Mục lục
Phần mở đầu..............................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2
2. Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu đề tài)....................................................2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.......................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.................................................................3
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu.......................................................................3
Phần nội dung............................................................................................................4
Chương 1: Vị trí vấn đề nhà nước và nguồn gốc lý luận nhà nước trong tư tưởng
Hồ Chí Minh...........................................................................................................4
1.1. Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh.................................4
1.2. Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định nhất đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước........................................................................4
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hiệu quả..................................................................................................................6
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh................6
2.2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.........9
2.3. Giải pháp tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.............................9
Phần kết luận...........................................................................................................11
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................12
1
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự
nghiệp, tư tưởng và hành động của họ gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi
động và biến cố của dân tộc và thời đại mình:Mác, Anghen, V.I.Lenin,…và đặc
biệt là Hồ Chí Minh, là những con người tiêu biểu như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời cũng là người sáng lập Nhà
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong một phần tư thế kỷ ở cương vị Chủ tịch
Nhà Nước, Người đã dành nhiều công sức cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam-Nhà Nước trong sạch,vững mạnh, hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân- do dân- vì dân, trong
sạch- vững mạnh-hiệu quả, là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của
chủ nghĩa Mác- Lenin trong điều kiện của nước ta, có sự chọn lọc, kế thừa cả
những tinh hoa trong việc xây dựng nhà nước đã có trong lịch sử dân tộc và nhân
loại. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là
một nhà một nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến
Pháp và pháp luật.
Để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề trên, chúng em chọn đề tài “Xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh” làm đề tài tiểu luận.
2. Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu đề tài)
Nhà nước trong sạch, vững mạnh đó là “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Một trong
những mối quan tâm của Người là làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ
cán bộ chính quyền phù hợp với bản chất của Nhà nước ta, thấm nhuần tinh thần
“dân là chủ, cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Là người sáng lập ra Nhà
nước ta, Người rất đề cao pháp quyền, nhưng Hồ Chí Minh khơng lúc nào coi nhẹ
vai trị của giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, mơ hình Nhà Nước Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy thành quả tích cực trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc hơn 60 năm qua. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề nhà nước đã và đang được toàn Đảng, toàn dân kế thừa, phát triển trong sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ trong nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
2
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền-nhà nước “cuả dân, do dân, vì dân”, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội
cơng bằng, dân chủ văn minh, thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư t ưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền “Trong sạch -vững mạnh – hiệu quả” nói riêng
đã có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng,là nền tảng để Đảng ta xây dựng mơ hình
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ một cách hồn thiện nhất. Do đó, chúng em
chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận: Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu ln đi đúng hướng và
hiệu quả. Kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương án so sánh và
phương pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính và cụ thể mà chúng
em có thể sử dụng khi nghiên cứu đề tài này.
Phương pháp riêng: ngoài những phương pháp trên, bài tiểu luận còn sử
dụng them các phương pháp khác như so sánh, tổng kết thực tiễn, phân tích tài
liệu, ….
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
bài tiểu luận còn được chia thành các nội dung như sau:
Chương 1: Vị trí vấn đề nhà nước và nguồn gốc lý luận nhà nước trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả
3
Phần nội dung
Chương 1: Vị trí vấn đề nhà nước và nguồn gốc lý luận nhà nước trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
1.1. Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp cùa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại”. Trong hệ thống
quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
của Hồ Chí Minh, tư tưởng về nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng với nội dung thiết thực. Hiện nay, việc nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và thực tiễn đối với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân, một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh và hiệu quả.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về:
“Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”.
Song, Người thấy rõ ràng vấn đề chính quyền ở nước ta khơng thể rập khn theo
các nước khác, mà cần “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” để có lời giải đáp
đúng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước và quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam. Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường
của cách mạng vơ sản và nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước như một nội
dung cơ bản của cách mạng Việt Nam.
1.2. Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định nhất đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước
Nguồn gốc lý luận quan trọng, chủ yếu, quyết định nhất hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước là học thuyết Mác-Lenin về nhà nước nói chung, nhà
nước chun chính vơ sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lenin, nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
thể rất khác nhau, nhưng bản ch ất của chúng chỉ là một: chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mà muốn như vậy, địi hỏi đó phải là một nhà nước thật sự trong
sạch, vững mạnh và hiệu quả. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã chỉ ra rằng, nhà nước xã
hội chủ nghĩa, với đặc điểm vốn có của nó, là một nhà nước đặc biệt, nhà nước
khơng cịn ngun nghĩa, là nhà nước “nửa nhà nước”.
Nhờ có quan điểm cơ bản của chủ nghỉa Mác-Lenin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường cách mạng Việt Nam, phương thức đúng đắn để giải quyết vấn đề
4
chính quyền nhà nước, hiểu biết thấu đáo bản chất nhà nước và cách thức tổ chức
nhà nước. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-lenin về vấn đề nhà nước
nói chung, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng là cơ sở lý luận khoa h ọc đ ể Ng
ười đánh giá, phê phán các học thuyết khác về tổ chức nhà nước cũng như khảo sát
các kiểu thực tiễn nhà nước một cách chính xác. Từ đó hình thành tư tưởng H ồ
Chí Minh thật sự cách mạng, khoa học, trở thành nền tảng tư tưởng của đường lối
xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng ta.
5
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hiệu quả
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nhờ đồn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu,
thường xun để Đảng hồn thành vai trị lãnh đạo, là chiến sĩ tiên phong của giai
cấp, dân tộc và Nhân dân; công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa
lâu dài.
Sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một quá trình
trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn đều có những
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể. Khi cách mạng gặp khó khăn, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng giúp cán bộ, đảng viên xác định rõ lập trường, quan điểm, không bi quan,
dao động; là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện tu dưỡng, giữ vững đạo
đức cách mạng. Khi cách mạng trên đà thắng lợi, việc quan tâm đến công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm phát triển những quan điểm, tư tưởng cách mạng,
khoa học, đồng thời ngăn ngừa bệnh chủ quan, tự mãn trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng
cần được nhấn mạnh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi mọi tệ nạn, tiêu cực do thoái hoá,
biến chất, lộng quyền, lạm quyền…
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy luật, là nhu cầu tồn tại
và phát triển của Đảng ta. Chỉnh đốn và đổi mới nhằm làm cho Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho Đảng trở thành một
khối thống nhất, vững mạnh, đủ sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Thực tiễn qua 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng ta luôn
coi trọng công tác xây dựng Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định đến
sức mạnh, uy tín của Đảng. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 26/6/1992 của Hội
nghị Trung ương lần thứ ba, khóa VII về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng” nêu rõ: “Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý
tưởng, dao động, mất lịng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng
cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản
bội, đầu hàng. Khơng ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn
hút, trở nên thối hóa, hư hỏng. Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi vung phí
tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại
lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng”.
6
Công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thể hiện ở những nội dung
cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng - lý luận: Trong tác
phẩm “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn luận điểm của V.I.Lênin
rằng: “Khơng có lý luận cách mệnh thì khơng có cách mệnh vận động... Chỉ có
theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong” để nhấn mạnh: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong cơng tác thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi”. Người cho rằng phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề vô cùng quan trọng, quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của Đảng là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn dựa trên cơ
sở lý luận Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện Việt Nam, học
tập kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản anh em,... Người lưu ý phải thường xuyên
giáo dục đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên; đồng thời, Người
cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị có thể gây hậu quả nghiêm
trọng đến sự nghiệp cách mạng của Nhân dân, vận mệnh của Tổ quốc.
Thứ hai, xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ: Hệ thống tổ
chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần phải được tổ chức chặt chẽ, có tính kỷ
luật cao, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, nhất là các tổ chức đảng cơ sở - tổ chức
hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Cần chú trọng thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tập trung là để thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động, thiểu số phục tùng
đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ chức
đảng; dân chủ là tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm
ra chân lý.
Cần phát huy vai trò tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo, vì
nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, tránh tệ bao biện,
quan liêu, độc đoán, chủ quan. Cá nhân phụ trách, vì mọi việc đã được bàn bạc kỹ
lưỡng, nên khi giao cho một người hoặc một nhóm người thi hành sẽ nâng cao tinh
thần chuyên trách, cơng việc mới trơi chảy. Bên cạnh đó, cần khắc phục tệ độc
đoán, chuyên quyền, dựa dẫm tập thể, khơng quyết đốn, khơng dám làm, dám
chịu trách nhiệm. Thực hiện nghiêm việc phê bình và tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “… một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng
7
hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để
sửa chữa khuyết điểm. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”.
Trong xây dựng Đảng thì cơng tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, để có cán bộ tốt, làm được việc phải chú trọng đến khâu đào tạo,
huấn luyện cán bộ: “Cán bộ là cái dây chuyền của nhà máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là
những người đem chính sách của Chính phủ, của đồn thể thi hành trong nhân dân,
nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được”.
Thứ ba, xây dựng Đảng về đạo đức: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một
đảng chân chính phải là đảng tiêu biểu về đạo đức, vì vậy Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề xây dựng đạo đức của Đảng. Mỗi đảng viên phải thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Giáo dục đạo đức cách
mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên
gắn với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nhằm làm cho Đảng ta luôn thực
sự trong sạch, xứng đáng vị trí, vai trị là một đảng cầm quyền.
2.2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng bao giờ tách rời với
việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này ln thường trực
trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập,
chính quy ền cách mạng cịn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ
Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh
của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước nh
ững thách th ức rất gay gắt và những tiêu cực rất dẽ trở thành nguy cơ làm biến
chất Nhà nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho Uỷ Ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải
chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước khơng phải là bộ máy áp bức bóc lột
nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những “ơng quan cách m ạng”. Hồ Chí
Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo. Người nhắc nhở “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết được
sai lầm thì phải ra sức sửa chữa.
Vậy nên, ai khơng ph ạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và
gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa
chữa; nếu khơng tự sửa chữa thì Chính Phủ sẽ khơng khoan dung. Vì hạnh phúc
8
của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà mà tơi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những
chữ “cơng bình, chính trực” vào lịng”. Trong q trình xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam Hồ Chí Minh th ường đề cập đến v ấn đ ề sau đây và nhắc nhở
mọi người tránh và khắc phục.
2.3. Giải pháp tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Để công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được mục tiêu, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, tự giác tu dưỡng, rèn luyện
của mỗi cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu cần tự soi, tự sửa chính mình và đơn vị, tổ chức; thực hiện
nói đi đơi với làm, khơng nể nang, né tránh, tìm ra những ưu điểm để phát huy, có
các biện pháp khắc phục, sửa chữa sai lầm, yếu kém, khuyết điểm một cách thiết
thực, hiệu quả.
Hai là, tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, lý luận, bảo vệ vững chắc nền
tảng tư tưởng của Đảng. Cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp,
nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng ở các
cấp ủy, tổ chức đảng; luôn bám sát thực tiễn, đi sâu đi sát cơ sở, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc để chủ động kịp thời giải quyết những
vấn đề tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; bảo đảm vững chắc trận địa
tư tưởng, lý luận của Đảng. Tăng cường đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn
biến hịa bình”, các luận điệu tun truyền xun tạc của các thế lực thù địch và
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đề cao vai trò, trách
nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong việc nắm bắt, giải quyết và báo cáo kịp
thời về tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên.
Ba là, tiếp tục củng cố các tổ chức cơ sở đảng, đổi mới sinh hoạt chi bộ và
nâng cao chất lượng đảng viên. Chú trọng, quan tâm đến đổi mới sinh hoạt chi bộ
và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; tiếp tục rà soát, sửa đổi, ban hành và
thực hiện các quy định chặt chẽ về kết nạp đảng viên theo hướng nâng cao chất
lượng, kiên quyết không chạy theo số lượng để ngăn chặn những kẻ cơ hội, thực
dụng, cá nhân chủ nghĩa lọt vào hàng ngũ của Đảng. Nghiên cứu để có cách thức
đánh giá, xếp loại đảng viên thực chất hơn, đủ sức thanh lọc, loại bỏ những phần tử
thối hóa, biến chất ra khỏi Đảng.
Bốn là, đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Kết hợp chặt chẽ việc xây
dựng đội ngũ cán bộ với sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính
9
trị, gắn với đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơng tác hành chính, cải cách chế độ công vụ,
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương;
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị
Trung ương lần thứ bảy, khóa XII. Đổi mới và tăng cường công tác cán bộ và quản
lý cán bộ, tập trung khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ, xử lý nghiêm
minh những sai phạm của cán bộ, đảng viên.
Năm là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, góp phần đưa
cuộc đấu tranh phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đạt hiệu
quả. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán
bộ, đảng viên để phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời những hành vi sai phạm. Nội
dung kiểm tra, giám sát phải tồn diện, cả về tư tưởng chính trị, động cơ, thái độ,
năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống và thu nhập, tài sản bất minh của cá
nhân, gia đình cán bộ, đảng viên.
Giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, mọi sai phạm phải có hình thức xử lý kịp
thời, nghiêm minh, công khai, đúng quy định. Chú trọng kiểm tra, giám sát tồn
diện cơng tác cán bộ để kịp thời phát hiện những cán bộ có biểu hiện tham nhũng.
Tăng cường giám sát của tổ chức đảng từ trên xuống, giám sát từ dưới lên, phát
huy vai trò giám sát lẫn nhau trong cùng cấp, lưu ý quản lý, giám sát thường ngày
đối với đảng viên và cán bộ lãnh đạo; kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt,
việc tốt; tạo dư luận lên án và đồng thời xử lý nghiêm những biểu hiện sai phạm
của cán bộ, đảng viên dù ở bất kỳ cương vị cơng tác nào.
Sáu là, tiếp tục hồn thiện thể chế nhằm tăng cường công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phịng, chống suy thối, tiêu cực trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng nhằm tăng
cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phịng, chống suy
thối, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên theo hướng đồng bộ, liên thông,
nhất quán và phù hợp với thực tế. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Đảng về
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các quy định bảo đảm cơ
chế giám sát về tư cách đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức.
Bổ sung, sửa đổi, hồn thiện đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phịng, chống có hiệu quả sự suy
thối, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy, nhất là ở những
lĩnh vực quan trọng, những lĩnh vực có nhiều nguy cơ xảy ra sai phạm, góp phần
10
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng
cao của Đảng ta trong thời kỳ mới.
Phần kết luận
Trong lịch sử, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà
nước lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh tư tưởng về nhà
nước của dân, do dân, vì dân mới được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung,
với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học nhân đạo về bản chất nhà
nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước trong s ạch, vững mạnh và
hiệu quả. Nếu như lấy dân làm gốc là tư tưởng chính trị truyền thống, thì đến Hồ
Chí minh tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị,
tự nhiên “Dân là gốc nước” đúng như câu thơ của Người: Gốc có vững thì cây mới
bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả có giá trị lý luận và thực tế to lớn,
sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Hoạt động lập pháp cần hướng tới mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, đặc biệt là giám sát việc tuân theo pháp
luật của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp và các cơ quan tư pháp, nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ bộ máy Nhà nước... Tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, tăng cường chống tham nhũng,
lãng phí.
Kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được trong những năm qua, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự phối hợp của các tổ
chức trong hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ xây dựng Nhà nước ta thật sự
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thật sự là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
11
Danh mục tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb CTQG-ST, H. 2011, tr.611.
(2) Bản DVD-ROM, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 52, tr.190.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016 của Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(4 Sđd, tập 2, tr. 279, tr. 289.
(5) Sđd, tập 5, tr.273-274, tr. 301, tr. 68.
12