Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Người Dao ở Sa Pa xây dựng di sản văn hóa thành sản phẩm du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.21 KB, 8 trang )

NGƯỜI DAO Ở SA PA XÂY DỰNG DI SẢN VĂN HĨA THÀNH
SẢN PHẨM DU LỊCH
TS. Trần Hữu Sơn
Sở Văn hố, Thể thao và Du lịch Lào Cai
Ở vùng núi cao, người Dao Sa Pa tỉnh Lào
Cai Việt Nam biết phát huy lợi thế di sản văn
hoá phong phú, giàu bản sắc trở thành sản
phẩm du lịch hấp dẫn. Tìm hiểu q trình “xây
dựng di sản văn hố trở thành sản phẩm du
lịch” của người Dao Sa Pa nhằm mục đích tìm
hiểu kinh nghiệm phát huy lợi thế bản sắc văn
hố dân tộc nhằm phát triển sản phẩm du lịch.
Đồng thời cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa
vấn đề khai thác tài nguyên du lịch với bảo vệ
văn hoá truyền thống, xây dựng phương thức
phát triển du lịch bền vững.
1. Trước khi giải quyết các luận điểm cụ
thể cần thống nhất một số khái niệm cơ bản
như “di sản văn hoá”, “sản phẩm du lịch”.
- Di sản văn hố là tồn bộ sản phẩm tinh
thần, vật chất, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác của người Dao bằng trí nhớ, chữ viết,
truyền miêng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức lưu giữ, lưu truyền khác26. Di sản
văn hố gồm có các di sản văn hoá vật thể và
di sản văn hoá phi vật thể. Di sản văn hoá vật
thể bao gồm di tích lịch sử, văn hố, danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và
các hiện vật vật chất trong cộng đồng người
Dao có nhiều giá trị lịch sử, văn hố, khoa học


như kiến trúc ngơi nhà, rừng thiêng thờ thần,
ruộng bậc thang. Di sản văn hố vật thể của
người Dao gồm tiếng nói, chữ viết Nôm Dao,
tác phẩm văn học, nghệ thuật, phong tục tập
quán, lễ hội, tri thức dân gian, bí quyết về nghề
thủ cơng...
- Sản phẩm du lịch là tồn bộ các dịch vụ,
hàng hoá cung cấp cho du khách nhằm thoả
mãn như cầu đi du lịch. Sản phẩm du lịch ở
các làng người Dao Sa Pa là các nhà nghỉ cộng
đồng, phương tiện đi lại, văn hoá ẩm thực cung
26

Luật di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi
hành (2003) – Nhà xuất bản chính trị quốc gia

ứng cho du khách, các điểm tham quan (kiến
trúc, ruộng bậc thang, rừng thiêng, rừng thảo
quả...), các tiết mục văn nghệ, trò chơi dân
gian, đồ thủ công, dịch vụ tắm thuốc...
2. Người Dao ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai
Việt Nam là ngành Dao đỏ (Đại Bản) thuộc
phương ngữ “Kiềm Miền”, có hơn 1 vạn người
cư trú tại 41 làng thuộc các xã Bản Khoang, Tả
Phìn, Trung Chải, Tả Van, Thanh Kim, Bản
Phùng, Bản Hồ, Thanh Phú, Nậm Sài, Nậm
Cang, Suối Thầu, Sử Pán. Huyện Sa Pa là một
trọng điểm du lịch lớn nhất ở miền núi của
Việt Nam. Mỗi năm Sa Pa đón gần 50 vạn lượt
du khách, trong đó có gần 25 vạn là du khách

quốc tế bao gồm 85 quốc tịch và vùng lãnh thổ
khác nhau. Người Dao ở Sa Pa cư trú tập trung
ở 4 tuyến du lịch của huyện là Sa Pa - Tả Phìn,
Sa Pa - Tả Van - Bản Dền - Suối Thầu và Sa
Pa - Nậm Sài - Nậm Cang, Sa Pa - Bản
Khoang - Tả Giàng Phình. Người Dao cư trú ở
một trọng điểm du lịch, nhiều làng người Dao
trở thành điểm du lịch hấp dẫn đã tạo điều kiện
rất thuận lợi cho người Dao ở Sa Pa phát huy
lợi thế tài nguyên du lịch để tạo ra các sản
phẩm du lịch hấp dẫn du khách.
Vùng người Dao cư trú nằm trên độ cao
từ 1000 – 1.600m ven rừng quốc gia Hoàng
Liên. Địa bàn cư trú của người Dao là vùng đa
dạng sinh học có hàng trăm lồi động vật, lồi
thực vật. Trong đó có nhiều loài đặc hữu. Các
làng người Dao ở Sa Pa đều có phong cảnh
đẹp. Làng ở ven suối, thác nước. Quanh làng
có hệ thống rừng già, hang động và ruộng bậc
thang kỳ vĩ. Tất cả phong cảnh, môi trường đã
tạo nên tài nguyên du lịch tự nhiên của miền
núi hấp dẫn. Càng hấp dẫn du khách hơn khi
mà tài nguyên du lịch tự nhiên lại hoà quyện
với tài nguyên du lịch nhân văn. Đó là hệ
thống tín ngưỡng giàu bản sắc với các phong
tục, nghi lễ độc đáo như lễ “pút tồng”, lễ cấp
sắc, lễ Bàn Vương, lễ cưới, lễ làm nhà mới. Đó

245



là hệ thống nghệ thuật diễn xướng với di sản
dân ca, dân vũ phong phú. Đặc biệt người Dao
ở Sa Pa cịn bảo tồn được các nghề thủ cơng
nổi tiếng như nghề chạm khắc bạc, thêu dệt thổ
cẩm, nghề mộc...
Trong khi đó nhu cầu du khách đến thăm
bản làng người Dao và các dân tộc anh em
trong vùng rất cao. Năm 2004, khi phỏng vấn
500 du khách châu Âu đến Sa Pa, đồn khảo
sát của trường Đại học Bc – Đơ của Pháp
cho biết kết quả có 72 – 80% du khách muốn
đến thăm các bản làng. Năm 2007, tỷ lệ số du
khách đến thăm bản làng các dân tộc tại tăng
cao chiếm 87% du khách quốc tế. Nhiều làng
của người Dao trở thành điểm du lịch hấp dẫn.
Xã Bản Hồ (có làng Nậm Tống người Dao)
năm 2007 đón 1vạn 2000 du khách quốc tế. Xã
Tả Phìn có đơng người Dao năm đơng nhất
(2008) cũng đón gần 1 vạn 5 ngàn lượt du
khách. Các điểm du lịch ở Tả Van, Nậm Cang,
Suối Thầu cũng đón từ 2000 – 4000 du khách
trong 1 năm. Như vậy, tỉ lệ hộ nghèo ở các
điểm du lịch giàu nhanh gấp 2 – 3 lần so với
các nơi khác. Thu nhập từ du lịch của người
Dao cũng chiếm từ 10% - 40% đồng thu nhập
gia đình. Có được kết quả như vậy là nhờ
người Dao ở Sa Pa xây dựng được chương
trình “biến di sản thành sản phẩm du lịch”.
3. Chương trình biến di sản thành sản

phẩm du lịch của người Dao:
3.1 Nghiên cứu nhu cầu của du khách
Người Dao ở Sa Pa có điều kiện thuận lợi
là nằm trong vùng trọng điểm du lịch quốc gia,
lượng du khách đến với các bản làng hàng năm
rất đông. Nhưng muốn khai thác phát huy các
di sản văn hoá của người Dao sản xuất thành
sản phẩm du lịch đòi hỏi người Dao phải tiến
hành nghiên cứu nhu cầu của du khách. Ngay
từ những năm đầu thế kỷ XXI, được sự giúp
đỡ của một số tổ chức phi chính phủ, Sở Văn
hố, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai phối hợp
với người dân ở các điểm du lịch tiến hành
nghiên cứu nhu cầu của du khách quốc tế. Qua
nghiên cứu (bằng phương pháp phát phiếu
phỏng vấn và phỏng vấn sâu) đã thu được kết
quả cụ thể như sau:

246

- 90% du khách thích nghe hướng dẫn
viên du lịch là người Dao, người HMông bản
địa. 71% du khách muốn được ngủ và ăn ngay
tại cộng đồng các làng người Dao. Đặc biệt là
ở các điểm du lịch xa trung tâm huyện lị từ 10
– 20 km thì du khách càng có nhu cầu nghỉ tại
cộng đồng thơn bản.
- 81% du khách muốn được tham gia vào
các hoạt động của người dân như dệt vải, làm
ẩm thực, chế biến thuốc tắm...

- 83% du khách muốn mua sản phẩm đồ
lưu niệm ngay tại nơi sản xuất của người dân ở
các hộ gia đình.
3.2 Từ nghiên cứu nhu cầu du khách,
ngành Văn hố, Thể thao và Du lịch Lào Cai
và chính quyền huyện Sa Pa đã phối hợp với
các nhà tư vấn nghiên cứu xây dựng mơ hình
du lịch cộng đồng. Mơ hình này lần đầu tiên
xây dựng thí điểm tại thơn bản Dền xã Bản Hồ
ở Sa Pa (từ năm 2001 – 2005). Những năm gần
đây mơ hình du lịch cộng đồng được nghiên
cứu xây dựng tại thôn Sả Xéng xã Tả Phìn,
thơn Nậm Tống xã Bản Hồ, thơn Tả Van và
thôn Giàng Tà Chải xã Tả Van, thôn Nậm
Cang xã Nậm Cang, huyện Sa Pa...Trong mơ
hình du lịch cộng đồng ln đề cao vai trị của
người Dao bản địa. Người Dao phải thực sự là
chủ nhân có quyền tham gia các hoạt động du
lịch và phải được hưởng lợi từ các hoạt động
du lịch. Các doanh nghiệp nhà nước chia xẻ
quyền lợi cho cộng đồng người Dao thông qua
hệ thống các dịch vụ thuộc cộng đồng như nhà
nghỉ của người dân (homestay), bán sản phẩm
đồ thủ công, cung cấp dịch vụ ăn uống, đi
lại...Du lịch cộng đồng là sự kết hợp của 4
nhóm nhân tố: du khách, doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ, cư dân bản địa (người Dao), chính
quyền cơ sở.
Bốn yếu tố này quan hệ khăng khít
với nhau. Du khách muốn thỏa mãn các nhu

cầu du lịch thì phải có các doanh nghiệp cung
cấp, có người dân bản địa (người Dao) tham
gia, và được chính quyền địa phương tạo điều
kiện thuận lợi trong quản lý, định hướng.
Người dân muốn thu được nhiều lợi nhuận qua
hệ thống dịch vụ đều thành lập ban đại diện


của những gia đình tham gia dịch vụ du lịch.
Ban đại diện là đầu mối nhằm quản lý các dịch
vụ lưu trú, ăn nghỉ, sinh hoạt...Đặc biệt, ban
đại diện có quyền thống nhất về giá cả nhằm
tránh tình trạng doanh nghiệp bắt chẹt từng hộ
gia đình, ép các hộ gia đình giảm giá để thu lợi
ích riêng của doanh nghiệp. Trước đây doanh
nghiệp chỉ đưa du khách đến các làng người
Dao tham quan mà không phải trả tiền cho
người dân, thậm chí khơng mua hàng của
người dân. Người Dao bản địa là chủ nhân của
các tài nguyên du lịch thì lại không được
hưởng lợi. Các doanh nghiệp từ Hà Nội, thị
trấn Sa Pa, ở xa các bản làng người Dao lại
đứng ra thu lợi lớn trên địa bàn người Dao. Sự
bất bình đẳng này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa
người dân bản địa với các doanh nghiệp và
khách du lịch. Người dân không cho chụp ảnh
hoặc du khách muốn chụp ảnh thì phải trả tiền
trực tiếp cho người dân, người dân chèo kéo ép
du khách phải mua hàng gây phiền hà cho du
khách. Nhưng từ khi chính quyền huyện Sa Pa

và ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối
hợp xây dựng mơ hình du lịch cộng đồng, đề
cao vai trị người dân thì các tệ nạn này đã
giảm nhanh chóng, nhất là ở vùng Nậm Cang
và Bản Hồ. Mặt khác, chính quyền tạo điều
kiện cho cộng đồng (thơng qua các ban đại
diện, ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đoàn thể) được
vay vốn ưu đãi tại ngân hàng hoặc vay vốn ưu
đãi của quỹ khuyến công đầu tư cho người Dao
kinh doanh các sản phẩm du lịch.
3.3 Từ những quan điểm, cách xây dựng
mơ hình du lịch cộng đồng trên, người Dao ở
Sa Pa đã phát huy được lợi thế về di sản văn
hoá dân tộc nhằm sản xuất các sản phẩm du
lịch.
3.3.1 Người Dao khơi dậy nghề thủ công
truyền thống.
Người Dao ở Sa Pa có nhiều nghề thủ
cơng truyền thống có giá trị văn hố cao như
nghề chạm khắc bạc, nghề thêu dệt thổ cẩm
làm trang phục, nghề rèn đúc, nghề làm đồ
mộc...Tuy nhiên, các nghề này chỉ là nghề phụ
mang tính chất hỗ trợ cho trồng trọt là chính.
Sản phẩm của các nghề thủ cơng này chưa trở

thành sản xuất hàng hố mà chỉ mang nặng
tính tự cung tự cấp, đáp ứng riêng cho nhu cầu
của từng gia đình. Nhưng từ khi du lịch phát
triển, người Dao ở Sa Pa đã lựa chọn một số
nghề để đầu tư tổ chức sản xuất tạo ra sản

phẩm cho du lịch. Điền hình là nghề thêu dệt
thổ cẩm. Hội phụ nữ các xã Tả Phìn, Suối
Thầu, Nậm Cang đã tổ chức các câu lạc bộ sản
xuất thổ cẩm. Câu lạc bộ của hội phụ nữ xã Tả
Phìn có đến 300 hội viên tham gia. Câu lạc bộ
sản xuất thổ cẩm của phụ nữ xã Nậm Cang có
gần 100 hội viên tham gia...Các câu lạc bộ này
được các tổ chức phi chính phủ tư vấn về mẫu
mã sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm bước đầu.
Chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho vay vốn, tổ chức lớp dạy nghề
miễn phí cho người dân. Nhờ vậy mỗi người
tham gia sản xuất các sản phẩm phục vụ du
lịch đều có thu nhập cao. Bình quân mỗi người
thu nhập từ 300.000 – 500.000đ/tháng. Có một
số hội viên như các chị Lý Mẩy Chạn, Lý Tả
Dùng, Lý Mẩy Pham, Chảo Mẩy Cói...của xã
Tả Phìn thu nhập mỗi năm từ 4 – 7 triệu đồng
nhờ bán các sản phẩm cho du khách. Một số
hội viên vừa sản xuất vừa trực tiếp bán sản
phẩm mỗi tháng cũng thu nhập từ 1 – 2 triệu
đồng. Đây là mức thu nhập rất cao của một lao
động người Dao ở Sa Pa.
Nguyên tắc sản xuất nghề thủ công cũng
như thêu dệt sản phẩm du lịch phải đảm bảo
các yếu tố như kế thừa di sản văn hoá truyền
thống. Trong nghề thêu dệt thổ cẩm phụ nữ
người Dao đều giữ gìn một số hoa văn cổ độc
đáo có dấu ấn riêng của văn hoá tộc người.
Các hoạ tiết hoa văn phổ biến là thêu hình cây

thơng, thêu hình thầy cúng, hình cây đèn trong
lễ cấp sắc hoặc dấu ấn về Bàn vương, hình
tượng dấu chân của con chó...Người Dao cũng
giữ gìn bảng màu truyền thống gồm có 4 màu
chủ đạo là vàng, đen, đỏ, trắng. Trong đó, đề
cao cách phối màu đối chọi của hoa văn truyền
thống như màu đỏ đi liền với màu trắng, màu
vàng thêu liền kề với màu trắng, màu trắng
trên nền vải chàm đen...Phương pháp sử dụng
màu đối chọi như vậy càng làm nổi bật hoạ tiết
hoa văn tạo ra chất rực rỡ và hấp dẫn của hoa

247


văn người Dao. Tuy nhiên, sản phẩm nghề
thêu dệt thổ cẩm thì lại sản xuất đa dạng, phù
hợp với nhu cầu của du khách như các sản
phẩm làm đệm, gối, túi đeo điện thoại di động,
ví, mũ, túi xách tay, ba lô du lịch...
Trong nghề chạm khắc bạc cũng vậy,
người Dao sản xuất đa dạng hoá các sản phẩm
như nhẫn, vịng tay, sợi dây chuyền bạc, các
hình kỷ niệm bằng bạc...Nhưng mơ típ hoa văn
chạm khắc trên bạc vẫn là các mơ típ hoa văn
cổ truyền. Đồng thời một số cơ sở chạm khắc
bạc chỉ sản xuất sản phẩm bằng bạc nguyên
chất nhằm giữ uy tín của bạc trắng chứ không
sản xuất các loại sản phẩm bằng nhôm, hợp
kim.

Người Dao ở Tả Phìn, Nậm Cang Sa Pa
trước đây có nghề làm trống, nghề đóng đồ
mộc ghép các thùng gỗ đựng nước...Nhưng sản
phẩm của đồ mộc chủ yếu phục vụ nhu cầu
sinh hoạt của người dân. Ngày nay, qua tìm
hiểu nhu cầu của du khách thấy nghề làm mộc
có thể sản xuất ra nhiều đồ lưu niệm giá trị nên
ông Lý Phủ Kinh ở Tả Phìn đã tập hợp một số
nghệ nhân thành lập câu lạc bộ sản xuất các
loại trống và đồ lưu niệm. Hiện nay, câu lạc bộ
sản xuất của ông đã làm ra rất nhiều loại trống
khác nhau theo nhu cầu của du khách như các
loại trống nhỏ làm đồ lưu niệm, các loại trống
trung bình đến các loại trống lớn làm vật trang
trí trong các nhà hàng, khách sạn...Sản phẩm
của câu lạc bộ đã có thương hiệu, uy tín trên
thị trường, được bày bán ở nhiều cửa hàng ở
thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa và các cửa
hàng bán đồ lưu niệm tại Hà Nội, thành phố
Hạ Long. Trung bình mỗi một tháng câu lạc bộ
sản xuất trống của ông Lý Phủ Kinh sản xuất
được từ 20 – 40 chiếc trống trung bình và
trống đại và nhiều trống nhỏ làm đồ lưu niệm.
Mỗi tháng các nghệ nhân của câu lạc bộ đều có
thu nhập từ 1,5 – 2 triệu đồng một người.
Nhìn chung, các nghề thủ công phục vụ
khách du lịch của người Dao Sa Pa đã được
khơi phục và phát triển. Nhờ có du lịch nên
nghề thủ công truyền thống của người Dao đã
trở thành hàng hố, sản phẩm du lịch chứ

khơng chỉ là những sản phẩm tự cung tự cấp

248

cho gia đình. Tuy nhiên, các sản phẩm nghề
thủ công phục vụ du lịch của người Dao dù có
đa dạng, phong phú nhưng vẫn đảm bảo các
nguyên tắc cụ thể:
- Các sản phẩm thủ công đều kế thừa kỹ
thuật, hoạ tiết, thẩm mĩ truyền thống. Đặc biệt,
nhiều sản phẩm của nghề thêu dệt thổ cẩm,
chạm khắc bạc đều nhằm chuyển tải bản sắc
văn hoá người Dao thơng qua các hoạ tiết, các
biểu tượng giàu tính thẩm mĩ.
- Các sản phẩm thủ công này đều đảm bảo
nguyên tắc sản phẩm bằng thủ công, không sử
dụng máy móc, khơng sử dụng đồ sản xuất
cơng nghiệp làm ngun vật liệu. Các sản
phẩm thêu dệt thổ cẩm đều thêu bằng tay và
dùng vải thô với các khung dệt cổ truyền chứ
khơng dùng sản phẩm dệt của máy móc hiện
đại.
- Các sản phẩm thủ cơng đều đa dạng hố
về mẫu mã, chủng loại đáp ứng với nhu cầu
hiện tại của du khách.
- Các sản phẩm thủ công đều gọn nhẹ, dễ
chun chở và giá thành khơng q đắt mục
đích nhằm bán được nhiều sản phẩm.
3.3.2 Khơi dậy dịch vụ tắm lá thuốc:
Trước đây người Dao là dân tộc rất giỏi

về y học cổ truyền, sử dụng dược liệu chữa
bệnh nổi tiếng trong cộng đồng các dân tộc ở
Sa Pa. Phụ nữ người Dao đều có kho tàng tri
thức về dược học, nhiều người trở thành những
người thầy thuốc nổi tiếng. Trong cuộc sống
thường ngày của xã hội người Dao cổ truyền,
người Dao đã sử dụng tắm lá thuốc để đảm bảo
sức khoẻ của các thành viên gia đình. Nhưng
hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu du khách,
người Dao đã phát huy việc lấy lá chế biến
thuốc tắm trở thành hàng hố phục vụ du lịch.
Riêng ở thơn Sả Xéng xã Tả Phìn huyện Sa Pa
có 11 hộ kinh doanh nghề tắm lá thuốc. Các
thôn Nậm Tống, Nậm Cang, Giàng Tà
Chải...đều có các hộ kinh doanh dịch vụ tắm lá
thuốc. Bình quân mỗi gia đình mỗi tháng cũng
thu nhập được từ 500.000 – 2 triệu đồng từ
dịch vụ lấy và chế biến thuốc lá cho du khách
tắm.


3.3.3 Khai thác nhà ở thành nhà nghỉ cộng
đồng:
Nhà người Dao truyền thống thường chật
hẹp và ít có cơng trình vệ sinh. Nhưng hiện
nay, trước nhu cầu du khách thích nghỉ tại bản
làng nên nhiều hộ gia đình người Dao đã tu
sửa ngôi nhà trở thành nhà nghỉ cộng đồng
phục vụ du khách (homestay). Năm 2005, ở xã
Tả Phìn huyện Sa Pa chỉ có 2 gia đình tu sửa

ngơi nhà của mình thành nhà nghỉ cộng đồng
thì đến nay đã có 11 hộ gia đình làm dịch vụ
homestay. Ở Nậm Cang, Bản Hồ, Nậm Sài
cũng có nhiều hộ xây dựng ngôi nhà mới hoặc
tu sửa nhà cũ trở thành nhà nghỉ cộng đồng.
Các ngôi nhà này đều giữ kiến trúc, khuôn
viên, mặt bằng, kết cấu bên trong giống như
ngôi nhà cổ truyền. Nhưng làm thêm 1, 2 gian
ở phía trước cửa nhà làm nhà nghỉ cho du
khách vì quan niệm các du khách không làm
ảnh hưởng đến bàn thờ tổ tiên và sinh hoạt của
các thành viên gia đình truyền thống. Các
phịng nghỉ đều bố trí như kiểu nhà nghỉ bình
dân, có đồ dùng mới, tủ, bàn ghế, ti vi và có
cơng trình vệ sinh khép kín. Tuy nhiên, vật liệu
xây dựng đều là những vật liệu truyền thống
gỗ, tre, không sử dụng các vật liệu hiện đại
như xi măng, gạch, ngói. Như vậy, người Dao
vẫn giữ được kiến trúc và nếp sống truyền
thống trong ngôi nhà đồng thời cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho du khách sử dụng các dịch
vụ của kiểu nhà nghỉ (có ti vi, có hệ thống vệ
sinh đảm bảo). Nhờ vậy, số du khách nghỉ tại
các nhà nghỉ truyền thống của người Dao tăng
rất nhanh. Năm 2005 mới có 200 du khách
nghỉ tại các nhà nghỉ cộng đồng ở Tả Phìn thì
đến năm 2008 đã tăng lên 514 du khách, và
năm 2009 là 1.187 du khách đã nghỉ tại 11 nhà
nghỉ của người Dao ở thôn Sả Séng. Ở Nậm
Cang, Bản Hồ, Giàng Tà Chải có vị trí xa

trung tâm huyện lỵ nên số du khách nghỉ tại
các nhà nghỉ cộng đồng đều tăng nhanh. Bình
quân mỗi nhà nghỉ ở các vùng này mỗi năm
cũng đón từ 300 – 500 lượt du khách.
Bên cạnh các dịch vụ phục vụ du lịch
trên, người Dao ở Sa Pa cịn biết phát huy di
sản văn hố truyền thống tạo thành nhiều sản

phẩm và các yếu tố của sản phẩm du lịch. Các
thôn bản người Dao được chọn làm điểm du
lịch đều xây dựng các đội văn nghệ dân gian,
khai thác các di sản dân ca dân vũ truyền thống
của người Dao xây dựng thành các tiết mục,
chương trình văn nghệ. Đội văn nghệ xã Tả
Phìn huyện Sa pa đã khai thác các điệu múa
chuông, múa kiếm, múa đèn, các điệu nhảy
trong lễ “pút tồng”, các điệu nhảy “bát quái”
để xây dựng các chương trình văn nghệ phục
vụ du khách. Đội văn nghệ ở thôn Nậm Cang
xã Nậm Cang lại trích đoạn một số nghi thức
độc đáo trong lễ “chải miến”, lễ cấp sắc hoặc
sử dụng các làn điệu kèn pí lè xây dựng các
chương trình văn nghệ. Đội nhạc kèn pí lè
đóng vai trị rất quan trọng trong lễ cưới của
người Dao truyền thống. Từ nghi thức đi đón
dâu, chào đồn nhà gái, mời thống gia, răn dạy
cơ dâu, lễ báo tổ tiên...cho đến lễ mời ăn tiệc
cưới, mời hát trong đám cưới...đều sử dụng
nhạc kèn pí lè. Các đội văn nghệ của người
Dao đã phát huy các làn điệu kèn truyền thống

trở thành các điệu kèn đón chào du khách, mời
tiệc du khách, tặng quà du khách...Nhờ khai
thác các chất liệu dân gian truyền thống nên
các chương trình biểu diễn nghệ thuật phục vụ
du khách đều giàu bản sắc và hấp dẫn. Ở các
điểm du lịch của người Dao ở Sa pa đã phối
hợp với các doanh nghiệp tổ chức quảng bá
các ngày lễ, các ngày hội, các ngày sinh hoạt
cộng đồng cho du khách. Các sinh hoạt này đã
được các hãng lữ hành xây dựng thành các sản
phẩm du lịch chào bán cho khách quốc tế. Đặc
biệt du khách rất thích xem các cảnh hát giao
duyên, các lễ cưới, lễ “pút tồng”...của người
Dao.
3.4 Nguyên tắc khai thác di sản văn hoá
trở thành sản phẩm du lịch
Từ thực tiễn xây dựng du lịch cộng đồng,
khai thác các di sản văn hoá tạo thành các sản
phẩm du lịch ở vùng người Dao Sa Pa đã đúc
kết trở thành một số nguyên tắc và phương
châm cụ thể:
- Đề cao vai trò của cộng đồng: cộng
đồng người Dao ở các điểm du lịch phải được
xây dựng trở thành chủ nhân của điểm du lịch

249


đó. Các doanh nghiệp muốn chào bán các sản
phẩm du lịch ở vùng người Dao thì phải quan

tâm chia xẻ lợi ích cho cộng đồng. Đây là vấn
đề rất quan trọng quyết định thành cơng hay
thất bại của mơ hình du lịch cộng đồng ở Sa
Pa. Chỉ khi nào cộng đồng người Dao, người
dân có thu nhập bình đẳng, có lợi ích thoả
đáng từ các nguồn thu du lịch thì lúc đó mới
phát triển được dịch vụ du lịch ở vùng người
Dao. Nhiều trường hợp xảy ra khi lợi ích người
dân ở các làng bản bị coi nhẹ đã dẫn đến việc
suy tàn các điểm du lịch ở vùng người Dao.
Ngược lại, lợi ích của người dân càng được đề
cao, quan tâm thì điểm du lịch đó càng hấp
dẫn, thu hút được đơng du khách đến thăm.
Ngun tắc này địi hịi có sự quản lý của
chính quyền địa phương bằng các chế tài yêu
cầu các doanh nghiệp phải chia lợi nhuận bình
đẳng với người dân.
- Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng
người Dao phải theo định hướng phát triển du
lịch bền vững. Khơng chỉ nhìn lợi ích trước
mắt mà cịn nhìn lợi ích lâu dài cho thế hệ mai
sau của người Dao làm du lịch. Vấn đề này
liên quan đến cả việc quy hoạch du lịch, chính
sách phát triển du lịch, gắn vấn đề phát triển du
lịch với bảo vệ môi trường...Đặc biệt trong vấn
đề phát huy giá trị văn hoá truyền thống để tạo
ra các sản phẩm du lịch, các dịch vụ du lịch
đòi hỏi phải thực hiện nghiêm chỉnh các
nguyên tắc cụ thể như sau:
+ Các sản phẩm du lịch đều phải thấm

đậm các yếu tố văn hoá truyền thống của cộng
đồng người Dao. Nhờ các yếu tố văn hố
truyền thống này mới đảm bảo tính độc đáo và
hấp dẫn, sức hút đối với du khách của điểm du
lịch cộng đồng người Dao. Kinh nghiệm này
được đúc kết qua q trình phát triển nghề thủ
cơng thêu dệt thổ cẩm của người Dao ở Sa Pa.
Cuối những năm 90 của thế kỷ XX người Dao
ở Sa Pa sản xuất đồ lưu niệm, thổ cẩm bằng
các mẫu mã của các hãng lữ hàng áp đặt.
Nhiều sản phẩm của người Dao ở Sa Pa cũng
giống như sản phẩm ở Côn Minh hoặc của
người Lào, người Thái ở Thái Lan. Không có
bản sắc riêng nên nhiều sản phẩm thổ cẩm

250

khơng bán được, du khách quay lưng với sản
phẩm thổ cẩm người Dao. Từ những năm đầu
thế kỷ XXI, nhờ các nhà khoa học và các tổ
chức phi chính phủ tư vấn người Dao đã kế
thừa các giá trị thẩm mĩ trong việc sản xuất đồ
lưu niệm và thổ cẩm. Các sản phẩm thổ cẩm
người Dao ở Sa Pa có nét độc đáo riêng, bản
sắc riêng. Do đó mặt hàng thổ cẩm đã phát
triển mạnh mẽ. Thổ cẩm người Dao Sa Pa
không chỉ bán cho du khách đến Sa Pa mà
hàng tháng xuất khẩu sang các thị trường Mĩ,
Châu Âu và các trung tâm du lịch ở Việt Nam
như Hà Nội, Hạ Long, Huế, thành phố Hồ Chí

Minh.
+ Các chương trình văn nghệ, các nghi lễ
trình diễn, các sinh hoạt văn hố của người
Dao phải tơn trọng tính khách quan, chân thực
của bản sắc người Dao. Đồng thời tuyệt đối
không làm giả các sinh hoạt văn hố truyền
thống nhằm mục đích thu hút khách. Ở nhiều
vùng du lịch khác người ta tổ chức các đám
cưới giả, các ngày hội giả, thậm chí đóng giả
cả các nghi lễ xa man cầu cúng thần linh để thu
hút khách. Thời kỳ đầu các màn trình diễn giả
này đã thu hút một khối lượng lớn khách du
lịch tham quan. Nhưng dần dần khi du khách
phát hiện các trị diễn này là đồ giả, đồ mơ
phỏng và khơng có mơi trường sống thực tại
thì du khách khơng xem các trị trình diễn này
nữa. Vì vậy, ở Sa Pa không tổ chức các đám
cưới giả, không tổ chức các lễ “pút tồng” giả,
không tổ chức các lễ cúng thần giả mang tính
chất câu khách. Nhưng muốn thu hút được
đông khách, một số điểm du lịch của người
Dao đã khảo sát, thống kê lịch trình các ngày
lễ, ngày tết, các sinh hoạt cộng đồng trong một
năm thông báo cho du khách, đồng thời quảng
bá, giới thiệu cho du khách để du khách đến
tham quan trong khung cảnh thật.
+ Các điểm du lịch cộng đồng của người
Dao ở Sa Pa khơng nhằm mục đích thu hút q
nhiều khách, dẫn đến tình trạng quá tải. Các
ban quản lý du lịch cộng đồng phối hợp với

các hãng lữ hành tổ chức cho du khách đến
tham quan, bình quân mỗi năm mỗi điểm đón
từ 1 – 3 vạn khách. Các điểm du lịch không


đón nhiều du khách nhằm đảm bảo mơi
trường, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Như vậy, vấn đề bảo tồn bản sắc văn hoá
dân tộc người Dao với việc phát triển du lịch
có mối quan hệ khăng khít với nhau:
- Muốn phát triển du lịch theo hướng bền
vững đòi hỏi cộng đồng người Dao ở các điểm
du lịch phải bảo vệ được bản sắc văn hố dân
tộc. Vì bản sắc văn hố khơng chỉ là tài ngun
mà cịn là tài sản sản xuất ra các sản phẩm du
lịch. Đánh mất bản sắc văn hố dân tộc thì
điểm du lịch đó sẽ lụi tàn khơng cịn sức hấp
dẫn du khách. Nhưng muốn giữ gìn phát huy
được bản sắc văn hố dân tộc địi hỏi phải có
hệ thống chính sách đồng bộ như chính sách
tơn trọng tự do tín ngưỡng của người dân,
chính sách tơn vinh các nghệ nhân và các di
sản văn hố độc đáo, chính sách khuyến khích
tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm du
lịch phát triển, chính sách đào tạo trao truyền
di sản văn hố dân tộc qua các thế hệ (đặc biệt
đưa việc thực hành vốn dân ca dân vũ, trị chơi
trở thành mơn học ngoại khoá ở các trường
học).
- Du lịch phát triển tạo thêm thu nhập cho

người dân, giúp cho người dân càng nhận thức
rõ về vai trị của di sản văn hố truyền thống
với vấn đề sản xuất các sản phẩm du lịch. Vì
vậy, du lịch phát triển tạo thêm nguồn thu cho
người dân có điều kiện để giữ gìn phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Người dân ( nhất là lớp
trẻ) rất tự hào về bản sắc văn hoá của dân tộc
mình. Do đó, họ đã khơi dậy các nghề thủ
cơng, nghề làm thuốc, các nghi lễ tín ngưỡng

đã có thời gian bị mai một. Thậm chí lớp trẻ
khi tiếp xúc với du khách, khi bán hàng thổ
cẩm đều tự giác mặc trang phục dân tộc.
Kết luận
Các làng người Dao ở Sa Pa đang xây
dựng trở thành những điểm sáng về du lịch
cộng đồng. Du lịch cộng đồng đã hình thành
và phát triển, mỗi năm đều đón nhiều du
khách, góp phần xố đói giảm nghèo, nâng cao
đời sống của người dân. Có được những thành
quả như vậy là nhờ người Dao ở Sa Pa đã xây
dựng thành cơng mơ hình du lịch cộng đồng có
sự liên kết chặt chẽ của “4 nhà”. Nhà nước
định hướng và xây dựng chính sách quản lý
phát triển du lịch cho toàn vùng. Các gia đình
người dân tham gia làm du lịch đều có quyền
lợi và nghĩa vụ bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.
Các nhà doanh nghiệp tăng cường quảng bá
đưa du khách đến tham quan. Các nhà tư vấn
(nhất là tổ chức phi chính phủ SNV) đã góp

phần tư vấn cho người dân các biện pháp phát
triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời các
điểm du lịch cộng đồng người Dao ở Sa Pa
không chỉ coi trọng chất liệu truyền thống để
xây dựng các sản phẩm du lịch, mà quan trong
hơn là thực hành các di sản văn hoá ngay tại
cộng đồng theo hướng phát triển du lịch bền
vững. Bản sắc văn hoá dân tộc trở thành nguồn
lực cho du lịch cộng đồng người Dao phát
triển. Ngược lại, du lịch càng phát triển thì
càng khuyến khích người dân bảo tồn được di
sản văn hố truyền thống của dân tộc mình.

251


Tài liệu tham khảo
1. Phạm Trung Lương (Chủ biên) – Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam – Nhà xuất bản
Giáo dục – năm 2000
2. Trần Hữu Sơn (Chủ biên)– Sách cổ người Dao, tập I – Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc Hà Nội –
năm 2009
3. Trần Đức Thanh - Nhập môn khoa học du lịch – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội – năm
1999
4. Bùi Thị Hải Yến – Quy hoạch du lịch – Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2006
5. Các bản tin du lịch của Tổng cục Du lịch – năm 2008, 2009.
1. Dong Zhiyong (Chủ biên) - Du lịch rừng của Trung Quốc - Cồ Hải Công nghiệp xuất bản xã –
năm 2001
2. Cao Lộ Gia (Chủ biên) - Đề cương nhân loại học du lịch Trung Quốc – Nhà xuất bản Du lịch
Quảng Tây – Tháng 11/2004

3. Từ Tổ Tường – Văn hoá sử tộc Dao – Nhà xuất bản Dân tộc Vân Nam – năm 2001.
4. Ngọc Thời Giai - Biến thiên văn hoá dân tộc Dao – Nhà xuất bản Dân tộc Bắc Kinh – năm
2005.

252



×