người với đầy đủ bản năng sinh tồn
4 Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi, Tuân Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1994, tr.50.
18
để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như một lẽ tự nhiên. Với xuất phát
điểm đó, Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá nhân - chủ yếu là lợi ích về mặt vật
chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của
mọi cá thể. Theo Hàn Phi, bản chất này được bộc lộ qua vô số các hiện tượng khác nhau.
Cho nên, với Hàn Phi, các quan hệ giữa người với người đều bị quyết định bởi cái lợi ích
thiết thân; cái lợi ở đâu thì người ta theo đó mà làm, cái hại đến thân ở đâu thì người ta
theo đó mà tránh, mọi giá trị nhân, nghĩa đều chỉ là giả dối.
Thẳng thắn nhìn vào con người với tư cách một sinh vật mang bản chất hám lợi và
ích kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn tại một cách tự nhiên và phổ biến của dạng người này
như một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển. Hàn Phi đã giải thích mâu thuẫn xã hội
bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự biến đổi của điều kiện dân số, tình trạng
dân cư, trình độ của cơng cụ lao động… Có thể nói, khi khẳng định ảnh hưởng mang tính
quyết định của yếu tố kinh tế đối với mỗi cá nhân và từng xã hội, Hàn Phi đã động chạm
đến gốc rễ của vấn đề - cái gốc rễ mà nhiều người đương thời đã che đậy, không dám
thẳng thắn thừa nhận.
Con người trong tư tưởng chính trị phương Tây:
Xenophon (427 – 355 TCN):
Điều chủ yếu trong tư tưởng chính trị của Xenophon là quan niệm về thủ lĩnh
chính trị. Ơng cho rằng, việc làm chủ nghệ thuật chính trị là trình độ cao hơn mà con
người có thể đạt tới. Theo ông ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người
trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về điều đó sẽ trở thành hàng nơ lệ. Theo ông thủ lĩnh
chính trị phải là người biết chỉ huy, đó khơng phải là một người được quần chúng bầu ra,
cũng không phải là những người được chỉ định bằng bỏ thăm, cũng không phải là người
chiếm đoạt quyền lực bằng bạo lực, các thủ lĩnh là những người biết chỉ huy.
Tóm lại người ta bằng lịng nghe theo những người mà người ta đánh giá là cao
hơn. Thủ lĩnh phải là người giỏi thuyết phục, hùng biện, nói phải đi đôi với làm. Mặt
19
khác sự thuyết phục của thủ lĩnh ở đây phải dựa trên những căn cứ thực tế như tình cảm,
lợi ích và tình yêu sự vinh quang chung. Đồng thời phải là người thực hiện chỉ huy vì lợi
ích chung. Người thủ lĩnh được chỉ định không phải để chăm lo cho cá nhân người đó mà
để phục vụ những người mà anh ta chỉ huy, vì rằng những người này đã chọn anh ta, do
những phẩm chất của anh ta, để bảo vệ cái lợi ích của họ. Người thủ lĩnh phải luôn rèn
luyện, tu dưỡng bản thân.
Aristotle (384 - 322 TCN): người được xem là sáng lập ra “khoa học chính trị” này
quan niệm con người là một sinh vật xã hội, mọi cơng dân có đạo đức đều có quyền cai
trị. Tuy nhiên, con người chính trị lý tưởng vẫn chỉ giới hạn ở những ông vua thơng thái,
có phẩm chất vượt lên trên người khác. Nơ lệ khơng có chỗ đứng trong thể chế chính trị.
Qua các quan niệm về con người trong chính trị của một số đại biểu ở cả phương
Đông và phương Tây, có thể thấy được sự ảnh hưởng của điều kiện lịch sử - xã hội đối
với quan niệm về con người nói chung và con người trong chính trị nói riêng. Mặc dù đều
mang một mục đích cơ bản là tối ưu hóa con người và quyền con người, đặc biệt là
những con người chính trị - chủ thể nắm bắt và vận hành các thể chế chính trị, đối với sự
suy thối và xuất hiện của các loại hình chính thể, tuy nhiên quan niệm của các nhà tư
tưởng thời kỳ này có sự thiên vị cho những người thuộc tầng lớp trên, những người có địa
vị và thuộc tầng lớp thống trị xã hội, vai trò của nhân dân chưa được đề cao và hướng đến
một cách có chủ đích.
1.1.2. Quyền con người
1.1.2.1. Khái niệm
Nhận thức về quyền con người là giá trị tinh thần quý giá nhất của nền văn
minh nhân loại. Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ
thời tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh. Tuy nhiên, ở trình độ phát triển của
thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có những ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng
về quyền con người. Theo dòng chảy của lịch sử đã xuất hiện rất nhiều các định nghĩa
khác nhau về quyền con người hay nhân quyền (human rights).
20
Thời kì cổ đại: vào khoảng thế kỉ XX TCN tại nước Etnuna ở Đông Bắc Babylon,
từ thời vương triều của thành bang Ua, nhà vua Hammurabi đã ban hành bộ luật mang tên
mình (khoảng 1780 TCN), đây được xem là văn bản pháp luật đầu tiên đề cập đến quyền
con người với lời tuyên bố nổi tiếng: “ngăn ngừa các kẻ mạnh áp bức kẻ yếu,… làm cho
người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,… đem lại hạnh phúc chân chính và nền
thống trị nhân từ”. Có thể thấy, bộ luật Hammurabi phần nào đã thể hiện được sự ý thức
về các quyền cơ bản của con người.
Bên cạnh việc được thể hiện trong hệ thống pháp luật của nhà nước cổ đại, quyền
con người còn được đề cập rất nhiều trong các tác phẩm tôn giáo kinh điển như kinh Vệ
Đà (Vedas), Kinh Phật, Kinh Thánh, Kinh Koran; các học thuyết chính trị của Nho giáo;
trong những cuộc đấu tranh của người nô lệ Spartacuse – La Mã; trong tư tưởng triết học,
…
Thời kì trung đại: Đại hiến chương Magna Carta năm 1215 của nhà vua John
nước Anh đã thừa nhận một số quyền cơ bản của con người như quyền sở hữu, quyền
thừa kế, quyền bình đẳng trước pháp luật,… được xem là văn bản pháp luật đầu tiên xác
lập ý tưởng giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền công dân. Đồng thời, giai đoạn
này cũng xuất hiện hàng loạt các tư tưởng tiến bộ về quyền con người với những đại biểu
như Thomas Paine, Thomas Hobbes,… theo trường phái quyền tự nhiên và quyền pháp
lý.
Thời kì cận đại: gắn liền với lời tuyên bố trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Mĩ năm 1776: “…Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” và Điều 1 Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền năm
1789 của Pháp: “Người ta sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền”, xác nhận
hàng loạt các quyền tự do cơ bản của con người.
Thời kì hiện đại: sự ra đời của Liên hợp quốc nhằm duy trì nền hịa bình trên thế
giới đã góp phần vào sự bảo vệ và thúc đẩy phát triển quyền con người. Theo định nghĩa
21
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu thì
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (action) hoặc sự
bỏ mặc (omission) làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản (fundamental freedoms) của
con người”5. Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những
quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu khơng được hưởng thì chúng ta sẽ khơng
thể sống như một con người.
1.1.2.2. Quan niệm mác-xít về quyền con người
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở
khoa học tự nhiên đã coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật. Hoặc
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của
cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi. Các nhà triết học giai đoạn này một mặt đề
cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên
và hồn cảnh. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những
thiếu sót trong các thuyết nhân quyền trước đây, xem xét con người với tư cách là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội, là thực thể tự nhiên nhưng là thực thể tự nhiên trong cộng
đồng xã hội. Đồng thời tạo ra bước ngoặt cách mạng trong sự phát triển lý luận về nhà
nước, pháp quyền và nhân quyền. Xem xét các vấn đề nhà nước, pháp luật và nhân quyền
con người theo quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, xác định đúng vai trò của con người
và tương quan giữa con người với quy luật khách quan của xã hội, là “tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”.
1.1.2.3. Trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam
Bảo đảm quyền con người là một trong những chính sách nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Ngay từ khi đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố
5 United Nations, Human Rights: Questions and Answers, New York and Geneva, 2006, tr.4
22
trước toàn thể dân tộc và thế giới, việc khẳng định tôn trọng các quyền công dân và
quyền con người trên đất nước Việt Nam: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Có thể nói trong các điều kiện để đảm bảo thực hiện quyền con người như chính
trị, văn hóa, giáo dục, pháp luật,…thì pháp luật có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vì đây là
cơng cụ, phương tiện giáo dục và trấn áp hiệu quả để Nhà nước có thể thực hiện và bảo
vệ quyền con người, đồng thời là cơ sở pháp lý để mọi công dân đều có thể đấu tranh bảo
vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, quyền con người cần thiết được quy
định cụ thể trong văn bản có tính pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp. Việt Nam khơng có
bản tun ngơn nhân quyền riêng mà vấn đề nhân quyền, hay quyền con người được thể
hiện cụ thể trong Hiến pháp, với những quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của công
dân trong suốt quá trình lịch sử lập hiến.
Hiến pháp năm 1946: ra đời trong giai đoạn chính quyền nhân dân cịn rất non trẻ,
phải đối phó với nhiều vấn đề chính trị khác nhau nhưng vẫn dành sự quan tâm to lớn
trong thực hiện quyền con người. Hiến pháp năm 1946 chỉ có 70 điều nhưng đã dành hẳn
một chương với 18 điều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hiến pháp năm 1959: quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một
chương với 21 điều, dựa trên sự kế thừa và phát triển của bản Hiến pháp năm 1946. Các
quyền công dân được quy định cụ thể trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa,
…
Hiến pháp năm 1980: quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một
chương với 27 điều, dựa trên sự kế thừa và phát triển của cả hai bản Hiến pháp trước đó.
Điểm đặc biệt ở bản Hiến pháp này là quy định về quyền và nghĩa vụ của công đân được
xác lập trên cơ sở tư tưởng về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động 6. Tuy nhiên,
6 Hiến pháp 1980, Điều 54: Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, kết hợp hài hịa những u cầu của chính sách xã hội và tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về
23
điểm hạn chế đó là khơng thừa nhận quyền sở hữu tư nhân – một quyền về sở hữu tài sản,
một trong những quyền quan trọng nhất và bất khả xâm phạm. Điều này vơ hình chung
đã kìm hãm phần nào sự phát triển của đất nước ta thời kì đó cũng như việc bảo đảm thực
hiện quyền con người.
Hiến pháp năm 1992:
Quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong chương V với 34 điều, thể
hiện nhiều điểm tiến bộ vượt bậc. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp nước ta
nói về quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”
(Điều 50). Quyền con người không chỉ thể hiện trong những ghi nhận về quyền mà là vấn
đề xuyên suốt tư tưởng của Hiến pháp và tạo nền tảng cho chế độ chính trị. Theo đó,
trong chương I đã ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị liên quan đến
quyền con người (Điều 3; Điều 6)7.
Điều này cho thấy sự đề cao của Nhà nước ta về việc thực hiện quyền con người,
được thực hiện và đảm bảo bằng pháp luật. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 vẫn chứa đựng rất
nhiều bất cập:
lợi ích giữa Nhà nước, tập thể, và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người
7 Hiến pháp 1992:
Điều 3: Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện cơng bằng xã hội,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Điều 6: Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
24
- Thứ nhất, tư duy cũ về chủ thể của quyền.
Cách quy định các quyền trong Hiến pháp 1992 vẫn ít nhiều thể hiện tư duy lạc hậu
theo tư tưởng “Nhà nước ban phát" quyền cho dân. Điều này biểu hiện ở chỗ rất nhiều
quyền trong chương V Hiến pháp 1992 được quy định dưới dạng nhà nước “quyết định”,
"trao quyền cho" công dân chứ không phải công dân được hưởng các quyền đó một cách
đương nhiên. Tư duy lập hiến như vậy không phù hợp với xu hướng chung của hiến pháp
trên thế giới, trong đó xem các quyền con người, các quyền công dân là những giá trị tự
nhiên, vốn có mà các nhà nước chỉ có thể phải thừa nhận (và có nghĩa vụ tơn trọng, bảo
vệ và thúc đẩy) chứ không thể đặt ra rồi quy định cho người dân. Cách quy định này tiềm
ẩn nguy cơ về sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước cắt xén, giảm bớt hay xóa bỏ các
quyền này bất cứ khi nào Nhà nước muốn.
- Thứ hai, cấu trúc và kỹ thuật lập hiến chưa phù hợp.
Về cấu trúc, so sánh với chế định quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp
của các quốc gia khác, Chương V Hiến pháp 1992 mới chú trọng đến các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa và quyền của nhóm, song thiếu quan tâm đúng mức đến các quyền dân
sự, chính trị - nhóm quyền "truyền thống" và hiện vẫn là nội dung chính của chế định này
trong các hiến pháp trên thế giới. Điều quan trọng hơn cả là còn thiếu vắng nhóm quy
định về trách nhiệm của Nhà nước và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền con người,
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Về kỹ thuật lập hiến:
1. Hiến pháp khơng có quy định về hiệu lực áp dụng trực tiếp của Hiến pháp;
không quy định về việc ban hành những đạo luật (cần thiết) tạo điều kiện để thực thi
quyền thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Điều này dẫn tới tình trạng khá nhiều quyền hiến
định (ví dụ: quyền hội họp, lập hội, biểu tình, quyền biểu quyết khi có trưng cầu ý dân…)
khơng thể được thực hiện trên thực tế do lối tư duy ngược là phải có luật và/hoặc thiếu
văn bản pháp luật quy định chi tiết.
2. Xác định chủ thể quyền quá hẹp, vì hầu hết quy định trong Chương V Hiến
pháp 1992 ấn định chủ thể quyền là "công dân". Điều này không phù hợp với xu thế
25