Mục lục
Phần mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng
phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con
người. Tất cả đều tốt lên tình u vơ hạn, sự tơn trọng, thái độ bao dung và niềm
tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng
lợi thì “Đầu tiên là công việc đối với con người”, tức là phải có chính sách xã hội
đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà nước ta đã và đang thực hiện
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Con người là một thể thống nhất giữa nguyên tố sinh học và yếu tố xã hội.
Trong con người ai cũng có chổ hay chổ dở, ai cũng có tính tốt tính xấu, có thiện
có ác. Vấn đề là làm sao cho phần xấu mất dần đi, phần tốt nảy nở,phát triển. Cách
quan niệm như thế đã làm cho Hồ Chí Minh có cái nhìn tồn diện về con người, đó
là cơ sở để Người thấu hiểu, cảm thông và lo lắng cho đồng bào cả nước. Đây là tư
tưởng chủ đạo, bao trùm và xuyên suốt, vừa có ý nghĩa thực tiển, vừa như một tiền
đề, đồng thời lại là mục đích quang trọng trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhân tố con người là vốn quý nhất, là động lực vĩ đại, là yếu tố quyết định thắng
lợi của Cách mạng Việt Nam
Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên, chúng em chọn đề tài “Xây dựng con người
Việt Nam tồn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của tiểu
luận
2. Tình hình nghiên cứu (Tổng quan đề tài)
Con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội chủ nghĩa, con
người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dùng khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa là để phân biệt con người
sống trong xã hội cũ, con người chưa được giác ngộ cách mạng, chưa được trang bị
lý luận cách mạng đúng đắn theo lập trường của giai cấp công nhân. Con người
1
mới xã hội chủ nghĩa không phải tự nhiên mà có, nó được gắn với sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, gắn với cơng cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tương.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây
dụng con người Việt Nam tồn diện trong giai đoạn mới nói riêng rất rộng lớn và
sâu sắc. Học tập và nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nhìn nhận, đánh
giá vai trị, vị trí và khả năng to lớn của con người trong sự nghiệp đổi mới đất
nước ngày nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Với sự cấp thiết của đề tài, đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận xoay
quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về con người tồn diện nói chung và đối với con
người Việt Nam nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua bài tiểu luận, chúng em xin được trình bày những vấn đề cơ bản
về nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về việc xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới, việc vận dụng tư tưởng xây dựng
con người mới của Người trong điều kiện hiện nay là những biện pháp nhằm phát
triển toàn diện, phát huy mọi năng lực của con người trong việc phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp luận nghiên cứu của đề tài. Ngoài ra
bài tiểu luận còn sử dụng các phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn, tổng hợp tài
liệu, …
7.Kết cấu của bài tiểu luận
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo,
còn được chia thành các nội dung chính như sau:
Chương 1. Cơ sở hình thành và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới
Chương 2. Một số hạn chế giải pháp để xây dựng con người Việt Nam toàn
diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2
Chương 1. Cơ sở hình thành và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới
1.1.
Cơ sở hình thành
1.1.1 Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới chiếm một vị trí trung tâm, là
chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của Người, chứa đựng những giá trị khoa học
vô cùng to lớn. Điều cốt lõi nhất trong tư tưởng, trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của chủ tịch HCM là lòng yêu nước thương dân, yêu thương con người sâu
sắc, đấu tranh không mệt mỏi vì con người, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để
đảm bảo tự do, hạnh phúc của con người. Đó là nhân sinh quan, 1 triết lý nhân văn
sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc
mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng giáo dục và đào tạo
con người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm
người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người còn căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải ghi nhớ điều “đầu tiên là công việc
đối với con người”. Đảng ta xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
1.1.2.
Cơ sở thực tiễn
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã xây dựng những thế hệ
con người mới vừa có đức vừa có tài, làm nên những chiến thắng thần kì trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và con người, cả nước đã bước vào thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và giành được những thắng lợi rực rỡ. Bối cảnh quốc tế hiện nay
trải qua nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ, mở ra một thời đại kinh tế tri thức và xã hội thơng tin tồn cầu. Vấn
đề con người và xây dựng chiến lược con người, phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội đã trở thành vấn đề bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng tư tưởng HCM, Đảng ta đã
nhấn mạnh việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất
3
của chế độ ta, phấn đấu làm cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có đời sống vật chất
tinh thần ngày càng nâng cao, quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh. Xét
đến cùng đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập tự do, hạnh phúc của con người, của
dân tộc, của nhân loại.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và vai trị của con người
1.2.1. Con người là một chỉnh thể
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa MácLênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh là độc lập
dân tộc phải gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn
đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu, xuyên suốt toàn bộ nội dung, tư
tưởng của Người. Tư tưởng ấy được dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi
nhìn nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình, Người khơng bao giờ cho mình là
người giải phóng nhân dân. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư
tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu
nước xưa kia. Đó là một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một hiên
triết phương đông. Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm
lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người ln hướng đến cái Chân- ThiệnMỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra
động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung.
Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo
Người, phải là một nền dân chủ chân chính, khơng hình thức, khơng cực đoan,
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của
mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng
tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà
được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh có cách
nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các mối
quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; mấy
mươi triệu người Viêt Nam có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi
giống lạc hồng. Những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách
thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa
thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng
khổ". Lơgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Người đề cập đến giai cấp vơ sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn
bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân).
4
Người nhận thức rõ ràng rằng chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới
được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tồn thể nhân loại khỏi
mọi sự nơ dịch, áp bức. Tồn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn
trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về
người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính
sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v) về thực chất chỉ là sự cụ thể
hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
1.2.2.
CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là một vấn đề có tính
khái qt hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam,
“Lịng u nước và sự đồn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,
không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên,
quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm
cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến
của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng
mn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lịng đánh tan qn
giặc cướp nước”. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không đi đến thắng lợi, nếu
khơng "dựa vào lực lượng của tồn dân". Tấm lịng Hồ Chí Minh ln hướng về
con người. Người tin tưởng con người, thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Quan điểm tin vào dân, đồng thời lại
hết lòng thương dân, tình thương u nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu
xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt
Nam.
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái
dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy
không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực
hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị
làmngười cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước gắn bó khơng tách
rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương u cũng như tồn bộ tư tưởng
về nhân dân của Người khơng bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó
tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia
với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân
dân các dân tộc bị áp bức trên tồn thế giới. Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người luôn gắn liền với lịch sử, ý thức nhân dân gắn liền với độc lập dân
tộc.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ
trung thành" có sứ mệnhphục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự
nghiệp cách mạng của quần chúng. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ
5
nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông.
1.2.3. BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất.Trong quá trình lao động, sản
xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên,
của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa
người với người. Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí
Minh con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao
gồm các quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào , lồi người…
Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó
chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
ln tin ở dân, hết lịng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy
sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn
cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh
vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng.
1.2.4.
Vai trị của con người Việt Nam hiện nay
Sự thành công của q trình phát triển kinh tế ở nước ta địi hỏi ngồi mơi
trường chính trị ổn định, phải có những nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con
người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý... Các
nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào q trình cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng với mức độ khác nhau trong đó nguồn lực con
người là yếu tố quyết định.
Ngày nay, đối với những nước lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh
chóng nếu khơng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ hiện đại của
các nước phát triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá
mà khơng cần tính đến yếu tố con người, cịn nhớ rằng cơng nghệ tiên tiến của
nước ngoài khi được tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí thậm chí bị
phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của con người khi sử dụng chúng.
Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam cũng
phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định.
6
Bởi những lí do sau: Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý... chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng, chỉ phát huy tác dụng
và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy
có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác và gắn kết chúng lại với
nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp để cùng phát triển kinh tế. Các nguồn lực
khác đều là khách thể chịu sự cải tạo và khai thác của con người, vì thế cho nên hết
thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người nếu họ biết cách tác động
và chi phối. Do đó trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là
yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại.
Thứ hai, các nguồn khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi
đó nguồn lực con người là vơ tận. Nó khơng chỉ tái sinh và tự sinh sản về mặt sinh
học mà còn tự đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp
lí. Đó là cơ sở làm làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người phát triển không ngừng, nhờ vậy con người đã biết làm chủ tự nhiên, khám
phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, phát minh ra nhiều công cụ sản xuất hiện đại
hơn, đưa xã hội chuyển từ thấp đến cao.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được vật
thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghiệp hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các
nước công nghiệp phát triển và vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Gìơ đây sức
mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những
người máy “bắt chước’’ hay “phỏng theo’’ những đặc tính trí tuệ của chính con
người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối
óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại được chứng kiến nhiều biến đổi thần
kỳ trước cả quá trình phát triển của mình.
Thứ tư, kinh nghiệm nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự
thành công của phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối
chính sách cũng như cách tổ chức thực hiện của con người. Cơ cấu lao động cần
cho quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định
chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, nhà kỹ thuật và công nghệ, các công
nhân lành nghề... Nếu khơng có các nhà kinh doanh thì cũng sẽ khơng có những
người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn nhân lực công nghệ. Sự thiếu
vắng, kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên sẽ có hại cho q
trình phát triển kinh tế đất nước.
Qua tồn bộ phân tích trên đây, ta có thể đi đến kết luận rằng nguồn lực con
người có vai trị quyết định cho sự thành cơng của quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Do vậy, muốn phát trriển kinh tế thành cơng thì phải đổi mới cơ bản các
7
chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, y tế, giáo dục ở Việt Nam
nhằm phát triển nguồn lực con người mới. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và cũng được
coi là khó khăn nhất trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Chương 2. Một số hạn chế giải pháp để xây dựng con người Việt Nam toàn diện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Khái quát về con người Việt Nam tồn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Bước vào thế kỉ mới, với những biến đổi lớn lao, đặt ra nhiều thách thức mà
con người phải đối mặt như: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát
triển; vấn đề môi trường; dân số; vấn đề dân chủ, nhân quyền, nhân sinh, an sinh
xã hội; vấn đề dân tộc, tôn giáo, khủng bố và các tệ nạn xã hội mới phát sinh. Điều
đó khiến con người dứng trước những mâu thuẫn to lớn, buộc con người phải tự
hoàn thiện bản thân để theo kịp xu thế mới của thời đại. Để làm được như vậy con
người phải phát triển một cách toàn diện. Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải thực hiện từng bước, từng nhiệm vụ cụ
thể như sau:
Thứ nhất. chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tại lớp học
chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm 1958, Người nói: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng
người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau,
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chun”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khơng chỉ quan tâm sâu sắc tới thế hệ cùng thời với mình, mà người còn
quan tâm tới thế hệ tiếp sau. Người chú ý tới công tác thanh, thiếu niên và nhi đồng
với một thái độ yêu thương, độ lượng, nghiêm túc và thận trọng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm thấy những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân phát sinh từ lớp người
cịn trẻ, đó là ngun nhân xuất hiện những thanh, thiếu niên hư hỏng. Cho đến lúc
sắp từ giã cõi đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khơng quên việc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân (Người viết bài báo Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân đăng trên báo Nhân dân ngày 3/2/1969, trước lúc Người qua đời vừa
trịn bảy tháng). Điều đó cho thấy Người coi vấn đề đạo đức cách mạng và việc
chống chủ nghĩa cá nhân có tầm rất quan trọng trong việc “trồng người”.
8
Thứ hai, vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức trong chiến lược con
người thì cơng tác giáo dục, đào tạo con người mới là quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhờ chăm lo tới việc giáo dục, bồi dưỡng và đào tạo những con người có ý thức
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng được nhiều thế hệ cán bộ cách
mạng thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước trên một tầm cao mới. Đó là những chiến sĩ
cách mạng có thế giới quan và nhân sinh quan mới, sau này Người gọi đó là những
con người mới xã hội chủ nghĩa, họ là những đảng viên đảng cộng sản, những đoàn
viên thanh niên lao động, những chiến sĩ trong quân đội và công an nhân dân,
những công nhân, nông dân trong sản xuất và chiến đấu. Người đặc biệt chú trọng
tới công tác đào tạo cán bộ, đảng viên, gắn việc giáo dục lí luận với thực tiễn, lấy
kết quả trong hoạt động thực tiễn làm thước đo tác dụng của giáo dục, đào tạo.
Thứ ba, phương pháp xây dựng con người: Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan
tâm, chú ý tới phương pháp nêu gương, thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa
lý luận với thực tiễn. Gương mẫu trong việc làm, trong cuộc sống, mỗi cán bộ,
đảng viên phải gương mẫu trước quần chúng, nêu gương tốt để quần chúng noi
theo. Đó cũng là cách khơi dậy các tiềm năng tốt đẹp như tinh thần yêu nước, đạo
đức trong sáng, thuần phong mỹ tục sẵn có ở người Việt Nam. Đây là những chất
liệu để xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Cùng với phương pháp nêu
gương người tốt, việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn có cách nhìn người vừa bao
dung, vừa sâu sắc để ln khai thác những mặt tốt, tìm cách khơi dậy các mặt tốt.
2.2. Một số yếu kém và hạn chế
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Một số mặt đạo đức xã hội có
biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng. Ở một số nơi, vẫn cịn tình trạng kẻ xấu lợi
dụng sự ngộ nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục vụ mục đích
chống phá chế độ.
Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai
trong thực tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính
ngoại, tiêu dùng sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh
hưởng đến giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước
thách thức tồn cầu hóa. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn ở mức thấp
so với khu vực Đông Nam Á.
Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người
chưa thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ
9
trong các tầng lớp nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động văn hóa và dịch
vụ văn hóa cơng cộng bị “thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo dục, chiều theo thị
hiếu tầm thường của một bộ phận người dân, gây hậu quả xấu trong xây dựng con
người. Công tác xã hội hóa xây dựng con người chưa động viên tối đa. Một số
phong trào biểu dương, tôn vinh gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, danh
hiệu thi đua chưa đi vào thực chất, chạy theo số lượng và hình thức.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa thường
xuyên, liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phịng chống các biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. Những giải
pháp mang tính đột phá khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam
chưa được đề xuất.
2.3. Một số giải pháp
Để giúp con người Việt Nam một cách toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng em có đề ra một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên, nhân dân về vị trí, vai trị của con người trong sự nghiệp đổi mới và
phát triển bền vững đất nước. Cổ vũ tinh thần yêu nước, thương người, tự hào, tôn
vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Thứ hai, đổi mới cơng tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị, khắc phục
giáo điều, máy móc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tơn trọng đối thoại, phản biện xã
hội, tăng tính thuyết phục từ kết quả đổi mới đất nước, tạo sự nhất trí trong Đảng,
đồng thuận xã hội về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng thế giới quan khoa học.
Thứ ba, tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý giải phóng mọi tiềm năng xã hội chăm lo, phát triển con người. Đổi mới cơ
chế và phương pháp giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận chính trị, đạo đức cách
mạng phù hợp với từng đối tượng, ngay từ cấp học mầm non. Khẩn trương đúc kết
và sớm ban hành hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Xây dựng lối sống “mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người”, tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường, uống nước nhớ
nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tương thân, tương ái, quan tâm giúp đỡ người khác, tôn
vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn.
10
Thứ tư, phổ cập rộng rãi các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình
giáo dục văn hóa, nghệ thuật truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cảm
thụ thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân văn, tạo bản lĩnh và sức đề kháng
giúp người dân chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc. Giáo dục thể chất, đưa phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể
theo gương Bác Hồ vĩ đại” lan tỏa sâu rộng trong cuộc sống.
Thứ năm, phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi người, mỗi chủ thể văn hóa,
phối hợp và có giải pháp đồng bộ đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại,
nội dung trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng con
người. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản
tiến bộ, nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hành vi tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ sáu, tập trung nghiên cứu làm rõ những mặt hạn chế của con người Việt
Nam, có giải pháp khắc phục. Từng bước khắc phục mâu thuẫn trong nhận thức,
lối sống giữa các thế hệ người Việt Nam, tạo sự kết nối, đồng thuận cao trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phần kết luận
Tiếp thu những tư tưởng, quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một trong số rất ít người Việt Nam đã tiếp cận sớm nhất và sâu
rộng nhất vấn đề quyền con người, và chính bản thân Người đã phấn đấu hy sinh
suốt đời cho việc thực hiện quyền con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người là sự kế thừa và kết tinh những giá trị tư tưởng nhân văn truyền thống của
dân tộc ta và tư tưởng nhân quyền tiến bộ của nhân loại. Người cho rằng, chúng ta
đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, để khỏi hy sinh nhiều lần, để
giao quyền cho dân chúng số nhiều, để bảo đảm cho dân chúng được hạnh phúc.
Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển tồn diện cịn ngun giá trị cho
đến ngày nay, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa. Vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện đang được đặt ra
một cách cấp thiết, khi nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.
11
Qua bài tiểu luận cũng phần nào giúp chúng em hiểu rõ them về các vấn đề
cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như về con người mới, con người toàn diện
và những vận dụng của tư tưởng vào con người Việt Nam để xây dựng con người
Việt Nam một cách toàn diện hơn và đầy đủ các yếu tố để có thể đáp ứng được xã
hội một cách tốt nhất và hội nhập quốc tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
thật, H, 2011, t.13, tr.6
2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr.644.
3.
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10, tr.17.
4. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 4, tr.161.
5. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 1, tr.461.
6. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 12, tr.558.
12
7.
Xây dựng con người mới phù hợp với sự phát triển của đất n ước và thời
đại PGS. Hồ Kiếm Việt, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2002.
13