CHỦ ĐỀ: TÌNH HÌNH PHẠM TỘI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC
HIỆN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước ta, đặc biệt về phương diện kinh tế diễn
ra nhiều sự thay đổi định hướng xã hội chủ nghĩa theo sự quản lý và điều tiết của
nhà nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, đời sống con người
ngày càng một nâng cao. Nhất là giáo dục được cải cách và ngày một phát triển,
giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, trẻ em được quan tâm và chăm sóc
nhiều hơn, chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó sự thay đổi
nhanh chuyển biến nhiều mặt đã làm cho môi trường sống trở nên phức tạp hơn, và
đặc biệt nhất là vấn đề trẻ em vị thành niên phạm tội ngày càng nhiều. Người chưa
thành niên là lứa tuổi rất đặc biệt. Các em khơng cịn là trẻ con nhưng cũng chưa
phải là người lớn. Là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Là những mầm non, chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, trẻ em phải được
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục thành những con người có ích cho xã hội. Tuy nhiên,
ngày nay chúng ta đang đứng trước một thực tế rất đáng lo ngại, đó là sự phát triển
của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của trẻ, tình trạng trẻ em phạm tội ngày càng gia tăng và trở thành vấn đề
nhức nhối của toàn xã hội. Sự phạm tội của các em không chỉ gây ra những hậu
quả nghiêm trọng mà cịn hủy hoại cuộc đời của chính các em. Chính vì vậy,
chuyện các em phạm tội khơng chỉ là chuyện riêng của các em mà là chuyện của
chúng ta, khơng chỉ là chuyện của từng gia đình mà là chuyện của toàn xã hội. Ý
thức được vận mệnh của nhân loại trong tương lai và để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ
trở thành những con người có ích cho xã hội, Liên Hợp Quốc đã tổ chức nhiều hội
nghị toàn thế giới với mục đích tìm ra giải pháp hữu hiệu cho cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm do người chưa thành niên gây ra, mà kết quả của nó
là sự ra đời của nhiều văn bản có giá trị pháp lý tồn cầu. Ở nước ta, việc chăm
sóc, bảo vệ, giáo dục người chưa thành niên được coi là một chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước và được quan tâm hàng đầu. Việt Nam là nước đầu tiên của
Châu Á và là nước thứ hai trên tồn Thế giới tham gia Cơng ước về quyền trẻ em.
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước được ban hành, quy định các vấn đề
liên quan đến trẻ em, như: Hiến pháp năm 1992, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em,
Luật giáo dục. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các chính sách này, bên cạnh
những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại rất nhiều vướng mắc, tình trạng người
chưa thành niên phạm tội vẫn còn đang tiếp diễn. Trong những năm gần đây, trên
địa bàn cả nước số người chưa thành niên phạm tội đang có xu hướng gia tăng
mạnh mẽ và hành vi phạm tội ngày càng tinh xảo. Tình trạng phạm tội ở người
chưa thành niên không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến đời
sống, trật tự an tồn xã hội mà cịn gây nên sự hoang mang trong nhiều bậc phụ
huynh và dư luận xã hội.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần giáo dục ý thức pháp luật, tăng cường tinh thần đấu tranh phòng
chống người chưa thành niên phạm tội trong toàn xã hội.
- Hạn chế những điều kiện phạm tội, tìm ra những giải pháp để ngăn chặn tình
trạng người chưa thành niên phạm tội.
3.
Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: người chưa thành niên phạm tội
4.
Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
thanh niên.
- Phương pháp nghiên cứu đề tài: dựa trên cơ sở phương pháp luận biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh
5.
Bố cục đề tài
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
1.1.
Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở
mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Theo cách gọi
thông thường một chu kỳ sống của con người thường được chia thành nhiều giai
đoạn khác nhau: trẻ em, nhi đồng , thiếu niên, trung niên, cao niên... còn theo cách
gọi của thuật ngữ pháp lý thì được chia thành các tên gọi: trẻ em, người chưa thành
niên và thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định
tuổi thành niên sớm hơn”.
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hiệp Quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp
luật xác định và Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi,
người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là
người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người
chưa thành niên và thanh niên không được tước quyền tự do của người chưa thành
niên" (Quy tắc 2.1 mục a). Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác
định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản
pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh
vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo
Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi”. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng
dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể
hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi,
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.Về mặt nguyên tắc, mọi
người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt nam, nữ, dân tộc,
tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Tuy nhiên, đối với trường hợp
người phạm tội là người chưa thành niên, Nhà nước có chính sách xử lý riêng, căn
cứ vào đặc điểm đặc thù của sự phát triển tâm sinh lý con người ở độ tuổi này cũng
như đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Một
người chỉ được coi là người chưa thành niên phạm tội khi họ thỏa mãn các điều
kiện dưới đây:
+ Họ là người chưa thành niên;
+ Đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
+ Đã thực hiện hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên phạm tội là người dưới 18 tuổi, đã thực hiện
hành vi phạm tội, thỏa mãn các điều kiện chủ thể của tội phạm, tức là họ phải có
năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc từ đủ 16 tuổi trở lên đối với
mọi tội phạm. Nói cách khác, người chưa thành niên phạm tội là người phạm tội
trong độ tuổi từ khoảng trên 14 hoặc 16 tuổi (tùy từng trường hợp tội phạm thực
hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng) và dưới 18 tuổi. Điều 68 Bộ luật hình sự quy định: “Người chưa thành niên
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này”. Như thế, theo tinh thần của điều
luật nêu trên, quan điểm chính thức của Nhà nước ta khẳng định: “Người chưa
thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi, có năng lực
trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi mà Nhà nước quy định là tội phạm.
Người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự, dưới 14 tuổi trong trường hợp tội
phạm thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc
dưới 16 tuổi, trong trường hợp tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng hay tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô
ý khơng phải chịu trách nhiệm hình sự bởi họ chưa hoặc không đủ điều kiện chủ
thể của tội phạm.
Như vậy theo tơi người chưa thành niên phạm tội có đặc điểm sau:
+ Độ tuổi từ đủ 14 đến 18 tuổi.
+ Có năng lực hành vi hình sự chưa đầy đủ.
+ Thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Hành vi mà người chưa thành niên phạm tội bị pháp luật hình sự cấm.
+ Có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó.
+ Do Tịa án tun.
+ Bản án có hiệu lực pháp luật.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra khái niệm người chưa thành niên phạm
tội là người từ đủ 14 tuổi đến 18 tuổi, có năng hành vi hình sự chưa đầy đủ, có lỗi
cố ý hoặc vô ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật
hình sự cấm và được xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội
Trong những năm gần đây, nhà nước đã liên tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào chương trình giảng dạy của
nhà trường đã góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho các em, tuy nhiên
tình trạng này cũng không ngừng tăng lên, loại tội phạm rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng mà các em vi phạm cũng ngày một nhiều hơn, hành vi phạm tội
cũng ngày một tinh vi hơn. Việc xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan
dẫn đến tình trạng này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển bình
thường và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em, với những khiếm khuyết về
tâm sinh lý của một người đang phát triển và những tác động tiêu cực từ gia đình,
nhà trường và xã hội đã dẫn các em đến với những chọn lựa sai lầm, không phù
hợp với quy tắc xã hội và quy định của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật có chính
sách xử lý dành riêng cho người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên
phạm tội, do có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm nên họ vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm đã gây ra. Tuy nhiên, do sự hạn chế về khả năng nhận
thức và khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội ở lứa tuổi này, Nhà nước
ta xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với họ nhằm uốn nắn lại sự lệch lạc
trong sự phát triển nhân cách, đồng thời tạo điều kiện cho họ tái hoàn lương, sớm
hịa nhập với cuộc sống bình thường của đời sống xã hội. Chính sách hình sự đặc
biệt khoan giảm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người
chưa thành niên phạm tội thể hiện ở nguyên tắc xử lý, ở các hình phạt và biện pháp
tư pháp thay thế hình phạt áp dụng đối với họ.
1.2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, Bộ luật Hình sự dành
riêng một chương (Chương X) quy định về chính sách xử lý người chưa thành niên
phạm tội, chính sách này được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc thù của người chưa
thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo
dục, qua đó giúp các em nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp.
Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là những quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo, mang tính chất định hướng trong việc giải quyết vấn đề trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam,
các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được luật hóa tại Điều 69 Bộ
luật hình sự hiện hành. Điều 69 Bộ luật hình sự quy định 6 nguyên tắc cơ bản dưới
đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
cơng dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi
phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác
định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Nguyên tắc nêu trên phản ánh
mục đích và yêu cầu của việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người
chưa thành niên phạm tội. Việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội trước
hết và chủ yếu nhằm: Giáo dục, làm cho người phạm tội nhận thức được những sai
lầm mà họ đã mắc phải. Mục đích trừng trị, răn đe nhìn chung khơng đặt ra khi áp
dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với loại đối tượng này. Giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Do
người chưa thành niên phạm tội là người đang trong giai đoạn phát triển nhân cách
nên mục đích này phải ln được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Muốn đạt được
những mục đích cơ bản trên, luật địi hỏi các cơ quan có thẩm tội phạm mà người
chưa thành niên đã thực hiện mà còn phải xác định nguyên nhân nào đã thúc đẩy
họ thực hiện hành vi phạm tội đó và mức độ nhận thức cụ thể của họ đối với tội
phạm đã gây ra ra sao.
Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách
nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng, gây hại khơng lớn cho xã hội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được
gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Quy định của khoản 2
Điều 69 Bộ luật hình sự, như thế, đã bổ sung vào danh mục các trường hợp được
miễn trách nhiệm hình sự một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự mới là miễn
trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội với những điều kiện nhất
định. Các điều kiện đó là: Người được miễn trách nhiệm hình sự phải là người
chưa thành niên tại thời điểm thực hiện tội phạm. Tội phạm mà họ thực hiện là tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. Hậu quả của tội phạm khơng
lớn. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về
nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Cùng với nguyên tắc thứ nhất,
nguyên tắc thứ ba đặt yêu cầu và giới hạn phạm vi những trường hợp cần truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Pháp luật Việt Nam
không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi trường hợp người chưa
thành niên phạm tội mà chỉ tiến hành việc làm này trong những trường hợp “cần
thiết”. Sự “cần thiết” hay “không cần thiết” ở đây xác định dựa trên cơ sở căn cứ
vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu hành vi
phạm tội của người chưa thành niên có tính chất khơng lớn thì khơng cần thiết phải
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Đặc điểm nhân thân người chưa thành
niên phạm tội. Nếu người chưa thành niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì
cần thiết phải cân nhắc việc có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay khơng.
u cầu cụ thể của việc phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa thành
niên phạm tội và đối với người khác trong xã hội.
Nguyên tắc thứ tư, khi xét xử, nếu thấy khơng cần thiết phải áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tịa án áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự. Những biện pháp tư
pháp này gồm có giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng.
Đây là những biện pháp dược Tịa án áp dụng thay thế hình phạt để giáo dục, giúp
đỡ người chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp có căn cứ do pháp luật
quy định.
Nguyên tắc thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người
chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đã thành niên phạm tội tương ứng. Khơng áp dụng hình phạt tiền đối với
người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khơng áp
dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Nguyên tắc thứ
năm giới hạn các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong
trường hợp cần thiết, vẫn có thể phải áp dụng một trong các loại hình phạt: cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ và tù có thời hạn cho loại đối tượng này với
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng cho người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Luật cũng xác định rõ, khơng áp dụng các loại hình phạt bổ sung và các loại hình
phạt đặc biệt nghiêm khắc như tù chung thân và tử hình đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Nguyên tắc thứ sáu, án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi
chưa đủ 16 tuổi, thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Với
nguyên tắc nêu trên, luật hình sự Việt Nam khẳng định vẫn có án tích đối với người
chưa thành niên phạm tội trong trường hợp biện pháp xử lý đối với họ là hình phạt.
Tuy nhiên, phạm tội mới trong thời gian mang án tích khơng phải là căn cứ để xác
định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi.
Các biện pháp tư pháp và hình phạt dành cho người chưa thành niên phạm tội.
Cùng với hình phạt, biện pháp tư pháp là một trong những hình thức biểu hiện cụ
thể của trách nhiệm hình sự. Các biện pháp tư pháp được chia thành hai nhóm là
biện pháp tư pháp bổ sung cho hình phạt và biện pháp tư pháp thay thế hình phạt.
Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội quy định
tại Điều 70 Bộ luật hình sự là các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt. Theo Điều
70 Bộ luật hình sự hiện hành, có hai loại biện pháp chỉ áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội dưới đây:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
- Đưa vào trường giáo dưỡng
Cả hai biện pháp tư pháp nói trên có những điểm chung như sau:
Thứ nhất, đều là các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt áp dụng cho đối tượng là
người chưa thành niên phạm tội. Mục đích áp dụng, theo tinh thần Điều 70 Bộ luật
hình sự, là nhằm giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Thứ hai, đều
do Tòa án quyết định áp dụng trong giai đoạn xét xử. Đều không để lại hậu quả
pháp lý là án tích cho người bị áp dụng. Nội dung, căn cứ áp dụng từng biện pháp
được quy định trong Điều 70 Bộ luật hình sự, Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 và Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ. Biện
pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn Điều 1 Nghị định số 59/2000/NĐ-CP
của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với người chưa thành niên phạm tội ngày 30/10/2000 định nghĩa về biện pháp
tư pháp này như sau:
“Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Tòa án quyết định áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội nhằm tạo điều kiện cho người đó lao động, học tập
tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình trong mơi trường xã hội bình
thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ
chức xã hội và gia đình”. Điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, theo quy định của khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự bao gồm: Đối tượng áp
dụng: là người chưa thành niên phạm tội. Tội phạm mà họ thực hiện là tội ít
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trong.
Với những điều kiện như trên, thực chất chỉ những người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi mới được áp dụng biện pháp này bởi lẽ những người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi nếu thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng sẽ
không phải chịu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự do
luật định. Việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn được thực hiện theo cơ chế phối
hợp giữa Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người chưa thành niên phạm tội
(hoặc tổ chức xã hội) được giao giám sát, giáo dục, người được giao trách nhiệm
trực tiếp giám sát, giáo dục và gia đình người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng
biện pháp này. Người được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục phải lập
hồ sơ theo dõi và khi kết thúc thời gian chấp hành biện pháp giáo dục, phải bàn
giao lại hồ sơ đó cho Ủy ban xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao
giám sát, giáo dục. Thời gian giám sát, giáo dục, theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật
hình sự, là từ một đến hai năm.Trong khoảng thời gian này, “người được giáo dục
tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao
động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường,
thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm” (khoản 2 Điều 70 Bộ luật
hình sự). Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng Điều 1 Nghị định số
52/2001/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào
trường giáo dưỡng ngày 23/8/2001 định nghĩa: “Biện pháp tư pháp đưa vào trường
giáo dưỡng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS, là
biện pháp do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy khơng cần thiết phải áp dụng hình phạt
đối với họ, nhưng do tính chất của hành vi phạm tội, do nhân thân và mơi trường
sống của người đó mà cần phải đưa người đó vào trường giáo dưỡng”. Điều kiện
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là: Về đối tượng áp dụng: áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, khơng kể về tơi gì, có độ tuổi từ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi. Đối với người nói trên, Tịa án xét thấy khơng cần thiết phải áp
dụng hình phạt (gồm cả hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và
phạt tù có thời hạn) đối với họ. Tuy khơng cần thiết phải áp dụng hình phạt nhưng
lại rất cần thiết đưa họ vào một môi trường giáo dục tập trung là trường giáo
dưỡng. Cơ sở để Tòa án quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
mà không áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là căn cứ vào:
+ Tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
+ Nhân thân người chưa thành niên phạm tội.
+ Mơi trường sống của người đó khơng tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ
quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, văn hóa, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp và
tổ chức lao động cho học sinh phù hợp với lứa tuổi, nhằm giúp đỡ họ học tập, rèn
luyện tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành người
lương thiện, có ích cho xã hội, có khả năng hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành
xong biện pháp giáo dưỡng. Về mặt thủ tục, ngay sau khi nhận được quyết định thi
hành biện pháp giáo dưỡng của Tịa án, cơ quan Cơng an cùng cấp có trách nhiệm
triển khai kế hoạch phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan, chính quyền địa
phương và gia đình người phải chấp hành biện pháp giáo dưỡng để quản lý, giám
sát họ chặt chẽ, đồng thời tổ chức thi hành quyết định của Tòa án. Người trực tiếp
nhận người được đưa vào trường giáo dưỡng phải kiểm tra hồ sơ, căn cước và lập
biên bản giao nhận. Hồ sơ đưa người vào trường giáo dưỡng gồm: Lý lịch cá nhân;
Danh bản, chỉ bản; Phiếu khám sức khỏe; Quyết định thi hành biện pháp giáo
dưỡng của Tòa án; Văn bản của cơ quan Cơng an có thẩm quyền chỉ định trường
giáo dưỡng có trách nhiệm thi hành quyết định của Tịa án; Các tài liệu có liên
quan đến nhân thân người được đưa vào trường giáo dưỡng. Người chấp hành biện
pháp giáo dưỡng được gọi là học sinh trường giáo dưỡng. Học sinh trường giáo
dưỡng phải chịu sự giám sát, quản lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ,
giáo viên nhà trường và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường. Căn cứ
vào độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, tính chất và mức độ phạm tội, trường bố trí
học sinh thành các đội, lớp. Mỗi đội, lớp phải có cán bộ, giáo viên của nhà trường
trực tiếp phụ trách. Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng là từ một năm đến hai
năm. Chậm nhất là 15 ngày trước khi học sinh trường giáo dưỡng hết thời hạn chấp
hành biện pháp giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách nhiệm thơng
báo cho Tịa án đã ra quyết định thi hành biện pháp giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và gia đình họ biết ngày ra trường. Người
chưa thành niên phạm tội sau khi hết thời hạn học tập ở trường giáo dưỡng được
cấp giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng. Hình phạt áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội Bộ luật Hình sự quy định 4 loại hình phạt
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm: cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Trong đó cảnh cáo là hình phạt nhẹ
nhất, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết
giảm nhẹ chưa đến mức miễn hình phạt theo quy định của pháp luật. Phạt tiền lần
đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và được coi là hình phạt
chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu
người đó có tài sản hoặc thu nhập riêng, mức phạt tiền được áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy
định. Cải tạo khơng giam giữ là hình phạt mang tính nghiêm khắc hơn so với hình
phạt tiền, khi áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội thì
khơng khấu trừ thu nhập của họ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người
chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Trường hợp áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm
tội, Điều 74 Bộ luật hình sự quy định: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là
tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức
phạt tù mà điều luật quy định.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy
định. Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, phải tuyên hình
phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp thành hình phạt chung. Trường hợp có tội
thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp
hình phạt thực hiện theo phương pháp sau đây: Nếu tội nặng nhất được thực hiện
khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung khơng được vượt q mức hình
phạt cao nhất quy định trong Điều 74 Bộ luật hình sự nêu trên. Nếu tội nặng nhất
được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối
với người đã thành niên phạm tội. Giảm mức hình phạt và xóa án tích. Chính sách
giảm mức hình phạt đã tuyên được áp dụng cả đối với người chưa thành niên phạm
tội và người đã thành niên phạm tội, tuy nhiên đối với người chưa thành niên phạm
tội thì chính sách này có nhiều ưu ái hơn nhằm động viên các em thi hành án tốt và
tạo điều kiện để các em sớm được trở lại với cuộc sống bình thường. Điều 76 Bộ
luật hình sự quy định người chưa thành niên bị phạt cải tạo khơng giam giữ hoặc
phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được
Tịa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm
nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phần năm mức hình phạt đã tun,
trong trường hợp có lập cơng hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay
và có thể được xem xét để miễn chấp hành hình phạt cịn lại. Đối với trường hợp bị
phạt tiền thì Tịa án cũng có thể giảm hoặc miễn chấp hành phần phạt tiền còn lại
nếu các em bị lâm vào hồn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai,
hỏa hoạn, ốm đau hoặc có lập cơng lớn. Xố án tích là thủ tục cuối cùng của quá
trình tố tụng, được áp dụng đối với những người đã thi hành án xong, thời hạn để
được xóa án tích được coi như thời gian thử thách và người được xóa án tích coi
như chưa bị kết án. Thời hạn để được xóa án tích đối với người chưa thành niên là
một phần hai thời hạn áp dụng đối với người đã thành niên (nữa năm trong trường
hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được
hưởng án treo; một năm rưỡi trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm; hai năm
rưỡi trong trường hợp hình phạt tù là từ trên ba năm đến mười lăm năm; ba năm
rưỡi trong trường hợp hình phạt tù từ trên mười lăm năm). Trong trường hợp áp
dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo
dưỡng đối với người chưa thành niên phạm tội thì khơng bị coi là có án tích.
1.2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội
Thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm nói chung và người chưa thành niên
phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài
những thủ tục chung của Bộ luật Tố tụng hình sự thì cũng như Bộ luật Hình sự, Bộ
luật Tố tụng hình sự giành riêng một chương quy định về tố tụng hình sự và chính
sách xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII). Trong
đó quy định rõ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với
người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm
lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm
của người chưa thành niên. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành
niên phạm tội phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và
tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều
kiện sinh sống và giáo dục; có hay khơng có người thành niên xúi giục; ngun
nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của
người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách
quan tác động đến hành vi phạm tội của các em. Thực tiễn đã chứng minh rằng đa
số các em phạm tội đều bị sự tác động từ phía gia đình và xã hội, trong đó bao gồm
cả các em có hồn cảnh đặc biệt như kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ ly hơn, gia
đình khơng n ấm hoặc có người hư hỏng, phạm tội, bố mẹ không coi trọng việc
giáo dục con cái, trình độ văn hóa của các em q thấp, các em khơng có cơng ăn
việc làm…tình trạng các em bị người thành niên (như bố, mẹ, anh, chị) xúi giục
phạm tội cũng chiếm một số lượng khơng nhỏ. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu
biết tâm sinh lý của người chưa thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, cũng như các yếu tố liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn đến
việc thực hiện hành vi phạm tội của các em là cần thiết. Về bắt, tạm giữ, tạm giam
người chưa thành niên phạm tội. Để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, cũng như
để phục vụ cho quá trình tố tụng hình sự, pháp luật quy định trong một số trường
hợp người, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng các biện
pháp này ngoài điều kiện về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và loại tội phạm cịn
phải đảm bảo đủ các căn cứ nêu tại các Điều 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật Tố
tụng hình sự, đó là các điều kiện về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, thời hạn tạm
giam để điều tra. Về thi hành án phạt tù, theo quy định thì khơng được áp dụng chế
độ giam giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên mà họ phải
được giam giữ riêng, các chế độ đối với người chưa thành niên cũng được ưu ái
hơn, pháp luật quy định về chế độ học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để giúp các
em bổ túc trình độ văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra trường các em có
một nghề ổn định, điều này cũng có ý nghĩa trong cơng tác phịng chống tội phạm
ở tuổi vị thành niên.
1.3.
Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội trong luật Hình sự Việt Nam
Từ những nghiên cứu về khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội và đặc điểm của nó, chúng ta nhận thấy việc quy định các nguyên tắc
xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam có những ý
nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức và thực tiễn to lớn:
Thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội thể hiện sự minh chứng rõ ràng pháp luật Hình sự Việt Nam được xây dựng trên
triết lý, tư tưởng nhân đạo của dân tộc có sự kế thừa nền tảng các tư tưởng pháp lý
tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Nó thể hiện ngun tắc cơng bằng, nhân đạo
nhằm mục đích giáo dục và cho người chưa thành niên có cơ hội sửa chữa sai lầm.
Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
dựa trên những cơ sở khoa học - thực tiễn khách quan, phải có căn cứ và đảm bảo
sự thuyết phục chính là điều kiện chủ yếu và cần thiết vì nếu như thiếu nó thì việc
đấu tranh, phịng ngừa với loại tội phạm người chưa thành niên sẽ không thành
công. Bởi vậy nó là kim chỉ, là sợi chỉ xuyên suốt cho cơ quan tiến hành tố tụng
căn cứ vào đó để có cách giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội một
cách cơng minh, có căn cứ.
Thứ ba, xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xã hội nói chung,
thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta. Trải qua hơn hai thập kỷ
kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được ban hành
(Bộ luật hình sự năm 1985), Nhà nước ta đã tiến hành pháp điển hóa lần hai Bộ
luật hình sự với việc hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, phù hợp với các quan hệ xã hội.
Như vậy, với tất cả những lý lẽ phân tích ở trên khơng chỉ nói lên vai trị
quan trọng của các nguyên tắc xử lý hình sự về người chưa thành niên phạm tội
trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên mà còn là luận
chứng cho việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp xử lý tình hình phạm tội trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẤN ĐỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Tình hình người chưa thành niên phạm tội trên cả nước
2.1.1. Những con số “biết nói và biết khóc” về các vụ phạm tội ở người chưa thành
niên trong những năm gần đây
Những năm gần đây, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta
có chiều hướng gia tăng cả về quy mơ và tính chất với xu hướng chung là năm sau
số vụ và số người phạm tội cao hơn năm trước gây nên sự quan tâm, lo lắng đặc
biệt trong dư luận xã hội.
Theo báo cáo được đưa ra tại hội nghị góp ý cho “ Dự án hỗ trợ người chưa
thành niên vi phạm pháp luật giai đoạn 2013 - 2016 do sở Lao động, Thương binh
và Xã hội Tp. Hồ Chí Minh phối hợp với quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc tổ chức
ngày 16/4/2013 vừa qua cho biết, địa phương có số vụ phạm tội do người chưa
thành niên thực hiện trong những năm này nhiều nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh: riêng
tại đây, năm 2012 cũng đã xảy ra hơn 5000 vụ phạm pháp hình sự, bắt 4.679 đối
tượng (chiếm 26,13%), trong đó, người chưa thành niên là 1.223 đối tượng, tăng
11,8 % so với 2011. Tiếp đó là Đồng Nai ( hơn 2.200 vụ ), Khánh Hòa, Đắc Lắc và
Hà Nội. Một số địa phương khác cũng công bố những con số đáng quan tâm: tại
tỉnh Trà Vinh, tổng kết của công an tỉnh cũng nhận định số vụ phạm tội do người
chưa thành niên gây ra cũng nhiều có chiều hướng gia tăng: năm 2010, toàn tỉnh
chỉ xảy ra 15 vụ phạm tội do người chưa thành niên gây ra, năm 2011 xảy ra 22 vụ
và riêng 6 tháng đầu năm 2012 đã xảy ra tới 29 vụ.
Tình hình người chưa thành niên tụ tập thành nhóm hoạt động phạm tội, vi
phạm pháp luật tập trung chủ yếu ở hành vi trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích
và các hành vi liên quan đến ma túy (chiếm trên 60% tổng số vụ), nhiều vụ việc sử
dụng hung khí để thanh tốn lẫn nhau, gây mất an ninh trật tự (Công an tỉnh Đắk
Lắk phối hợp với các lực lượng liên quan ngăn chặn vụ đánh nhau giữa hai nhóm
thanh niên và bắt giữ 29 đối tượng, thu giữ nhiều hung khí (dao, mã tấu, gậy gỗ…),
phần lớn thành viên hai nhóm trên là học sinh của 02 trường THPT Buôn Ma
Thuột và THPT Chu Văn An (TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk); Công an tỉnh
Quảng Ngãi đã tiến hành kiểm tra, phát hiện hơn 50 đối tượng (trong đó có gần 40
người là thanh thiếu niên thuộc huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) sử dụng chất gây
nghiện (ma túy tổng hợp, thuốc lắc, ketamin… và dụng cụ sử dụng ma túy) tại một
quán karaoke trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi; Công an TP. Hồ Chí Minh tổ
chức điều tra, truy xét nhóm thanh thiếu niên thông qua mạng xã hội để kêu gọi, tụ
tập, lơi kéo nhau sử dụng hung khí giải quyết mâu thuẫn tại một quán ăn trên địa
bàn thành phố, qua điều tra, xác minh, cơ quan chức năng xác định có hơn 100 đối
tượng (trong đó có khoảng 30 đối tượng có độ tuổi dưới 14 và dưới 16) tham gia
vụ việc trên; Công an TP. Đà Nẵng khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi cố ý
gây thương tích đối với 14 thanh thiếu niên (độ tuổi từ 16 đến 19 tuổi, cùng trú tại
Phường Hòa An), các đối tượng do mâu thuẫn trên mạng xã hội nên đã tụ tập và sử
dụng hung khí chém một thanh niên bị thương tích nặng).
Các đối tượng tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (chiếm
trên 70%), đa phần sinh sống trong các gia đình chưa hồn thiện, học sinh cá biệt,
hư hỏng, nghiện game hoặc bỏ học, giao du với các đối tượng xấu có tiền án, tiền
sự hoặc bị lơi kéo sử dụng trái phép chất ma túy. Gần đây nổi lên việc sử dụng
mạng xã hội để hẹn nhau, lơi kéo tụ tập thành nhóm (cá biệt có vụ đến hàng trăm
đối tượng) sử dụng hung khí để giải quyết mâu thuẫn gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng ảnh hưởng đến an ninh trật tự.
(Báo cáo số 1159/BC- BCNDA4, ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Ban Chủ
nhiệm Dự án 4 “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa
thành niên vi phạm pháp luật và phòng chống bạo lực gia đình, mua bán người”
giai đoạn 2018 – 2020)
Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy những năm gần đây, số vụ và số
lượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều hướng ngày
càng gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều hướng
ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình
sự do người chưa thành niên thực hiện ngày càng nghiêm trọng. Những con số
“biết nói và biết khóc” nêu trên đã gióng lên một hồi chng báo động khẩn cấp
tồn xã hội.
2.1.2. Về giới tính và độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội
Trong số người chưa thành niên vi phạm pháp luật, đáng chú ý là tỷ lệ nam
giới chiếm gần 96,4% trong khi nữ giới chỉ chiếm hơn 3,6%. Theo dõi những vụ
cướp giật, trộm cắp gần đây do người chưa thành niên gây ra, người nghiên cứu
thêm quan ngại về tình trạng ngày càng trẻ hóa độ tuổi phạm tội.
Bảng số liệu người chưa thành niên vi phạm pháp luật theo giới tính
(2006-2018)
Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình
hình tội phạm do người chưa thành niên (chưa đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) gây ra
có chiều hướng gia tăng mạnh. Đối tượng ở độ tuổi này hiện đang chiếm tỷ lệ cao
nhất 61,1%, tập trung nhiều nhất ở bậc trung học cơ sở (chiếm 41,8%); kế đến là từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32%; trẻ em từ dưới 14 tuổi vi phạm
pháp luật chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành
niên thực hiện.
2.1.3. Về cơ cấu các loại tội phạm ở người chưa thành niên
Tội phạm chưa thành niên hiện nay thể hiện rất phức tạp, có mặt ở nhiều loại
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, và có tới hơn 65% vụ phạm
pháp của người chưa thành niên trong những năm vừa qua có sử dụng vũ khí hoặc
hung khí. Nếu như những năm 2000 trở về trước, người chưa thành niên thường
thực hiện các hành vi trộm cắp, gây rối trật tự cơng cộng, cố ý gây thương tích
khơng gây nguy hại lớn, thì những năm gần đây, tính chất, mức độ của tội phạm lại
nguy hiểm hơn, vượt quá giới hạn của độ tuổi người chưa thành niên như: hình
thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ. Đặc biệt nhiều
người chưa thành niên thực hiện tội phạm với phương thức, thủ đoạn hết sức nguy
hiểm, tinh vi, nhiều vụ rất dã man và mất hết tình người như: giết người, giết người
thân (con giết cha mẹ, cháu giết ông bà),... Theo thống kê mới nhất của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi
vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các
nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh
dự con người, một số tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng. Trong
những vụ án được đưa ra xét xử, có nhiều vụ án thể hiện người phạm tội manh
động, liều lĩnh, cố tình phạm tội đến cùng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm
chấn động dư luận như vụ Lê Văn Luyện, sinh năm 1993 ở Bắc Giang, phạm tội
cướp tiệm vàng và giết người khi chưa đầy 18 tuổi; hoặc vụ Đào Thị Thu Hương
(tức My sói), sinh năm 1996 ở Hà Nội cùng đồng bọn phạm tội hiếp dâm trẻ em và
cướp tài sản cũng đã gây nhiều quan ngại trong cộng đồng dân cư thủ đơ.
Có thể tổng hợp một số loại tội phạm chính của người chưa thành niên như
sau:
1) Tội danh gây mất trật tự xã hội như: trộm cắp tài sản, chiếm 38% số vụ vi
phạm.
2) Tội danh ẩu đả cố ý gây thương tích, chiếm 11% số vụ vi phạm;
3) Nghiêm trọng nhất là tội giết người, cướp của, chiếm 1,4% trong tổng số
vụ vi phạm.
Sự gia tăng về số lượng, mức độ vi phạm pháp luật của người chưa thành
niên có sự khác nhau giữa các địa phương, theo đó, tỷ lệ tăng nhiều nhất chủ yếu
tập trung ở các thành phố lớn. Theo cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh cho biết,
kết quả xét xử và thụ lý các vụ án hình sự từ ngày 1/1/2010 đến ngày 28/2/2011 là
54 vụ, trong đó có 11 vụ án do đối tượng là người chưa thành niên phạm tội. Đặc
biệt trong năm 2012, tội phạm vị thành niên diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp
như các tội xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm sở hữu tài sản như trộm
cắp, cướp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản là 67/116 vụ, chiếm 58%. Số liệu thống kê
của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm tỉnh Tiền Giang cũng cho thấy: trong giai
đoạn từ 2007 - 2010, trên địa bàn tỉnh xảy ra tổng số 444 vụ vi phạm pháp luật do
574 đối tượng người chưa thành niên gây ra. Trong đó có những vụ việc nghiêm
trọng như: 16 vụ giết người, 38 vụ cướp giật tài sản, hơn 100 vụ cố ý gây thương
tích,... Đây là những rào cản đáng kể cho việc đảm bảo an ninh con người nhằm
tiến tới đạt được các mục tiêu phát triển con người ở nước ta trong những năm tới.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng đột biến tỉ lệ người chưa thành niên phạm tội
2.2.1. Người chưa thành niên – giai đoạn phát triển khá đặc biệt của con
người nhưng ít được cha mẹ và cộng đồng quan tâm đúng mức
Thứ nhất, người chưa thành niên thuộc nhóm xã hội mang lứa tuổi đặc thù
với những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi đáng quan tâm. Bởi họ ở giai đoạn chuyển
giao từ trẻ em lên người lớn - đây là một giai đoạn phát triển đặc biệt trong cuộc
đời mỗi con người. Từ tiếp cận văn hóa và tâm lý giáo dục cho thấy, người chưa
thành niên ln có xu hướng muốn được khẳng định sự trưởng thành của mình. Họ
thích làm những việc mà người lớn thường làm, trong nhiều trường hợp là để
khẳng định mình đã làm được những việc “mạo hiểm, oanh liệt” như người lớn. Vì
thế, người chưa thành niên thường dễ dàng thực hiện những “hành vi bất thường và
phi thường”, thể hiện trong cả việc vi phạm pháp luật. Cũng có khi họ làm ngược
lại ý kiến của người lớn như một cách để “phản ứng” với người lớn và chứng tỏ sự
độc lập của bản thân. Từ đó, trẻ chưa thành niên dễ nảy sinh một số hành vi như
chống đối, nói dối, hoặc thiếu tự tin, tránh giao tiếp, hoặc thiếu hịa nhập,... Nếu
khơng được gia đình quan tâm, kịp thời điều chỉnh các hành vi trên sẽ tiến triển
theo hướng lệch lạc, dẫn đến rối loạn hành vi như: bỏ nhà, trốn học, đi lang thang,
tụ tập băng nhóm, hay trầm cảm,... Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có tới hơn
40% những người chưa thành niên phạm tội là những người bỏ nhà đi lang thang,
sống tự do, khơng có người kiểm sốt lỗi vi phạm pháp luật,...
Thứ hai, ở địa bàn các thành phố, nơi thường có số lượng người chưa thành
niên phạm tội gia tăng cho thấy, với những điều kiện dinh dưỡng như hiện nay, trẻ
em phát triển rất tốt về thể chất, các em thường cao lớn về mặt thể xác nhưng lại
chưa trưởng thành, hoàn thiện về mặt định hướng tâm lý và non nớt về sức khỏe
tinh thần. Từ đó xuất hiện những mâu thuẫn về tâm sinh lý ngay trong nội tại con
người của trẻ chưa thành niên. Nhiều khi các em thấy không gian quanh mình trở
nên chật hẹp, nhàm chán, cảm thấy bức bối và có xu hướng muốn vươn ra khơng
gian rộng lớn, chúng dễ bị hấp dẫn và thích thú với những điều mới lạ. Khi không
thực hiện được, người chưa thành niên có thể sẽ dễ dàng phá phách, hoặc ngược lại
là trầm cảm, tự kỷ và tiêu cực.
Thứ ba, với tâm lý còn non nớt, thiếu ổn định, xốc nổi, nhưng lại thích độc
lập và thích khẳng định mình, người chưa thành niên có xu hướng dễ chấp nhận
thái độ sống không đúng đắn và những hành vi thiếu chuẩn mực với lối sống lành
mạnh. Khi người chưa thành niên chưa ý thức được về vai trò của bản thân cũng
như ý nghĩa cuộc sống của chính mình, dẫn đến tình trạng từ chỗ khơng có ý thức
độc lập, khơng biết tự chăm sóc bản thân và khơng có bản lĩnh trong cuộc sống,...
nên người chưa thành niên thường phạm tội mà không hề hay biết.
Mới đây, chúng tôi vừa có cuộc điều tra về “hiện tượng vơ cảm” ở một vài
trường phổ thông trên địa bàn Hà Nội và hỏi xem một số học sinh có thích đi học,
có thích hoạt động xã hội khơng? đáng quan tâm là có một bộ phận các em đã trả
lời là không biết! Thực tế trả lời như vậy không phải là nhiều và việc khơng thích
học hoặc khơng thích tham gia các hoạt động xã hội là điều bình thường nhưng
việc lệch lạc và mất phương hướng khi không biết thích hay khơng thích trong hoạt
động sống của các em mới là đáng ngại.
2.2.2. Về phía gia đình
“Những đứa trẻ khơng tự nhiên trở thành tội phạm” - đó là nhận định mà
nhiều người đã đồng tình với chúng tơi. Phân tích nguyên nhân phạm tội của người
chưa thành niên, chúng ta có thể tìm được rất nhiều, song ngun nhân chính theo
chúng tơi, vẫn xuất phát từ phía hồn cảnh gia đình - đây là một trong những