ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
ĐỀ TÀI
TỒN CẦU HÓA VỚI VẤN ĐỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP:…L14… NHÓM: …R….., HK211
GVHD: NGUYỄN TRUNG HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN
ST
T
1
2
3
4
5
MSSV
191602
7
191602
9
201462
5
2011596
HỌ
TÊN
Phan Thị Thanh
Vy
Phạm Thị Thúy
Vy
Ngô Tấn
Thông
Nguyễn Đạt
Nguyễn Minh
Lý
Phúc
% ĐIỂM
BTL
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
ĐIỂM
BTL
GHI
CHÚ
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM
Mã số SV
1
1916027
Phan Thị Thanh Vy
Tổng hợp, mở đầu,
kết luận.
2
1916029
Phạm Thị Thúy Vy
1.1 & 1.2
3
2014625
Ngô Tấn Thông
1.3 & 2.1
4
2011596
Nguyễn Đạt Lý
2.2 & 2.3.1
Nguyễn Minh Phúc
2.3.2 & 2.4
5
Họ và tên
Nhiệm vụ được
phân công
STT
%
Điểm
BTL
Điểm
BTL
Ký tên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................................
Chương 1: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.........................................
1.1. Tồn cầu hóa......................................................................................................................
1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay...............................................................
1.3. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một số quốc gia...............................................
Chương 2: LĨNH VỰC XUẤT KHẨU GẠO TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM...........................................................................................................
2.1. Các khái niệm.....................................................................................................................
2.2. Thức trạng và nguyên nhân của xuất khẩu gạo...................................................................
2.3. Thời cơ và thách thức của xuất khẩu gạo...........................................................................
2.4. Những định hướng và kiến nghị phát triển xuất khẩu gạo ở Việt Nam...............................
KẾT LUẬN..............................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tồn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi
toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ và tích tụ tập trung tư
bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc
gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và
của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức
kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do
tồn cầu hố đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước
cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ
nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay
cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở
nên lạc hậu và bị cơ lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.
Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác
liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết
hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại
lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập
khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến,
những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng
cũng đem lại khơng ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để
hồn thành sứ mệnh.
Sau khi nhận thức được vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam,
đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, việc nghiên cứu về vấn đề tồn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là hết sức cần thiết.
4
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu về tồn cầu hóa với vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay và lĩnh vực xuất khẩu gạo trong hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
+ Lĩnh vực xuất khẩu gạo trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
- Đánh giá hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
- Từ việc nghiên cứu thực trạng lĩnh vực xuất khẩu gạo, nhìn ra được cơ hội và
thách thức trong lĩnh vực này trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Từ đó xác
định phương hướng chiến lược phát triển xuất khẩu gạo ở Việt Nam
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
- Phương pháp lịch sử
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài gồm 02
chương:
- Chương 1: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
- Chương 2: LĨNH VỰC XUẤT KHẨU GẠO TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
5
CHƯƠNG 1:
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.1. Tồn cầu hóa về kinh tế:
1.1.1 Ngun nhân chủ yếu và trực tiếp nhất của tồn cầu hóa kinh tế:
Do sự phát triển hết sức nhanh chóng và có những đột phá của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là
ngun nhân trực tiếp của tồn cầu hóa kinh tế, vì:
Một là, cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển vượt
bậc của lực lượng sản xuất làm cho nó vượt khỏi khn khổ các quốc gia, địi hỏi phải
mở rộng khơng gian kinh tế mới có khả năng sử dụng có hiệu quả.
Hai là, nó tạo ra các phương tiện giao thông, vận tải, phương tiện thông tin liên
lạc hiện đại, làm cho việc đi lại, giao lưu trở nên nhanh chóng, dễ dàng, làm cho
khoảng cách giữa nhiều quốc gia cách nhau hàng ngàn cây số trở nên "ngắn lại" vì tốc
độ rất nhanh.
Ba là, nó làm xuất hiện những lợi thế mới cho nhiều quốc gia, bởi vì mỗi quốc
gia có ưu thế khác nhau về các lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, tạo ra được những sản
phẩm có thế mạnh riêng. Vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại càng trở nên cần
thiết, bởi vì mỗi quốc gia có thể mua được những sản phẩm chưa có khả năng sản xuất
hoặc sản xuất được nhưng chưa tốt và còn đắt, đồng thời bán được sản phẩm có thế
mạnh của mình.
Bốn là, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm xuất hiện nhiều vấn đề có
tính chất tồn cầu (như vấn đề mơi trường, bệnh tật, tội phạm quốc tế, rửa tiền, khoảng
cách chênh lệch giữa nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn...). Những vấn đề
6
đó địi hỏi sự hợp tác của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế mới có khả năng giải
quyết có hiệu quả.1
1.1.2.Tồn cầu hóa kinh tế được biểu hiện rõ nét ở chỗ:
Một là, sự phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, các
khu vực ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc độ
nhanh. Ngày nay, rất nhiều sản phẩm quan trọng dù được đăng ký ở một nước nhưng
có hàng trăm cơng ty của hàng chục nước cùng tham gia chế tạo ra chúng. Thí dụ, sản
xuất máy bay Boing có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30 nước tham gia.
Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Chính sự
chun mơn hóa, hiệp tác hóa sản xuất làm cho các nước phụ thuộc nhau về nhiều mặt
như: nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động, thị trường... Mỗi nước
đều cố gắng khai thác tối đa những lợi thế tuyệt đối và tương đối của mình. Thị trường
thế giới ngày càng có vai trị quan trọng đối với "đầu vào" và "đầu ra" của nền kinh tế
mỗi quốc gia.
Ba là, hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và giá cả quốc tế. Ngày nay,
khi xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất như đường giao thông, sân bay, bến cảng, kho
bãi, hệ thống thông tin liên lạc và cả các lĩnh vực khác như dịch vụ, khách sạn... các
quốc gia đều dựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ quả của nó là tạo ra điều kiện thuận lợi
hơn cho mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Tồn cầu hóa kinh tế cịn
biểu hiện ở sự hình thành giá cả quốc tế. Ngày nay, các sản phẩm phổ biến (như xăng
dầu, gạo, sắt thép, cà phê...) đều có giá cả quốc tế. Sự xuất hiện giá cả quốc tế lại giúp
cho các quốc gia tìm ra lợi thế của mình, tập trung sản xuất những sản phẩm có thế
mạnh để xuất khẩu và mua những sản phẩm mà chưa sản xuất được hoặc chất lượng
chưa cao, giá cả lại đắt. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây, thương mại quốc
tế phát triển rất mạnh mẽ và có những xu hướng mới.
1 Giáo trình KTCT-PGS.TS Phạm Văn Dũng Tr 264-265
7
Tóm lại, thời đại ngày nay tồn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, là xu thế khách
quan và khơng một quốc gia nào có thể đứng ngồi dịng xốy của nó. Tồn cầu hóa
kinh tế vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho mỗi quốc gia. Vì vậy, mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trở thành tất yếu khách quan và là một trong các
nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta và được nhấn mạnh nhiều lần
trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối
ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và
song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
1.2.1.Mục tiêu
Đẩy mạnh các hoạt động xuất - nhập khẩu, đa dạng hóa thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Cải thiện mơi trường đầu tư, thu hút
mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, đặc biệt vào các lĩnh vực cơng nghệ cao; tích cực tham
gia các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, ký kết các hiệp định liên kết kinh tế song
phương và đa phương, thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế... để tận dụng những
thuận lợi của thời đại tồn cầu hóa và cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vào
phát triển đất nước. Đồng thời, phát huy tối đa nội lực, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực trong nước, xây dựng nển kinh tế độc lập tự chủ. 2
1.2.2. Đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế từng bước
được hồn thiện
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến
lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt
các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và địa phương.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước
châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương, tin
2 Giao trinh KTCT-Hoi dong bien soan quoc gia-2013 Tr 476
8
cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những
thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) 3
Đại hội VI của Đảng đưa ra quan điểm muốn phát triển kinh tế phải tham gia vào
phân công lao động quốc tế. Đến Đại hội VII, Đảng khẳng định: “mở rộng, đa dạng
hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ
quyền, bình đẳng, cùng có lợi”4. Trung ương Đảng khóa VII đã cụ thể hóa quan điểm
mở rộng quan hệ và tham gia các tổ chức, định chế tài chính, tiền tệ, kinh tế, thương
mại khu vực và quốc tế. Tiếp đó, Đại hội VIII xác định đường lối “xây dựng nền kinh
tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội IX đánh
dấu mốc phát triển mới về hội nhập kinh tế quốc tế với chủ trương “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế” được cụ thể hóa bởi Nghị quyết 07-NQ/TW (27-11-2001) của Bộ
Chính trị.
Trong tình hình mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm việc bổ sung, làm rõ thêm quan
điểm, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X đã nêu
5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Hội nhập kinh tế quốc tế được xác định là yêu cầu
khách quan, do đó phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, khơng
do dự chần chừ, nhưng cũng khơng nóng vội, giản đơn...
Đến Đại hội XI, Đảng chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu
cao nhất. Nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh nước ta hiện nay phải
dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hố dân tộc và bảo vệ mơi trường.
3Giáo trình KTCT-PGS.TS Phạm Văn Dũng Tr 265-266
4 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.119.
9
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể
chế đa phương”5. Để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và
thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội,
đối ngoại tập trung làm tốt các công việc:
Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng
đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng,
ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và
làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác tồn
diện, đảm bảo mơi trường hịa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị,
kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, cơng nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước
và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo
đó cần tăng cường cơng tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa
và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ
thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động
và tích cực; biến q trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước
tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức,
doanh nghiệp, người dân.
Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại
hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030
và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn
thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
5 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 153-154, 232, 225,313.
10
phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở
mức độ cao trong ASEAN6.
1.3. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một số quốc gia:
1.3.1. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Nhật Bản:
Tính đến nay Nhật Bản đã và đang trải qua ba lần mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Lần thứ nhất là cuộc Duy Tân Minh Trị (1858-1881), lần thứ hai là sau khi
chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945-1973) và lần thứ ba đang diễn ra là kể từ
năm 1986 đến nay. Ta chỉ tập trung vào việc tìm hiểu kinh nghiệm hội nhập kinh tế
quốc tế của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai bởi những nét tương
đồng với tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Theo các chuyên gia kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế là nguyên nhân chính dẫn đến việc nền kinh tế của nước Nhật phục hồi
và phát triển vượt bậc sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
Thứ nhất, Nhật Bản đã huy động được mọi nguồn lực cho phát triển, tạo được sự
hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, giới kinh doanh và người lao động trong nhiều năm
vì mục tiêu vực dậy nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đưa
nước Nhật trở thành siêu cường kinh tế trên thế giới. Tinh thần đoàn kết phát triển nền
kinh tế quốc gia đã được thể hiện rõ trong chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp: ở trong nước, các công ty Nhật Bản cạnh tranh quyết liệt một sống một còn
với nhau, song họ lại rất đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh
với bên ngoài.
Thứ hai, Nhật Bản hội nhập theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa lại vừa có
tính chọn lọc cao. Quan điểm đa phương hóa được thể hiện thông qua việc khai thác
triệt để lợi ích từ các mối quan hệ bạn bè với các quốc gia trên thế giới. Trong quá
trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, Nhật còn tiến hành lựa chọn phát triển các sản
phẩm, các lĩnh vực hoạt động và các thị trường cốt lõi. Các sản phẩm cốt lõi là những
sản phẩm có chất lượng cao, tiêu tốn ít và thích hợp với nhu cầu của thị trường thế
giới. Các lĩnh vực hoạt động cốt lõi cũng được Nhật Bản chuyển hóa theo từng giai
đoạn phát triển phù hợp: Nhật lựa chọn các ngành sợi tổng hợp, hoá dầu, luyện thép và
6 Thông tấn xã Việt Nam ngày 23-1-2016
11
điện tử...để phát triển trước rồi chuyển dần trọng tâm sang các ngành cơ khí chế tạo ơ
tơ, máy móc, thiết bị điện tử sinh hoạt và rô bốt... Mặc dù tìm cách chiếm lĩnh thị
trường trên quy mơ rộng, hợp tác với nhiều nước, song Nhật cũng rất quan tâm đến
những thị trường trọng điểm: đó là thị trường các nước đang phát triển Đông Nam Á
và các nước phát triển Âu Mỹ. Đối với mỗi thị trường, Nhật Bản đều có những đối
sách thâm nhập khác nhau, nhằm lấn dần từng bước, trụ vững và mở rộng không
ngừng. Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản tiến hành nhập khẩu nguyên nhiên
liệu và xuất khẩu sang đó các thành phẩm cơng nghiệp có chất lượng thấp và vừa phải
với giá rẻ hơn. Còn đối với các nước cơng nghiệp phát triển, thì nhập cơng nghệ và sản
phẩm mẫu rồi cải tiến thành những sản phẩm có chất lượng cao hơn nhưng với giá rẻ
hơn so với sản phẩm bản địa rồi tung ra lại thị trường mẹ để thu lợi nhuận.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành từng bước tuỳ theo sự tiến triển
của nền kinh tế và sự lớn mạnh của các cơng ty dưới sự điều tiết chặt chẽ của Chính
phủ Nhật Bản. Trong nhiều năm sau chiến tranh, nền kinh tế ln được vận hành theo
một lộ trình do nhà nước vạch ra và lộ trình này được xây dựng trên cơ sở hợp tác chặt
chẽ giữa Chính phủ, các doanh nghiệp và người lao động. Nền kinh tế Nhật Bản chủ
yếu mới mở cửa một chiều ra bên ngoài chứ rất hạn chế hoặc chậm mở cửa cho chiều
ngược lại. Điều này được thể hiện ở chỗ là các hàng hố, vốn, cũng như cơng ty và con
người Nhật Bản có thể được tự do di chuyển ra ngồi Nhật Bản, song các nguồn vốn,
lao động, nông phẩm và các cơng ty nước ngồi rất khó có thể thâm nhập và tồn tại
được ở Nhật Bản trừ một số lĩnh vực không thể tự sản xuất trong nước. Nếu mở cửa
cho chiều ngược lại, thì Nhật Bản thường đi theo chiến thuật "trì hỗn, kéo dài" và xây
dựng hàng rào phi thuế quan (TBT) để giúp các doanh nghiệp trong nước có thời gian
chuẩn bị tiềm lực tốt nhất để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Chẳng hạn,
ngay thị trường công nghệ được coi là thị trường mở cửa nhất của Nhật, thì Chính phủ
Nhật cũng chỉ cho phép các cơng ty nước ngồi đầu tư ở Nhật, đưa vào trong nước
những công nghệ và sản phẩm nào mà Nhật khơng thể làm ra được, cịn nếu thấy các
cơng ty Nhật có thể tiếp thu và cải tiến được những cơng nghệ và sản phẩm đó, thì
Chính phủ Nhật sẽ trì hỗn cấp giấy phép để tạo thời gian và điều kiện cho các công ty
Nhật cải tiến và sản xuất bằng được. Đây là cách Chính phủ Nhật bảo vệ cho sản xuất
và hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước.
12
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản trong thời gian này ln có sự trợ
giúp và chỉ dẫn tích cực của Chính phủ. Để có sự lựa chọn đúng đắn, hiệu quả các định
hướng chuyển dịch cơ cấu vĩ mơ và vi mơ trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Chính phủ Nhật đã giữ vai trị quan trọng trong việc khơi thơng thị trường quốc tế
bằng các hiệp định chính trị và kinh tế liên Chính phủ và cấp các khoản ODA cho các
thị trường tiềm năng nhằm duy trì một mơi trường quốc tế hồ bình đối với Nhật Bản,
tăng cường cung cấp thông tin thị trường, kết hợp chặt chẽ giữa các công cụ bành
trướng đối ngoại như FDI, ODA và xuất nhập khẩu. Chính phủ Nhật đã chủ động lợi
dụng tình thế chính trị mà họ cho là thuận lợi để khai thác những thị trường quan
trọng, trong thời điểm đó là việc Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến tranh Việt Nam nên
phần nào "làm ngơ" cho Nhật làm ăn về kinh tế, để khai thác thị trường Mỹ, một nước
chiếm gần 40% thị trường thế giới, cũng như thị trường các nước Đông Nam Á, sân
sau của Nhật.
Thứ năm, tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và
sản phẩm xuất khẩu. Nhằm mục tiêu này, Chính phủ tích cực chỉ đạo các ngân hàng,
cấp ưu đãi thuế, tín dụng cho doanh nghiệp, sau đó điều chỉnh mức ưu đãi phù hợp để
sớm đặt các doanh nghiệp Nhật Bản trong sự cạnh tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh
hơn. Ngoài việc cấp những ưu đãi trên, Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp nhập
khẩu các cơng nghệ tiên tiến từ nước ngồi. Mặt khác, Chính phủ tích cực khuyến
khích sáp nhập các doanh nghiệp yếu, kết nối các doanh nghiệp lại thành những công
ty lớn hơn và các tập đoàn doanh nghiệp để đủ sức đối phó với các cơng ty đa quốc gia
ở thị trường trong và ngồi nước.
Tuy nhiên, có thể nói, xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu mới
thực sự là trọng tâm ưu tiên và chìa khố quan trọng cho sự thành cơng của Nhật trong
suốt q trình hội nhập kinh tế quốc tế cả ở cấp Chính phủ lẫn tập đoàn doanh nghiệp.
Từ những năm 50, cùng với việc Nhà nước bãi bỏ độc quyền ngoại thương, cơ sở pháp
lý cho các hoạt động xúc tiến thương mại, nhất là xúc tiến xuất khẩu, đã được nhanh
chóng hồn chỉnh với việc liên tiếp thơng qua các Luật kiểm sốt ngoại thương (1949),
Luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (1950), Luật thuế đặc biệt (1953), Luật mẫu mã
hàng xuất khẩu (1958)... đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của doanh
nghiệp phát triển. Đồng thời, một loạt các tổ chức xúc tiến xuất khẩu được thành lập
13
cho các mục tiêu này như: Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản (1950), Viện nghiên cứu
ngoại thương (1951) và Hội chợ triển lãm quốc tế (1952). Về sau, Viện nghiên cứu
ngoại thương và Hội chợ triển lãm quốc tế được sát nhập với nhau và cùng một số tổ
chức khác (1954), rồi cuối cùng được tổ chức lại thành Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản - JETRO (1958). Cơ quan này ngày càng phát triển và mở rộng quy mơ,
đồng bộ và tự chủ hơn. Điều đó khơng chỉ cho thấy vai trị tích cực của Chính phủ, mà
cịn nói lên tính chất gần gũi và quan hệ chặt chẽ giữa các hoạt động nghiên cứu - triển
khai ở Nhật trong khoa học - công nghệ, và cả trong nghiên cứu tiếp thị - xúc tiến
thương mại.
Đặc điểm này càng được thể hiện đậm nét qua việc triển khai những đổi mới
quan trọng về cơ chế quản lý xúc tiến thương mại. Nếu trước năm 1952, các chức năng
quản lý hội chợ, nghiên cứu quốc tế, hướng dẫn thị trường do các bộ phận riêng lẻ
trong Bộ Công nghiệp và Mậu dịch quốc tế (MITI) đảm trách. Đến năm 1962, Tổ hợp
tác kinh tế này chính thức được gọi là Vụ xúc tiến xuất khẩu và từ năm 1964 trở thành
Tổ chức xúc tiến thương mại thuộc MITI. Các chức năng quản lý nhà nước về thương
mại bao gồm việc định hướng chiến lược và kế hoạch, hướng dẫn và kiểm sốt, trong
đó hai chức năng đầu ngày càng phát triển, còn chức năng sau mờ dần và được điện
tốn hố. Do vậy, quy mơ của Cục xúc tiến thương mại giảm dần, song các cơ quan
trực thuộc nó như JETRO lại ngày càng phát triển.
Ngoài ra, để xúc tiến thương mại - xuất khẩu, Nhật còn cho phép thành lập các
cơ quan phi Chính phủ được phân thành 2 nhóm. Nhóm một, gồm liên minh các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhật Bản hoạt động phi lợi nhuận trên cơ sở hội phí của
các thành viên, có quy mơ lớn, bao gồm cả Viện nghiên cứu, các Quỹ hợp tác phát
triển. Nhóm này hoạt động mang tính "trung gian": vừa "vận động hành lang" (lobby)
cho Chính phủ, vừa đấu tranh gây ảnh hưởng tới Chính phủ trong việc định hướng
chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Nhóm hai, gồm các phịng
thương mại và công nghiệp, các hiệp hội ngành, hoạt động thiên về mang tính dịch vụ
trên cơ sở hội phí và lệ phí dịch vụ, với vai trị cũng thiên về đại diện cho quyền lợi
của các doanh nghiệp. Chức năng xúc tiến thương mại còn được đặt ra và kết hợp
nhuần nhuyễn trong thực tiễn hoạt động của Bộ Ngoại giao và nhiều bộ, ngành của
Chính phủ khác như: JICA, JAIDO, OCSIDI,... Về nguyên tắc, tất cả các cơ quan xúc
14
tiến thương mại của Chính phủ Nhật là cơ quan phi lợi nhuận, được xếp vào nhóm các
cơ quan sự nghiệp phúc lợi cơng cộng, trực thuộc Chính phủ và khơng phải là bộ máy
quản lý. Chúng có mạng lưới toả rộng khắp trong và ngồi nước (ví dụ, JETRO có 37
văn phịng ở trong nước và 75 văn phịng ở nước ngoài để làm nhiệm vụ theo dõi
những thay đổi về chính sách thuế quan, thị hiếu tiêu dùng, sức cạnh tranh, thăm dị,
tìm kiếm đối tác tiềm năng ở nước ngoài, rồi chuyển về nước phục vụ các doanh
nghiệp có nhu cầu, cũng như để thành lập các phịng trưng bày, triển lãm ở nước ngồi
cho sản phẩm xuất khẩu của Nhật Bản).
Đồng thời, để tăng cường sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế cho khu
vực doanh nghiệp, Nhật Bản rất quan tâm đến việc thành lập các hiệp hội và tổ chức
hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là về tín dụng và bảo lãnh tín dụng
(quỹ cải tiến cơ cấu công nghiệp ở Nhật nhận tài trợ và bảo hiểm cho các khoản vay
dưới 200 triệu yên; quỹ bảo lãnh tối đa 80% vốn vay cần thiết với mức cao nhất là 1,5
tỷ yên trong trường hợp doanh nghiệp mới không trả được nợ), tư vấn; tạo "thị trường
ngách" cho doanh nghiệp (thông qua các hợp đồng gia công giữa các công ty lớn với
các doanh nghiệp nhỏ, tăng cường viện trợ và ký kết các hiệp định kinh tế - thương
mại với các Chính phủ nước ngồi để mở đường cho doanh nghiệp Nhật thâm nhập thị
trường thế giới...); đổi mới giáo dục nhận thức và đào tạo tay nghề cho công nhân, tạo
cơ hội phát triển những ngành cơng nghệ mới; linh hoạt hố thị trường lao động.
1.3.2. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Trung Quốc:
Năm 1980, thời điểm mà Trung Quốc mới bắt đầu tiến hành quá trình chuyển
đổi, quốc gia này chỉ chiếm hơn 2% tổng GDP thế giới và chưa đầy 2% tổng giá trị
thương mại toàn cầu. 35 năm sau khi Trung Quốc bắt đầu chuyển đổi và tiến hành hội
nhập kinh tế quốc tế, tỉ trọng GDP của quốc gia này vào năm 2015 đã chiếm khoảng
15% của tồn thế giới và đóng góp khoảng 11% trong tổng mức thương mại toàn cầu,
tốc độ tăng trưởng kinh tế ln nằm trong nhóm các nước dẫn đầu thế giới. Những con
số này cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc trên thế giới cũng như sự thành cơng của
chính sách mở cửa của quốc gia này. Có thể thấy Trung Quốc đã thành công trong
trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế với các chính sách cụ thể.
15
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp. Các bộ luật về thu hút vốn đầu
tư nước ngoài nhanh chóng được ban hành và sửa đổi; luật chống độc quyền được ban
hành bảy năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO; luật về phá sản doanh nghiệp cũng
được ban hành...tạo hành pháp lý cho các doanh nghiệp vận hành trong nước cũng như
cho hoạt động đầu tư nước ngồi. Bộ máy và chức năng của Chính phủ cũng thay đổi
từ Chính phủ theo mơ hình quan liêu sang việc thẩm thấu các cách tổ chức, quản lý,
đánh giá như doanh nghiệp. Tiếp đó, để giảm bớt các rào cản đối với sự phát triển của
hệ thống kinh tế ngồi nhà nước Chính phủ Trung Quốc đã phải tiếp tục chuyển đổi
chức năng một lần nữa thành Chính phủ theo mơ hình kiến tạo. Điều này đồng nghĩa
với việc thị trường ngày càng đóng vai trị quan trọng hơn trong quá trình phát triển
kinh tế và quyết định cách thức ứng xử giữa Trung Quốc với các đối tác của mình.
Thứ hai, tận dụng triệt để các mối quan hệ quốc tế. Trung Quốc luôn thâm hụt
thương mại với Nhật Bản, Hàn Quốc - những quốc gia mà Trung Quốc cần nhập khẩu
công nghệ, hàng trung gian hoặc bán thành phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao. Bên cạnh
đó Trung Quốc cũng thâm hụt thương mại với Malaysia, Thái Lan, Philippines vì các
quốc gia này đều xuất khẩu được sang Trung Quốc các hàng trung gian, hàng bán
thành phẩm và thành phẩm cơng nghiệp có hàm lượng kĩ thuật khá và cao. Điều này
được lý giải bằng việc Trung Quốc tham gia thương mại nội vùng Đông Á bằng việc
kí kết các Hiệp định song phương và đa phương với các nước trong khu vực, nhằm
mục đích giải quyết trực tiếp nhu cầu nhập khẩu công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào
phục vụ cho xuất khẩu.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ xuất khẩu hiệu quả. Trung Quốc đã tiến hành nhiều
biện pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu: kiểm soát tỉ giá đồng Nhân dân tệ
(NDT), xuất khẩu thơng qua vốn đầu tư nước ngồi. Trung Quốc đã duy trì tỉ giá danh
nghĩa đồng Nhân dân tệ (NDT) ở mức thấp trong thời gian dài. Sau khi phá giá lập tức
40% vào năm 1994, NDT còn tiếp tục trải qua quá trình mất giá đến đầu thế kỉ XXI và
được neo không đổi đến tháng 7/2005. Một số nghiên cứu định lượng của IMF đã chỉ
ra rằng, việc NDT bị định giá thấp giả tạo mỗi 10% có thể khiến xuất khẩu của các
nước ASEAN sang thị trường thứ ba bị suy giảm 1% do không cạnh tranh được với
xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường thứ ba này. Mặt khác, Trung Quốc gia nhập
thị trường thế giới bằng việc thu hút các công ty vốn đầu tư nước ngoài vào các đặc
16
khu kinh tế, khu ưu đãi thuế quan, các thành phố mở cửa duyên hải,… Trung Quốc có
thể tiến hành điều chỉnh kết cấu ngành cũng như nâng cấp ngành bằng cách nhận gia
công, chế biến cho các công ty nước ngồi với chiến lược: “Hồng Kơng là cửa hàng Quang Đơng là cơng xưởng”. Đây là điển hình cho cách thức phát triển ngoại thương,
mô phỏng kĩ thuật và tiếp thu kinh nghiệm quản lí của Trung Quốc thời gian đầu. Hoạt
động xuất khẩu của khu vực kinh tế này chính là cửa sổ để hàng hóa Trung Quốc được
xuất đi thị trường quốc tế.
Thứ tư, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm thông qua phát triển cụm
liên kết ngành. Một trong những yếu tố giúp hàng xuất khẩu Trung Quốc có sức cạnh
tranh cao trên thị trường quốc tế là Trung Quốc có một đồng tiền rẻ và lượng lao động
dồi dào, giá rẻ. Ngoài ra, thành cơng của q trình mở cửa Trung Quốc còn bắt nguồn
từ việc quốc gia này thu hút và hình thành được các cụm liên kết ngành dọc theo bờ
biển. Các cụm liên kết ngành của Trung Quốc được phân loại thành ba nhóm rõ nét:
nhóm sản xuất hàng công nghiệp nhẹ chủ yếu tập trung ở duyên hải miền Nam (Quảng
Đơng, Phúc Kiến); nhóm sản xuất hàng cơng nghiệp nặng với sáu điểm nằm rải rác từ
miền Bắc đến miền Nam; nhóm sản xuất hàng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia
tăng lớn (Tam giác sông Châu Giang - Quảng Đơng). Chính lợi thế nhờ quy mô và lợi
thế nhờ hiệu ứng cụm liên kết đã tạo ra năng lực sản xuất khổng lồ với chi phí thấp
hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới.
1.3.3. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Thái Lan:
Từ giữa những năm 90 của thế kỉ XX nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh
tế Thái Lan nói riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Vì vậy, Thái Lan đã tự đánh giá và
điều chỉnh để đưa ra chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với tình hình kinh tế
mới. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế gồm 4 nội dung chủ yếu: Đào tạo nguồn
nhân lực; tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu và tăng cường thâm nhập vào các nước mới mở cửa.
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Trong tình hình hiện nay, khi
Thái Lan đang nỗ lực thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng sản phẩm xuất
khẩu có hàm lượng cơng nghệ cao, từng bước thay thế những sản phẩm xuất khẩu có
chi phí lao động cao, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của sự giảm sút khả
17
năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu, thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trở
nên thực sự cần thiết. Do đó, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ 8 (1997 - 2001)
của Thái Lan đã khẳng định, nguồn nhân lực có học vấn cao thực sự là nhân tố thiết
yếu cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Đồng thời, phát triển hệ thống
đào tạo công nhân kỹ thuật, nhằm tạo thêm cơ hội học tập cho thế hệ thanh niên hiện
nay.
Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Trong cuộc chạy đua
quyết liệt nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực Đơng á, ngay sau
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, Thái Lan đã thay đổi những chính sách của
mình để tạo mơi trường đầu tư hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực. Cụ thể:
nâng mức sở hữu nước ngoài lên 49% đối với các dự án thơng thường, 100% đối với
các dự án có trên 80% sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngồi cịn được
phép điều chỉnh tỷ lệ sở hữu lên trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó
khăn về tài chính. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30%
sản phẩm xuất khẩu trở lên, mới được hưởng miễn giảm thuế trong các ngành công
nghiệp chế tạo. Hiện nay, khi quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực
đang tiếp tục được thúc đẩy, để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, Thái
Lan nhất thiết phải thu hút FDI cho các ngành sử dụng cơng nghệ cao. Để đạt được
điều đó Thái Lan cần phải phát triển mạng lưới ngành công nghiệp hỗ trợ một cách
thích ứng, vì lẽ đó nước này đã quyết tâm xây dựng một cơ cấu công nghiệp đa dạng
(gồm 14 ngành), mà nịng cốt là các cơng ty đầu tư đến từ các nước công nghiệp phát
triển, đặc biệt là các công ty từ Nhật Bản và Mỹ. Trong nước, Chính phủ Thái Lan cố
gắng đảm bảo sự ổn định về chính trị, đầu tư vào việc xây dựng cơ cở hạ tầng một
mức thích ứng, ngăn chặn sự gia tăng tiền lương, đảm bảo nguồn cung về nhân viên kỹ
thuật và đội ngũ công nhân tay nghề cao, cũng như các yếu tố đầu vào cho các ngành
công nghiệp. Một cơ cấu công nghiệp hỗ trợ đa dạng được phát triển tốt sẽ là yếu tố tốt
nhất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện tại.
Thứ ba, Chính phủ Thái Lan đã đưa ra chương trình nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu, nhằm tiếp tục duy trì và phát triển những lợi thế của mình.
Chương trình đó được chia thành hai nội dung chính: thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
cơng nghiệp từ chi phí lao động cao sang sử dụng hàm lượng công nghệ cao; mặt khác,
18
khuyến khích sự phát triển và áp dụng cơng nghệ hiện đại nhằm làm tăng phần giá trị
gia tăng trong các ngành cơng nghiệp sử dụng chi phí lao động cao. Nội dung thứ nhất
của chương trình trên thực sự là một cuộc cách mạng công nghiệp, hướng đến việc đưa
các ngành công nghiệp như chế tạo ô tô và xe máy, công nghiệp điện máy và điện
thành những ngành công nghiệp đi đầu. Nội dung thứ hai là về sự đổi mới công nghệ
trong các ngành này sẽ được Quỹ Phát triển xuất khẩu hỗ trợ về mặt tài chính nhằm
mục đích cắt giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm, đồng thời làm tăng thêm giá trị
cho hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Để đảm bảo
thực hiện tốt chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, Cơ quan
Quản lý đầu tư Thái Lan (BOI) đã cụ thể hóa thành 4 nhiệm vụ sau: Khuyến khích đầu
tư cơng nghệ, nhằm làm tăng giá trị hàng hóa trong các ngành công nghiệp truyền
thống (dệt may, đồ chơi, giầy dép và một số ngành công nghiệp nhẹ); Hỗ trợ hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D) các sản phẩm mới và nâng cao chất lượng sản phẩm
trong những ngành vốn đã có khả năng cạnh tranh mạnh (chế biến nông sản, hải sản);
Đầu tư nâng cao năng suất lao động, tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành
công nghiệp có nhiều tiềm năng (sản xuất phụ tùng ơ tô, các ngành sử dụng công nghệ
cao như IC, bán dẫn và màng silicon); Giảm chi phí sản xuất trong các ngành cơng
nghiệp nói chung, đặc biệt là những ngành cơng nghiệp cịn non trẻ.
Thứ tư, mục tiêu quan trọng trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Thái
Lan là tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đặc biệt là thâm nhập vào các nước
mới mở cửa như Campuchia, Lào, Trung Quốc và Việt Nam, là những nước láng giềng
của mình. Sự gần gũi về mặt địa lý đã tạo cho Thái Lan những lợi thế nhất định so với
các chủ đầu tư khác. Thái Lan đã ký kết hợp tác kinh tế với tất cả các nước láng giềng,
chẳng hạn như: Tam giác kinh tế phía Nam, tứ giác kinh tế phía Bắc, lục giác kinh tế
sông Mê Công.
19
CHƯƠNG 2:
LĨNH VỰC XUẤT KHẨU GẠO TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
2.1. Các khái niệm:
2.1.1. Khái niệm xuất khẩu và thị trường:
Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá
trị thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngồi) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản
đó.
Thị trường theo nghĩa hẹp là nơi diễn ra sự trao đổi và mua bán hàng hóa. Ví dụ:
chợ, cửa hàng, sở giao dịch ... Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng thể tất cả các mối
20
quan hệ cạnh tranh,cung - cầu, giá cả, giá trị... mà trong đó giá cả và sản lượng hàng
hóa tiêu thụ được xác định.
2.1.2.
Khái
niệm
cung-
cầu:
Cầu
được
hiểu
là nhu
cầu có
khả
năng
thanh
tốn
của xã
hội về
một
loại
hàng hố hay dịch vụ nào đó trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói cách khác, cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ là lượng hàng hố hay
dịch vụ đó mà người mua dự kiến mua trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng
thời gian nhất định.
Cung về một loại hàng hóa hay dịch vụ là tổng số hàng hóa hay dịch vụ đó mà
các chủ thể kinh tế đưa ra bán trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời
gian nhất định, bao gồm cả hàng hóa bán được và chưa bán được.
2.2. Thực trạng và nguyên nhân của xuất khẩu gạo
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân của xuất khẩu gạo
21
Trước năm 1986, Việt Nam , phải nhập khẩu gạo do sản xuất trong nước không
đáp ứng được nhu cầu nội địa. Lượng gạo Việt Nam nhập khẩu vào cuối những năm
1960 và trong năm 1976 còn vượt quá 1 triệu tấn/năm.
Chính sách đổi mới năm 1986 đã mở đầu cho quá trình Việt Nam hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và triển khai những chính sách quan trọng trong phát triển nơng
nghiệp, nhờ đó sản xuất lúa gạo của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 1989, Việt
Nam lần đầu tiên xuất khẩu gạo, chấm dứt thời kỳ thiếu gạo và chuyển sang xuất khẩu.
Trải qua hơn 30 năm (1989-2021), đến nay, hạt gạo Việt Nam đã có mặt ở hơn 172
nước/vùng lãnh thổ. Xuất khẩu gạo của Việt Nam có xu hướng tăng lên cả về sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu. Gạo hiện là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam và của Trung tâm Thương mại
quốc tế ( ITC), xét theo kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam hiện là 1 trong số 3 nước xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới kể từ năm 2001. Trong năm 2020, Việt Nam xuất khẩu
6.249,114 nghìn tấn gạo với kim ngạch xuất khẩu đạt 3.120,163 triệu đôla, chiếm
12,75% thị phần xuất khẩu gạo thế giới, đứng sau Ấn Độ (35,61%) và Thái Lan
(15,1%).
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu gạo sang 79 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Châu Á và châu Phi là 2 khu vực xuất khẩu gạo chính
Nguyên nhân cho những thành tựu kể trên :
22
•
•
•
•
Giá gạo Việt Nam vượt nhiều quốc gia
Việt Nam nắm bắt đúng nhu cầu về lúa gạo trên thế giới
Sản lượng lúa của Việt Nam tăng cao
Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại với nhiều quốc gia mang tầm
chiến lược như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Ðối
tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA)
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại
Các thị trường quốc tế đang tiếp tục có sự cạnh tranh gia tăng về chất lượng,
chủng loại và yêu cầu kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu. Trong đó, chất lượng, hiệu
quả, giá trị gia tăng và tính cạnh tranh của ngành lúa gạo thấp; xuất khẩu gạo khối
lượng lớn nhưng giá trị thấp; sản xuất thiếu tính bền vững.
Đơi lúc giá lúa tươi tại ruộng có dấu hiệu sụt giảm. Thêm vào đó, việc ký kết hợp
đồng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, trở ngại hơn các năm trước. Một số nước nhập
khẩu gạo thông tin sẽ thu mua chậm hơn so với các năm trước. Ngoài ra, năng lực thu
mua tạm trữ của doanh nghiệp còn yếu.
Bên cạnh đó, tác động của biến đổi khí hậu đã làm tăng chi phí điều trị dịch hại,
tăng chi phí bơm tưới, tăng chi phí bảo dưỡng đê, chi phí bơm nước, chất lượng lúa bị
giảm sút, giá bán giảm, tăng chi phí thu hoạch… Đặc biệt, do xâm nhập mặn, năng
suất, sản lượng lúa có thể bị giảm 30 - 50%.
Cũng do tác động của biến đổi khí hậu, doanh nghiệp trong chuỗi giá trị chịu các
thiệt hại vật chất cụ thể như: Chậm tiến độ thu mua, tốn chi phí phơi sấy, bảo quản, chi
phí nâng nền, chất lượng gạo giảm sút…
Theo ơng Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp : “Tuy chúng ta đang là
quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới nhưng vẫn chưa thoát khỏi “lời nguyền”: Sản
xuất cá thể, manh mún, mạnh ai nấy làm, giá thành cao, chất lượng khơng đồng đều.
Chính vì sản xuất theo kiểu “mạnh ai nấy làm, theo quy trình tùy thích” nên chất
lượng sản phẩm khơng đồng đều, trên một cánh đồng có nhiều giống lúa với quy trình
sản xuất khơng ai giống ai; khi thương lái đi thu mua thì gom tất cả loại lúa khác nhau
23
vào một ghe, chở về nhà máy xay xát cùng một mẻ và cho ra đời thứ sản phẩm gạo
hỗn tạp. Chính kiểu sản xuất như thời tự cung tự cấp nên việc xây dựng thương hiệu,
công bố chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc… không thể thực hiện được.
2.3. Thời cơ và thách thức của xuất khẩu gạo:
2.3.1. Những thời cơ của việc xuất khẩu gạo hiện nay:
Ðến thời điểm này gạo đang là "điểm sáng” trong bức tranh xuất khẩu nơng sản,
bất chấp những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra cũng như những thách thức lớn từ
thiên tai, thời tiết như hạn, mặn, bão lũ…
Suốt thời gian qua, Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương tập trung chỉ đạo
thực hiện các giải pháp để hoàn thành kế hoạch sản xuất lúa năm 2020, bảo đảm cân
đối các nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, để tiếp tục giữ và đẩy mức giá
xuất khẩu lên cao, điều tiên quyết là phải quan tâm đến chất lượng, bảo đảm an toàn vệ
sinh thực phẩm trên cơ sở thực hành sản xuất nông nghiệp tốt với các tiêu chuẩn của
VietGAP, Global GAP… cùng rất nhiều yêu cầu kỹ thuật của các đối tác nhập khẩu
khác nhau.
Riêng về thị trường châu Âu, để tận dụng hiệu quả lợi thế về ưu đãi thuế quan mà
EVFTA mang lại, thì ngồi chín giống lúa thơm của Việt Nam xuất khẩu sang EU hiện
được hưởng ưu đãi thuế quan theo hạn ngạch 30.000 tấn, bao gồm: Jasmine 85, ST 5,
ST 20, Nàng Hoa 9, VD 20, RVT, OM 4900, OM 5451 và Tài nguyên Chợ Ðào, thời
gian tới, Bộ NN và PTNT sẽ phối hợp với các đơn vị rà soát lại danh mục giống lúa
thơm đang sản xuất phổ biến để đề xuất chỉnh sửa, bổ sung thêm danh mục chủng loại.
Về cơ hội xuất khẩu mặt hàng gạo này, Cục trưởng Cục Trồng trọt Nguyễn Như
Cường nhấn mạnh: Sản lượng lúa thơm vùng đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 5,5
triệu tấn/năm, tương đương khoảng 3,5 triệu tấn gạo thơm. Như vậy, tiềm năng xuất
khẩu gạo thơm sang EU còn rất lớn, cho nên điều quan trọng là nỗ lực triển khai thực
hiện liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, bảo đảm được những yêu
cầu khắt khe nhất từ châu Âu.
Không chỉ giá gạo xuất khẩu tăng mà giá lúa tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long cũng đạt mức cao kỷ lục so với nhiều vụ trước, đem lại lợi nhuận cao cho người
24
nông dân. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng một phần là do nhu cầu thu mua dự
trữ để ứng phó dịch Covid-19 của nhiều quốc gia. Ngồi ra, một số doanh nghiệp xuất
khẩu gạo cũng cho rằng, sau khi gạo ST25 đoạt danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới” đã
tạo ra sự chú ý đặc biệt của người tiêu dùng trên thế giới đối với gạo Việt Nam, góp
phần quan trọng tiêu thụ và nâng cao giá trị cho gạo Việt.
Nhiều chuyên gia nông nghiệp cho rằng, sự bứt phá ngoạn mục trong xuất khẩu
gạo cùng với việc tận dụng nhanh các ưu đãi mà EVFTA mang lại, đang tạo ra thời cơ
mới cho cả nền sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam, đưa giá gạo Việt lên cao
và tạo ra thương hiệu rõ nét trên thị trường thế giới. Ðể nắm bắt thời cơ này, cần sự
liên kết chặt chẽ và bền vững hơn nữa giữa nông dân và doanh nghiệp, giữa các vùng
sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu với nhau. Ðồng thời, liên quan đến vấn đề
xuất khẩu trong bối cảnh dịch Covid-19 còn chưa chấm dứt, rất cần các cơ chế, chính
sách linh hoạt từ các cơ quan chức năng để hoạt động này không bị gián đoạn, bảo
đảm mục tiêu xuất khẩu gạo
2.3.2 Thách thức của xuất khẩu gạo ở Việt Nam
2.3.2.1 Thách thức do tự nhiên
Việt Nam có vĩ độ kéo dài từ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc, và kinh độ 102o đến
1100o
Nam nằm trên vùng nhiệt và cận nhiệt đới, vì vậy có lượng lớn mưa và ánh sáng
mặt trời. Nhìn chung thì khí hậu Việt Nam rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển
lúa. Tuy nhiên việc trồng lúa chỉ thuận lợi trong khoảng 2 mùa vụ ( 1 mùa khoảng từ
3-4 tháng tuỳ giống lúa) vì thời tiết Việt Nam rất đa dạng, sự biến đổi các yếu tố khí
hậu vào các tháng khác nhau như nhiệt độ, lượng mưa và bức xạ từ mặt trời có thể ảnh
hưởng quan trọng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây lúa.
2.3.2.1.1 Ảnh hưởng do nhiệt độ
Nhiệt độ có tác dụng quyết định đến tốc độ sinh trưởng của cây lúa nhanh
hay chậm, tốt hay xấu. Trong phạm vi giới hạn (20-30 độ C), nhiệt độ càng tăng cây
lúa phát triển càng mạnh. Nhiệt độ trên 40 độ C hoặc dưới 17 độ C, cây lúa tăng
25