Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
Mục Lục
Mục Lục................................................................................................. 1
I. Dẫn nhập .......................................................................................... 2
II.
Nội dung kinh Giáo giới Channa .................................................... 3
III.
Cơ sở lý thuyết và các quan điểm về tự sát ...................................... 5
1.
Quan điểm của tâm lý học về tự sát.............................................. 5
2.
Quan điểm Xã hội học về tự sát ................................................... 6
3.
Pháp Luật Việt Nam đối với “Quyền được Chết” ......................... 7
4.
Tạm kết ...................................................................................... 8
IV.
V.
Tìm hiểu về vấn đề tự sát trong Đạo Phật ........................................ 8
1.
Quan điểm về vấn đề tự sát trong Đạo Phật .................................. 8
2.
Ngài Channa có phạm giới sát sinh hay khơng? ...........................13
3.
Tạm kết .....................................................................................14
Kết Luận ......................................................................................15
Tài liệu tham khảo .................................................................................15
Nguyễn Thanh Hải
Trang 1/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
I.
Dẫn nhập
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)1 cứ 40 giây lại có một
người trên thế giới chết vì tự sát. Đây là một trong số những sự thật giật mình
về việc tự sát của con người. Chết do tự sát chiếm mức độ cao thứ 132 trong
các nguyên nhân gây ra cái chết cho lồi người, số người chết vì tự tử cịn
nhiều hơn tất cả nạn nhân của các cuộc chiến tranh và thảm họa tự nhiên
hàng năm3. Trẻ con và thanh niên dưới 35 tuổi chiếm tỷ lệ tự tử cao nhất4,
và nam giới tự tử nhiều gấp 3, 4 lần nữ giới5. Có khoảng 10-20 triệu vụ tự
sát khơng thành xảy ra mỗi năm trên toàn thế giới6. Ở Ấn Độ và một số dân
tộc khác, thời xưa người đàn bà khi chồng qua đời thì tự sát để chết theo
chồng. Theo suy nghĩ cá nhân, cho dù kinh điển không ghi lại, nhưng chắc
Phật chống lại tục lệ xấu đó.
Vấn đề tự sát ở đây khi đưa ra bàn thảo chỉ thu hẹp ở trường hợp của một
nhà sư tự sát vì bạo bệnh, và xoay quanh hai điểm chính:
- Tìm hiểu về nội dung bài Kinh Giáo Giới Channa.
- Tìm hiểu về vấn đề tự sát trong Đạo Phật.
Cụ thể, trong kinh Kinh giáo giới Channa (kinh số 144- Channovāda sutta)
trong bộ kinh Trung bộ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.
Tổ chức Y tế Thế giới viết tắt WHO (tiếng Anh: World Health Organization) hoặc OMS (tiếng Pháp:
Organisation mondiale de la santé) là một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, WHO đóng vai trị thẩm quyền
điều phối các vấn đề sức khỏe và y tế cộng đồng trên bình diện quốc tế
2 Bruce Gross, Forrensic Examiner, Summer, 2006
3 Thông tin trên internet, Nguồn />4 O'Connor, Rory; Sheehy, Noel (29 tháng 1 năm 2000). Understanding suicidal be haviour. Leicester:
BPS Books. tr. 33–37. ISBN 978-1-85433-290-5.
5 Gelder et al, 2005 p169. Psychiatry 3rd Ed. Oxford: New York
6 Bertolote JM, Fleischmann A (tháng 10 năm 2002). “Suicide and psychiatric diagnosis: a worldwide
perspective”. World Psychiatry 1 (3): 181–5. ISSN 1723-8617. PMC 1489848. PMID 16946849
1
Nguyễn Thanh Hải
Trang 2/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
II.
Nội dung kinh Giáo giới Channa
1. Lúc Thế Tôn trú ở tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana), thành Vương Xá
(Ràjagaha), Tôn giả Channa (Xiển Đà), đã đoạn trừ chấp thủ ngã, đang
lâm trọng bệnh, rất đau đớn, Tôn giả muốn tự kết liễu mạng sống. Tôn giả
Xá Lợi Phất (Sàriputta) cùng Tôn giả Ma Ha Câu Hi La (Mahacunda) đến
thăm và khuyên Tôn giả Channa nhẫn nại chạy chữa thuốc thang (dược
liệu), tiếp tục sống, nhưng Tôn giả Channa vẫn không thay đổi ý định kết
thúc mạng sống của mình.
“Tơn giả Sariputta nói với Tơn giả Channa:
-Này Hiền giả Channa, mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng
Hiền giả có thể chịu đựng! Mong rằng khổ thọ được giảm thiểu khơng có
gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, khơng có gia tăng!
-Thưa Hiền giả Sariputta, tơi khơng có thể kham nhẫn, tơi khơng có thể
chịu đựng. Sự thống khổ của tơi gia tăng khơng có giảm thiểu, và sự gia
tăng rõ rệt, khơng có giảm thiểu. Thưa Hiền giả Sariputta, tôi sẽ đem dao
(cho tôi). Tơi khơng cịn muốn sống.
-Tơn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa, hãy tiếp tục
sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống. Nếu Tôn giả Channa
khơng có các món ăn tốt lành, tơi sẽ đi tìm các món ăn tốt lành cho Tơn
giả Channa. Nếu Tơn giả Channa khơng có các dược phẩm tốt lành, tơi
sẽ đi tìm các dược phẩm tốt lành cho Tơn giả Channa. Nếu Tơn giả
Channa khơng có người thị giả thích đáng, tơi sẽ hầu hạ Tơn giả Channa.
Tơn giả Channa chớ có đem lại con dao! Tơn giả Channa hãy tiếp tục
sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.
-Thưa Hiền giả Sariputta, không phải tôi không có các món ăn tốt lành,
cũng khơng phải tơi khơng có các dược phẩm tốt lành. Cũng khơng phải
tơi khơng có thị giả thích đáng. Thưa Hiền giả Sariputta, trong một thời
gian dài, tôi đã hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo sư) được đẹp lòng,
Nguyễn Thanh Hải
Trang 3/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
khơng phải khơng được đẹp lịng. Thưa Hiền giả Sariputta, thật là thích
đáng cho người đệ tử hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo Sư) được đẹp
lịng, khơng phải khơng được đẹp lịng. Tỷ-kheo Channa đem lại con dao
khơng có phạm tội. Thưa Hiền giả Sariputta, hãy thọ trì như vậy!”
2. Tơn giả Sàriputta mạo muội xin ý kiến cho phép của Tôn giả Channa nêu
lên một số câu hỏi xem Tơn giả Channa có nhìn vạn hữu: “Cái này không
phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta” không?
Tôn giả Channa xác nhận tự mình đã thấy như thế, đã thấy sự đoạn diệt
trong 18 giới, trong sở kiến, sở văn, sở tri... Tôn giả Sàriputta liền tiếp lời
giáo giới: “Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tơn cần
được tác ý: Ai có chấp trước là có dao động. Ai khơng chấp trước thì
khơng dao động. Khơng dao động thì khinh an. Có khinh an thì khơng hy
cầu; khơng hy cầu thì khơng khứ lai; khơng khứ lai thì khơng tử sinh;
khơng tử sinh thì khơng có đời này, đời sau, khơng có giữa hai đời. Như
vậy là đoạn tận khổ đau”.
3. Sau khi từ giã Tơn giả Channa, tơn giả Sàriputta đã trình sự việc lên Thế
Tôn. Thế Tôn dạy:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem dao lại (cho mình), sanh xứ của
Tơn giả ấy là gì? Ðời sống tương lai là gì?
-Này Sariputta, có phải trước mặt Ơng, Tỷ-kheo Channa đã tun bố sự
khơng phạm tội?
-Bạch Thế Tơn, có một ngơi làng của dịng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là
Pubbajira. Tại đấy, có những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì
Tơn giả Channa, những gia đình cần được viếng thăm.
-Này Sariputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những
gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm. Này
Sariputta, cho đến nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội.
Này Sariputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng
Nguyễn Thanh Hải
Trang 4/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
người ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa khơng có (chấp thủ) như vậy. Tỷkheo Channa đem con dao lại (cho mình), khơng có phạm tội.
Thế Tơn thuyết giảng như vậy. Tơn giả Sariputta hoan hỷ tín thọ lời Thế
Tôn dạy”.
III.
Cơ sở lý thuyết và các quan điểm về tự sát
Tự sát7 hay tự tử, tự vẫn là hành động của một người cố ý gây ra cái chết cho
chính mình8. Hành động này được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau
như dùng thuốc độc, vũ khí, rơi từ độ cao, dùng dao, dùng súng, nhảy xuống
sông,v.v.
1. Quan điểm của tâm lý học về tự sát
Theo nhà tâm lý học người Mỹ, Edwin S. Shneidman9, tự sát là hành động
tự làm tổn thương, cố ý chấm dứt sinh mạng của bản thân. Tự tử không phải
là một chứng bệnh; tự tử khơng phải là do sự bất bình thường về mặt sinh
học; nó cũng khơng phải là một hành động vô đạo đức, và không phải là một
hành vi phạm pháp trong hầu hết các quốc gia trên thế giới10. Trong cuốn
sách Definition of Suicide xuất bản năm 1985, Edwin S. Shneidman đã định
nghĩa tự tử như sau: Tự tử là một hành động tự kết liễu sự sống của bản thân
một cách có ý thức. Ở đây, người ta phải đối mặt với một tình cảnh vơ cùng
khó khăn, phức tạp và họ nhận thấy rằng tự sát là giải pháp tốt nhất để giải
quyết khó khăn đó 11.
Tiếng hoa:自殺, có nghĩa là "tự giết", tiếng Anh: suicide bắt nguồn từ tiếng Latin: Suicidium từ chữ
suicaedere nghĩa là "giết chính mình"
8 Theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia; nguồn
/>9 Edwin S. Shneidman (1918 - 2009) là một nhà tâm lý học về lâm sàng học người Mỹ , nhà tự tử và nhà
giải phẫu học . Cùng với Norman Farberow và Robert Litman, vào năm 1958, ông thành lập Trung tâm
Phòng chống Tự sát Los Angeles, nơi mà những người đàn ơng này có vai trị quan trọng trong việc nghiên
cứu tự tử và phát triển một trung tâm khủng hoảng và các phương pháp điều trị để ngăn ngừa tử vong
10 Antoon A. Leenaars (2004), Psychotherapy with suicidal people, John Wiley & Sons, New Delhi, p.3.
11 Shneidman, E. (1985), Definition of suicide, John Wiley & Sons, New York, p.203.
7
Nguyễn Thanh Hải
Trang 5/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
Charles Bagg, một chuyên gia tâm lý người Anh, cho rằng, tự tử là hành
động cướp đi sinh mạng của bản thân một cách có chủ tâm, và hành động
này có thể là hậu quả của những chứng bệnh tâm thần và cũng có thể là hậu
quả của những động cơ khác nhau; những động cơ này không nhất thiết phải
liên quan đến các chứng bệnh tâm thần, nhưng chúng mạnh hơn cả bản năng
sinh tồn của con người12
2. Quan điểm Xã hội học về tự sát
Theo Durkheim13, tự sát là cái chết do kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ họat
động tích cực hay tiêu cực của cá nhân chống lại chính bản thân mình mà cá
nhân đó biết là hành động đó sẽ tạo ra kết cục như vậy. Dựa vào tính chất
của sự địan kết xã hội, Durkheim phân ra bốn loại tự sát14:
- Tự sát vị kỉ: cá nhân hòa nhập xã hội kém, xảy ra khi cá nhân bị bỏ
rơi, không được quan tâm đến và cá nhân sống chỉ vì bản thân mình.
Đây là kiểu tự sát do chủ nghĩa cá nhân quá lớn, quá mạnh gây ra.
- Tự sát vị tha: cá nhân hòa nhập xã hội ở mức độ rất cao, quên đi bản
thân mình, tự sát vì lợi ích của nhóm. Theo Durkheim, tự sát vị tha có
thể diễn ra dưới hình thức bắt buộc trong một hồn cảnh nhất định mà
cá nhân không thể làm khác được. Đó có thể là quy định, quy ước của
nhóm.
- Tự sát phi chuẩn mực: là hình thức được Durkheim nhấn mạnh nhất
khi nghiên cứu về tự sát. Hình thức tự sát này xảy ra khi cá nhân ở
12
Antoon A. Leenaars (2004), Psychotherapy with suicidal people, John Wiley & Sons, New Delhi, p.3.
Émile Durkheim (1858 - 1917) là một nhà xã hội học người Pháp nổi tiếng, người đặt nền móng xây
dựng chủ nghĩa chức năng (functionlism) và chủ nghĩa cơ cấu (structuralism); người đã góp cơng lớn trong
sự hình thành bộ môn xã hội học và nhân chủng học. Những công sức của ông trong việc thực hiện và biên
tập tạp chí (L'Année Sociologique) đã giúp xây dựng xã hội học thành một môn khoa học xã hội được chấp
nhận trong giới hàn lâm. Trong suốt cuộc đời mình, Durkheim đã thực hiện rất nhiều bài thuyết trình và
cho xuất bản vô số sách xã hội về các chủ đề như giáo dục, tội phạm, tôn giáo, tự tử và nhiều mặt khác của
xã hội. Ông được coi là một trong những nhà sáng lập môn xã hội học và là một nhân vật nổi bật của chủ
nghĩa đoàn kết.
14 Trương Văn Vỹ , Tự Tử Như Là Một Hành Vi Lệch Lạc – Quan Điểm Của Emile Durkheim Về Sai Lệch
Chuẩn Mực Xã Hội, tạp chí phát triển KH&CN – ĐH Quốc gia TP.HCM; tập 14- số X1-2011, trang 85-93
13
Nguyễn Thanh Hải
Trang 6/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
trong tình huống nhiễu loạn, hỗn độn, khủng hoảng, mất phương
hướng do các quy tắc xã hội cũ bị phá vỡ nhưng các quy tắc xã hội
mới chưa hình thành.
3. Pháp Luật Việt Nam đối với “Quyền được Chết”
Tại Việt Nam, quyền được chết không được pháp luật nước này quy định,
tuy nhiên trong quá trình xây dựng luật vẫn có những ý kiến đề nghị thể
chế hóa quyền này vào luật. Vào năm 2004, Quốc hội Việt Nam đã có
một buổi thảo luận về Bộ luật Dân sự (sửa đổi). Nhiều ý kiến đề xuất đưa
những vấn đề mới nảy sinh trong xã hội như: quyền được chết, hiến nội
tạng, xác định lại giới tính, mang thai hộ vào trong luật15. PGS. TS. Phùng
Trung Tập cho rằng: "Câu hỏi được đặt ra bao trùm toàn bộ những quan
niệm về sự sống và chết của cá nhân. Trước hết, nhân loại tồn tại có ý
nghĩa là sự sống và mỗi người sinh ra đều có quyền sống, quyền mưu cầu
hạnh phúc trong sự phát triển của xã hội. Pháp luật không nên quy định
cho cá nhân một loại quyền được chết hay quyền được lựa chọn cách chết
hay phương thức chết! Theo tôi, mọi cái chết chứa đựng tính cưỡng bức
hay có chủ tâm đều là những cái chết khơng bình thường và bất thường.
Vì hệ quả của những cái chết như vậy thường kéo theo nhiều vấn đề mang
tính khơng tích cực và cịn ảnh hưởng đến tâm lý của những người khác.
Con người là thực thể của tự nhiên, cho nên sự sống và cái chết hãy để
chúng diễn ra một cách tự nhiên (vấn đề phịng bệnh, chữa bệnh ln
ln được coi trọng)"16.
Điều 19 của Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính
mạng trái luật". Ngồi ra, khơng có bất cứ quy định nào về “quyền được
15
Nguồn internet vnexpress.net/gl/xa-hoi/2004/11/3b9d 8a33/
Nguồn internet ml
16
Nguyễn Thanh Hải
Trang 7/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
chết”. Ngoài ra, Việt Nam đã gia nhập Cơng ước Quốc tế về các Quyền
dân sự và chính trị từ ngày 24/9/1982, Khoản 1 điều 6 Công ước ghi rằng
“mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp
luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện”. Theo
pháp luật Việt Nam, chỉ có thể tước đoạt cuộc sống của người khác thơng
qua việc tịa án xét xử và cho thi hành án phạt tử hình.
4.Tạm kết
Theo quan điểm giới các ngành khoa học và pháp luật, tự sát khơng có tội
như nó để lại ấn tượng sâu sắc với cộng đồng xã hội, là hiện tượng lệch lạc
xã hội, nhất là đối với văn hóa phương đơng và Việt Nam là tội bất hiếu, phụ
lịng cơng dưỡng dục sinh thành của cha mẹ. Tự sát có thể tạm phân thành
tiêu cực (sử dụng ma túy, chán đời, thất tình …) và tích cực (hy sinh thân
mình vì lý tưởng, niềm tin…). Đối với Phật giáo, cũng có các vị Tỳ kheo đã
tự sát khi đã chứng đắc hay chưa chứng đắc Thánh Đạo và Thánh Quả như
ngài Channa trong Kinh Giáo giới Channa (kinh số 144) sẽ được tìm hiểu
chi tiết ở phần sau.
IV.
Tìm hiểu về vấn đề tự sát trong Đạo Phật
1. Quan điểm về vấn đề tự sát trong Đạo Phật
Theo giới luật Tỳ Kheo17, thì việc hủy hoại, làm thương tổn, hay đầy đọa
thân xác của mình đều là những việc Đức Phật khơng cho phép. Tự hủy họai
thân xác tức là tự sát, là phạm giới luật, đi ngược lại giáo lý của đạo Phật về
các phương diện: (1) ngăn trở nỗi ước muốn giải thoát, (2) bỏ mất cơ hội
may mắn được làm người vì tái sanh làm thân người là điều rất khó và chỉ
có lồi người mới có nhiều khả năng để thành tựu sự nghiệp giải thoát khỏi
Năm giới của Cư sĩ, mười giới của Sa Di, đến 250 giới của Tỳ kheo, 348 giới của Tỳ kheo ni , tất cả đều
là Thanh Văn Giới. Bồ Tát Giới hay còn gọi là Đại Thừa Giới gồm 10 giới Trọng và 48 giới Khinh, bao
gồm hai phần: có phần thì tác là phạm, có phần khơng tác cũng phạm, tức là cần phải làm, nếu khơng làm
thì phạm (chỉ trì và tác trì). Đối với Thanh Văn Giới có làm mới phạm (tác phạm)
17
Nguyễn Thanh Hải
Trang 8/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
khổ đau, sinh tử, luân hồi, (3) huỷ hoại tinh thần từ bi, bình đẳng và (4) tạo
sự liên hệ lẫn nhau giữa nhân và quả trong hiện tại cũng như trong tương lai
qua định luật duyên khởi.
Tự sát đề cập ở đây được hiểu là hành động do chán nản cuộc sống, chán nỗi
khổ đau của thân tâm và thiếu nghị lực đương đầu với những khó khăn trong
cuộc sống cũng như đánh mất hy vọng và niềm tin nơi chính mình. Ngun
nhân khác dẫn đến việc tự sát đối với những người tu hành là do thiếu cơng
phu tu trì, khơng rõ đường đi của luật Nhân Quả, chưa chứng ngộ thực tướng
của vạn pháp, mà chỉ hiểu một cách lệch lạc rằng sau khi tự sát sẽ được giải
thốt. Ví dụ như thời đức Phật cịn tại thế, có một số Tỳ kheo tu pháp bất
tịnh quán, nên chán ngấy nỗi khổ của thân bèn tự sát “Có trường hợp một
nhóm Tỳ-kheo tự gây tai họa cho mình do phản ứng quá đà và tâm thần tán
loạn. Đức Phật đã dạy chư Tỳ-kheo tại Vesàli về sự bất tịnh của thân cùng
khuyến giáo chư vị qn thân vơ thường và bất tịnh. Sau đó Ngài nhập thất
để độc cư thiền định. Khi Ngài trở lại, Ngài kinh ngạc khi thấy số Tăng chúng
địa phương ấy giảm sút. Tỳ-kheo Ànanda giải thích: nhiều Tỳ-kheo quá chán
ngán bản thân sau khi đức Phật giảng Pháp, nên đã tự kết liễu đời mình!
Đức Phật lập tức triệu tập một buổi họp chư Tăng và đề nghị chư vị thay đổi
phương pháp bằng cách thực hành niệm hơi thở”18.
Tuy nhiên, nếu một vị Tỳ kheo lấy công phu tu trì, chuyên tinh thiền định,
đã nhiếp phục được tâm tham, sân, si, biết rõ đường đi của nhân qủa và biết
rõ sau khi xả bỏ báo thân này sẽ không tiếp tục sinh thân khác thì khơng
phạm lỗi, tức khơng vi phạm giới luật. Cả hai hệ kinh điển Pàli của Nam
Tông và Sanskrit của Bắc Tông đều nhắc đến ba trường hợp tự sát như vậy
H.W. Schumann (1982) - Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997); Ðức Phật Lịch Sử (The
Historical Buddha) Nguồn />18
Nguyễn Thanh Hải
Trang 9/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
của các Tỳ-kheo Cù Đề Ca (Godhika)19, Bạt Ca Lê (Vakkali)20 và Channa21.
Đó là ba trường hợp của ba vị Tỳ kheo tự sát xảy ra trong thời đức Phật.
Theo kinh, cả ba vị Tỳ kheo đều là những vị tu sĩ thuộc hàng trưởng lão,
chuyên cần tinh tấn thiền định và đều tự sát kết liễu thân mạng với “tâm vô
trụ”, với “thức không an trú”. Các ngài đều biết rõ sau khi xả bỏ xác thân
này là sẽ không tiếp tục sinh thân khác. Các ngài biết rõ đường đi của Nhân
Quả. Các ngài đã đi với tâm vơ trụ, với tâm bất sinh và vì thế, theo lời của
đức Phật dạy, các Ngài đã không phạm lỗi và đã vào Niết Bàn.
Cụ thể trường hợp ngài Channa, Kinh Trung Bộ 14422 và kinh Tạp A Hàm
4723 kể rằng Tỳ kheo Channa bị thân bệnh đau đớn, khổ sở, bức bách, khó
chịu đựng nổi, nên muốn dùng dao tự sát. Được tin, Tôn giả Xá Lợi Phất
cùng Tôn giả Ma Ha Câu Hi La đến thăm và xét hỏi Phật Pháp. Sau khi chất
vấn về căn trần thức và vấn đề sanh tử, Tỳ kheo Channa, mặc dầu thân bệnh
đau đớn nhưng vẫn trả lời thông suốt những câu hỏi của hai Ngài và vẫn tỏ
ý muốn được kết liễu thân mạng. Sau đó Tỳ kheo Channa đã dùng dao tự kết
liễu đời mình. Hai vị Tôn gỉa Xá Lợi Phất và Ma Ha Câu Hi La khơng phản
- Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 1 Phẩm 3 Samyutta Nikàya, Phật Lịch 2537 – 1993
/>- Thích Đức Thắng, Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 39 (Kinh 1091) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-BạtĐà-La, Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ
/>20 -Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 Samyutta Nikàya, (Đoạn V) Phật Lịch 2537 – 1993
/>-Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ, Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 47 (Kinh
1265) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La, Nguồn
/>21 -Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya Tập 3 Kinh số 144 - Kinh Giáo giới Channa,
/>-Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 Samyutta Nikàya, (Đoạn VIII) - Phật Lịch 2537 – 1993
/>- Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ , Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 47 (Kinh
1266) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La, nguồn />22 Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya Tập 3 Kinh số 144 - Kinh Giáo giới Channa,
/>23 Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ , Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 47 (Kinh
1266) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La, nguồn />19
Nguyễn Thanh Hải
Trang 10/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
đối. Ngài Xá Lợi Phất bạch sự vụ lên Phật và được Ngài dạy rằng: “Như vậy,
Xá-lợi-phất, thiện nam tử bằng chánh trí mà chân chánh khéo giải thốt, thì
có nhà cung dưỡng, nhà thân hậu, nhà khéo nói năng. Này Xá-lợi-phất, Ta
khơng nói người kia có lỗi lớn. Nếu có người nào bỏ thân này để rồi tiếp tục
thân khác, Ta mới nói người đó có lỗi lớn. Nếu có người nào bỏ thân này rồi
khơng tiếp tục thân khác, Ta khơng nói người đó có lỗi lớn. Do khơng có lỗi
lớn, Xiển-đà đã dùng dao tự sát ở thôn Na-la trong rừng Am-la”.
Hoặc đoạn “Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tơi thấy sự diệt (nirodha),
chứng tri sự diệt trong mắt, trong nhãn thức và trong các pháp do mắt nhận
thức, mà tôi xem mắt, nhãn thức, và các pháp do mắt nhận thức là: “Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi”. Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tơi thấy sự diệt, chứng tri sự diệt
trong tai, trong nhĩ thức… trong mũi, trong tỷ thức… trong lưỡi, trong thiệt
thức… trong thân, trong thân thức… trong ý, trong ý thức và trong các pháp
do ý nhận thức mà tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: “Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tơi”. Từ đoạn này có thể hiểu rằng Ngài Channa đang hành minh sát trước
khi chết24. Còn việc Ngài đắc quả hay không được Đức Phật xác định “Này
Sariputta, cho đến nay, Ta khơng nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội. Này
Sariputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng người
ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa khơng có (chấp thủ) như vậy. Tỷ-kheo
Channa đem con dao lại (cho mình), khơng có phạm tội”, phận sự đã hoàn
thành, việc cần làm đã làm xong, nên Ngài tự rũ bỏ cái thân xác bệnh tật, đưa
đến khổ thân dữ dội thì như rũ bỏ một thân cây khơ héo. Cịn những ai cịn
Tương Ưng Bộ Kinh’(Samyutta Nikāya).IV.I.xi.8 , ‘Kinh liễu tri nội xứ’(Ajjhattik-Āyatana-PariJānana-Suttaṃ), Đức Phật giải thích tương tự cho sáu loại nội xứ cần được biết với ba loại thơng đạt trí .
24
Nguyễn Thanh Hải
Trang 11/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
phàm phu thì bất cứ tự sát bằng cách nào cũng là đều khơng nên, vì thân
người khó được, để còn phải thực hành thêm con đường giải thốt.
Hoặc đoạn “…Bạch Thế Tơn, Tơn giả Channa đã đem dao lại (cho mình),
sanh xứ của Tơn giả ấy là gì? Ðời sống tương lai là gì?
-Này Sariputta, có phải trước mặt Ơng, Tỷ-kheo Channa đã tun bố sự
khơng phạm tội?
-Bạch Thế Tơn, có một ngơi làng của dịng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là Pubbajira.
Tại đấy, có những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tơn giả Channa,
những gia đình cần được viếng thăm.
- Này Sariputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những
gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm...”. Từ
đây ta thấy sự tư bi vĩ đại của Đức Phật, nếu Ngài tuyên Tỳ kheo Channa có
tội thì gia đình, bạn bè, thân hữu và huynh đệ có tơn kính Ngài Channa
khơng? “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Và đặc biệt Hành Phạt ở Luật Tạng là để
dành cho vị Tỳ Khưu cịn sống, chớ khơng phải cho vị Tỳ Khưu đã chết,
“Đức Như Lai quy định điều học cho các đệ tử vì mười điều lợi ích: Nhằm
sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp
những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm
ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm trừ diệt các lậu hoặc trong
tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng
thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh
Pháp, (và) nhằm sự hỗ trợ Luật.”25
25
Tạng Luật-Tập Yếu- Lời Giải Thích Về Điều Lợi Ích Nguồn />
Nguyễn Thanh Hải
Trang 12/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
2. Ngài Channa có phạm giới sát sinh hay không?
Theo cuốn “Hành Giới – Silacara”26 của Ngài Hộ Pháp, người phạm điều
giới sát sinh hay không phạm điều giới sát sinh cần phải xét theo 5 chi pháp
phạm điều giới sát sinh.
1- Pāṇo: Chúng sinh có sinh mạng (chính mình).
2- Paṇasđitā: Biết rõ chúng sinh ấy có sinh mạng (chi pháp này ám chỉ
đến chúng sinh khác, không phải chính mình).
3- Vadhakacittaṃ: Tâm ác nghĩ sát hại chúng sinh ấy.
4- Payogo: Cố gắng sát hại chúng sinh ấy (cố gắng tự sát, tự giết mình).
5- Tena maraṇaṃ: Chúng sinh ấy chết do sự cố gắng (mình chết do sự cố
gắng của mình).
Xét trong 5 chi pháp phạm điều giới sát sinh này, chi pháp thứ nhì
“Paṇasđitā”: “Biết rõ chúng sinh ấy có sinh mạng” này ám chỉ đến chúng
sinh khác, khơng phải chính mình. Do đó, trong trường hợp người tự giết
mình (tự sát) thì thiếu chi pháp paṇasđitā này. Cho nên, người tự giết mình
(tự sát) khơng đủ 5 chi pháp phạm điều giới sát sinh. Như vậy, người tự sát
không phạm điều giới sát sinh. Trường hợp Tỳ khưu Channa dùng dao cắt
cổ tự sát,
“Khi Ngài Đại đức Channa đã tự mình cắt cổ chết, Ngài Đại đức Sāriputta
đến hầu Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Veḷuvana bạch hỏi về hậu quả kiếp sau
của Ngài Đại đức Channa như thế nào?
Đức Phật dạy:
HT. Hộ Tông; Nền Tảng Phật Giáo - Quyển III: Hành Giới; Nguồn:
m
26
Nguyễn Thanh Hải
Trang 13/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
“Tỳ khưu Channa đã chứng đắc Arahán Thánh Quả đồng thời tịch diệt Niết
Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài”27
Trước khi chết Ngài thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn28; khi đắc A-la-hán
Thánh Quả đồng thời tịch diệt Niết Bàn, gọi là bậc Thánh A-la-hán
Jīvitasamasīsi29.
Người tự sát khơng phạm điều giới sát sinh, bởi vì thiếu chi pháp thứ nhì
“pāṇasđitā”: Biết rõ chúng sinh có sinh mạng (nghĩa là chính mình biết rõ
chúng sinh khác có sinh mạng). Như vậy, chi pháp này khơng ám chỉ mình,
mà ám chỉ chúng sinh khác. Tuy người tự sát không phạm điều giới sát sinh,
nhưng nếu người tự sát do tâm sân chán đời, tuyệt vọng không muốn sống
trên đời này nữa, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp do tâm sân ấy cho quả,
thì khó có thể tránh khỏi tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ,
súc sinh)
3. Tạm kết
Theo giáo lý Phật giáo nói chung và giới luật Tỳ kheo nói riêng thì việc tự
sát là không phạm tội như phạm lỗi. Tự sát đi ngược lại giáo lý đức Phật,
Ngài tin chắc rằng ước vọng tự hủy diệt tiềm ẩn dưới hành vi tự sát tất yếu
cản trở người ấy đạt đến giải thốt, vì giải thốt tức là ly dục. Hơn nữa, tự
sát là bỏ mất một cơ hội may mắn vì tái sanh làm người thật hiếm có; và chỉ
lồi người mới có đầy đủ sức mạnh tinh thần và đạo đức để nhanh chóng
thành tựu giải thốt khổ đau. Một kiểu tự sát duy nhất có thể biện minh được
HT. Hộ Tông; Nền Tảng Phật Giáo - Quyển III: Hành Giới; Nguồn:
m
28 HT. Hộ Tông; Nền Tảng Phật Giáo - Quyển III: Hành Giới; Nguồn:
m
29 Arahán Thánh Quả đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài
27
Nguyễn Thanh Hải
Trang 14/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
là trường hợp một vị A-la-hán, người đã nhiếp phục tham, sân, si và sẽ khơng
cịn tái sanh, và vị ấy đang phải chịu đựng một căn bệnh nan y.
V.
Kết Luận
Tất cả mọi người sống trong cõi đời này đều không dưới một lần nếm trải
mùi vị của khổ đau. Và khơng ít người đã phải đối diện với những nỗi đau
khổ cùng cực, dường như khơng cịn lối thốt. Trong tình cảnh đó, một số
người đã tìm đến cái chết, xem như đấy là giải pháp duy nhất mà họ có thể
chọn để thốt khỏi tình cảnh đen tối trong hiện tại. Về phương diện khoa học
cũng như pháp luật tự sát khơng có tội, tuy nhiên hành động tự sát là một
hiện tượng lêch lạc xã hội thể hiện ở hai góc độ tiêu cực và tích cực. Thể
hiện tính yếu kém, thiếu ý trí đối với tự sát tiêu cực khơng có mục đích chính
đáng và là sự hy sinh cao cả để xã hội phát triển đối với tích cực. Giáo lý
Phật giáo cũng thế, Đức Phật phản đối những hành động tự sát đối với các
tăng sĩ tự sát vì sai phạm, mất phương hướng, chán ngán,… đi lệch giáo lý
Phật, làm tấm gương sấu cho tăng chúng và cũng không cho các Tỳ kheo
như Channa là khơng có tội, vì Ngài đã hiểu rõ lý do mình chết? tại sao phải
chết?
Tài liệu tham khảo
[1]. Bruce Gross, Forrensic Examiner, Summer, 2006
[2]. O'Connor, Rory; Sheehy, Noel (29 tháng 1 năm 2000). Understanding
suicidal behaviour. Leicester: BPS Books. tr. 33–37. ISBN 978-1-85433290-5.
[3]. Bertolote JM, Fleischmann A (tháng 10 năm 2002). “Suicide and psychiatric
diagnosis: a worldwide perspective”. World Psychiatry 1 (3): 181–5. ISSN
1723-8617. PMC 1489848. PMID 16946849
[4]. Antoon A. Leenaars (2004), Psychotherapy with suicidal people, John Wiley
& Sons, New Delhi, p.3.
Nguyễn Thanh Hải
Trang 15/16
Tiểu Luận: Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa
Tìm Hiểu Vấn Đề Tự Sát Trong Kinh Giáo Giới Channa (Kinh 144)
[5]. Shneidman, E. (1985), Definition of suicide, John Wiley & Sons, New York,
p.203.
[6]. H.W. Schumann (1982) - Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997);
Ðức
Phật
Lịch
Sử
(The
Historical
Buddha)
Nguồn
/>[7]. Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 1 Phẩm 3 Samyutta Nikàya,
Phật Lịch 2537 – 1993 />[8]. Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ, Kinh Tạp
A-Hàm, Quyển 39 (Kinh 1091) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-ĐàLa, />[9]. Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 Samyutta Nikàya, Phật Lịch
2537 – 1993 />[10]. Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ, Kinh Tạp
A-Hàm, Quyển 47 (Kinh 1265) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-ĐàLa, Nguồn />[11]. Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya Tập 3 Kinh số 144 Kinh Giáo giới Channa, />[12]. Thích Đức Thắng (dịch) - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ , Kinh Tạp
A-Hàm, Quyển 47 (Kinh 1266) Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-ĐàLa, nguồn />[13]. Tương Ưng Bộ Kinh’(Samyutta Nikāya).IV.I.xi.8 , ‘Kinh liễu tri nội
xứ’(Ajjhattik-Āyatana-Pari-Jānana-Suttaṃ),
[14]. Tạng Luật-Tập Yếu-
Lời
Giải
Thích Về
Điều Lợi
Ích
Nguồn
/>[15]. HT. Hộ Tơng; Nền Tảng Phật Giáo - Quyển III: Hành Giới; Nguồn:
/>
Nguyễn Thanh Hải
Trang 16/16