SỰ GIAO LƯU VÀ BẢO TỒN BẢN NGỮ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER
KHU VỰC MIỀN NÚI BIÊN GIỚI TÂY NAM BỘ
Nguyễn Thuận Quý
Đại học Đồng Tháp
Tóm tắt :Tây Nam bộ ngày nay chiếm 12,1% diện tích và 19,8% tổng dân số cả nước, trong đó
có gần 1,2 triệu người Khmer. Cư dân Khmer tập trung sinh sống khá đông ở các tỉnh miền núi biên
giới Tây Nam bộ như Kiên Giang, An Giang, trong các phum, sóc, ngồi người Khmer cịn có cộng
đồng các tộc người Việt, Hoa, Chăm. Trong q trình giao lưu kinh tế - văn hóa đã giúp các tộc người
xích lại gần nhau, siết chặt tình đoàn kết cộng đồng đa tộc người vùng miền búi biên giới Tây Nam bộ.
Với khơng gian văn hóa mở, người Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ có thể nói được tiếng
Hoa, Chăm, Việt, đồng thời vẫn bảo tồn được bản ngữ của mình thơng qua nhiều hoạt động, với nhiều
hình thức. Bên cạnh đó, các tộc người khác trên địa bàn vẫn nói được tiếng Khmer trong giao tiếp
hàng ngày. Thật khó để phân biệt được thành phần tộc người trong một cuộc trị chuyện của những
nhóm người nói cùng một ngơn ngữ thành thạo nếu bản thân họ khơng cho biết mình thuộc tộc người
nào. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, một bộ phận giới trẻ Khmer ngày nay bị phai nhạt bản
ngữ trên phương diện nói lẫn viết, gây khó khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống có
liên quan đến yếu tố ngơn ngữ Khmer.
Do đó, tìm hiểu về sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền
núi biên giới Tây Nam bộ sẽ góp phần gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người
Khmer Tây Nam bộ.
Từ khóa: Tây nam bộ, ngơn ngữ Khmer, người Khmer, giao lưu văn hóa, bảo tồn bản ngữ
1. Bản ngữ và cộng đồng người Khmer miền
núi biên giới Tây Nam bộ
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi
dân tộc có ngơn ngữ riêng, sống cộng cư với
nhau trong các thơn, xóm, ấp, bản. Do nhu cầu
giao tiếp, những người thuộc các dân tộc khác
phải có một kênh hiểu biết chung, đó chính là
chiếc thuyền ngơn ngữ để gắn kết người với
người trong một cộng đồng dân cư.
Với hơn 85% dân số là người Việt nên
tiếng Việt là tiếng phổ thơng, là ngơn ngữ chính
được sử dụng trong cả nước về phương diện
hành chánh. Do đó, để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của một công dân, các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam phải trang bị vốn phổ thông đó.
Đồng thời, để hịa hợp, để giao lưu kinh tế - văn
hóa, người Việt phải tự tìm tịi ngơn ngữ của
các dân tộc thiểu số cùng sinh sống chung một
không gian địa lý.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tính
đa dạng của các dân tộc, tơn trọng quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, vấn đề bản ngữ của các
dân tộc thiểu số luôn được chú trọng bảo tồn và
phát huy. Việc tôn trọng ngôn ngữ mẹ đẻ của
các dân tộc ở Việt Nam được đề cập trong các
108
bản Hiến Pháp kể từ ngay sau khi cách mạng
tháng Tám 1945 thành công đến ngày nay.
Trong bản Hiếp Pháp năm 1946, Điều 15 có
viết: “Ở các trường sơ học địa phương, quốc
dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình”
và Điều 66 khẳng định “Quốc dân thiểu số có
quyền dùng tiếng nói của mình trước tịa án”.
Bản Hiến pháp năm 1960, có quy định cụ thể
hơn về việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của các dân
tộc thiểu số tại Điều 3 và Điều 102. Hiến pháp
năm 1980 cũng nhắc đến vấn đề này ở Điều 5
và Điều 60. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có bổ sung
thêm: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn
hóa tốt đẹp của mình” (Điều 5), “Tồn án nhân
dân bảo đảm cho cơng dân nước Cộng hịa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình trước Tịa án” (Điều 133). Gần đây nhất là
Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 2014
quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình” (Điều 5). Cũng trong bản Hiến pháp mới
này có nêu: “Cơng dân có quyền xác định dân
tộc của mình, sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ, lựa chọ
ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42).
Như vậy, trong từng giai đoạn lịch sử phát
triển của đất nước, vấn đề bản ngữ của các dân
tộc đều được đạo luật cơ bản nhất, là nền tảng
chính trị - pháp lý của đất nước thừa nhận. Các
quy định trong Hiến Pháp là những quy định có
giá trị xuất phát điểm, là cơ sở pháp luật cho tất
cả các ngành luật. Chính điều này đã góp phần
thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ tộc
người.
Điều 7 Luật Giáo dục 2005 quy định: 2.
Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu
số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu
số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong
nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và
học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số
được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 82/2010/CP quy định việc dạy và học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số. Đến năm
2012 đã có 32 tỉnh tổ chức dạy và học tiếng dân
tộc thiểu số; giáo trình biên soạn bằng 12 thứ
tiếng dân tộc. Đến năm 2012 cả nước có 2.629
trường, lớp học chữ tiếng dân tộc với 136.600
học sinh đang theo học. Tuy nhiên, chúng ta
cũng thừa nhận rằng hiện nay mới có 30 dân tộc
thiểu số có chữ viết, các dân tộc thiểu số khác
đứng trước nguy cơ chữ viết mai một dần. Đảng
và Nhà nước đang có những nghiên cứu sâu sắc
và tồn diện hơn để có những giải pháp cụ thể,
hiệu quả để giữ gìn, bảo vệ, phát huy ngơn ngữ,
chữ viết, bản sắc văn hóa các dân tộc, nhất là các
dân tộc có số dân rất ít người [13].
Sự đa dạng trong thành phần tộc người,
văn hóa và ngơn ngữ tộc người đã làm cho bức
tranh 54 dân tộc ở Việt Nam thêm sinh động và
phong phú. Đặc biệt là vùng miền núi biên giới
Tây Nam bộ với các đặc trưng về địa – kinh tế,
địa – lịch sử, địa – dân tộc, nhất là vấn đề đồng
tộc xuyên biên giới với nước láng giềng
Campuchia. Tây Nam bộ hiện nay chiếm 12,1%
diện tích cả nước với 17 triệu dân. Tồn khu
vực có khoảng 1,4 triệu đồng bào dân tộc thiểu
số, trong đó, người Khmer chiếm đông nhất với
hơn 1,3 triệu người.
Tây Nam bộ là vùng đất có thể mạnh về
địa lý, là cầu nối các tuyến đường đến với
vương quốc Campuchia (đường biên giới trên
đất liền chạy qua địa phận tỉnh Kiên Giang dài
56,8 km, tỉnh An Giang dài 104 km) và các tỉnh
miền Đơng Nam bộ (bản đồ 1). Có tiềm năng
lớn về kinh tế, sinh thái và nhân văn, là vùng
đất sản xuất lượng lúa gạo đứng đầu cả nước,
có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia và thế giới. Về công
nghiệp tuy chưa phát triển mạnh, nhưng vẫn
đảm bảo cho việc xuất khẩu thủy sản, nông sản
và hàng dệt may.
Theo Quyết định số 447/QĐ-UBDT ngày
19/9/2013 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban
Dân tộc, vùng Tây Nam bộ có 13 thơn thuộc tỉnh
An Giang và 21 thôn thuộc tỉnh Kiên Giang nằm
trong danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng dân
tộc và miền núi. Ở Kiên Giang, người Khmer
phân bố rải rác ở một số núi phía Bắc thị xã Hà
Tiên (nhất là ở Xà - Xía) và các giồng lớn của
đồng bằng như Giồng Riềng, Gò Quao, Vĩnh
Thuận, Rạch Giá, Hà Tiên… Hiện nay có 42.413
hộ với 214.979 người (chiếm 12,77% dân số
tồn tỉnh), phân bố nhiều ở các huyện Châu
Thành (38.000 người), Gò Quao (23.500 người),
Giồng Riềng (21.190 người), Hà Tiên (15.409
người), An Biên (9.210 người), thành phố Rạch
Giá (8.032 người) [6]. Còn ở An Giang, có
18.512 hộ Khmer với 86.592 người, chiếm tỷ lệ
75,54% so tổng số người dân tộc thiểu số và
chiếm 3,9% so tổng dân số tồn tỉnh. Trong đó
có 16.838 hộ với dân số khoảng 80.000 người
(chiếm gần 92% tổng số dân tộc Khmer toàn
tỉnh) sống tập trung ở 2 huyện miền núi: Tri Tôn
và Tịnh Biên [5].
Về tên gọi tộc người Khmer, cách gọi phổ
biến nhất là “Khơ - me”, cách viết phổ biến nhất
là “Khmer”. Qua khảo sát thực tế các tri thức
người Khmer và người dân Khmer ở các tỉnh
109
biên giới Tây Nam bộ cho thấy họ đồng ý với
cách dùng danh từ “Khmer”. Hiện nay, tên gọi
“Khmer” trở thành tên gọi phổ biến và thống
nhất trong các văn bản Nhà nước, trên các
phương tiện thông tin đại chúng và sâu rộng
trong tầng lớp nhân dân. Trong giấy tờ hành
chính của Nhà nước Việt Nam, người Khmer
cũng được ghi nhận thuộc dân tộc “Khmer”
(hình 1), đồng bào Khmer khi giao tiếp với các
dân tộc khác cũng tự xưng mình là dân tộc
Khmer.
Tiếng mẹ đẻ của người Khmer thuộc nhóm
ngơn ngữ Mơn – Khmer, hệ ngữ Nam Á. Chữ
Khmer có đường nét dịu dàng, cong cong, uyển
chuyển. Là một hệ thống chữ gồm 33 con chữ
phụ âm, 32 chân và 24 con chữ nguyên âm, 13
con chữ nguyên âm độc lập. Chữ phụ âm có 2
giọng đọc là giọng O (gồm 15 con chữ) và
giọng Ô (18 con chữ). Ngữ pháp Khmer nhìn
chung giống như ngữ pháp tiếng Việt [12].
Cũng như các dân tộc thiểu số khác trên đất
nước Việt Nam, dân tộc Khmer đã tranh đấu
với quy định của nhà cầm quyền thời Pháp
thuộc để bảo vệ cho sự tồn tại tiếng mẹ đẻ của
dân tộc mình, đặc biệt là vai trị của thiết chế
văn hóa chùa Khmer và các vị sư sãi Phật giáo
Nam tông. Sự tồn tại và phát triển bản ngữ của
cộng đồng người Khmer thể hiện sức sống
mãnh liệt của nền văn hóa và tình yêu đối với
dân tộc của người Khmer. Suy rộng ra, đó là
cách thể hiện và là sự khẳng định ý thức tộc
người của cộng đồng người Khmer.
Người Khmer biên giới Tây Nam bộ xem
phum là một đơn vị cư trú cổ truyền, một khơng
gian xã hội - tộc người. Sóc gồm nhiều phum.
Phum sóc là tổ chức xã hội tự quản theo cơ chế
quản lý kết hợp xã hội – tơn giáo mang tính
cộng đồng cao. Trong Phum có khi chỉ gồm
một vài gia đình cùng huyết thống nhưng cũng
có khi chỉ gồm vài gia đình khơng có quan hệ
dịng họ. Một Phum của người Khmer ở đây có
thể được xem tương đương như một ấp. Các
phum này thường được nằm theo ven chân núi,
bìa rừng, mang đậm tính chất quần tụ của đất
giồng (trường hợp ở tỉnh An Giang) hay chạy
dọc theo các con sông, kênh, rạch phân tán theo
110
chiều dài (trường hợp ở tỉnh Kiên Giang). Đặc
biệt, người Khmer ở Kiên Giang còn định cư
dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, các
phum chạy dọc theo các huyện Hà Tiên – Hòn
Đất – Kiên Lương – Giang Thành.
Trong các phum sóc, ngồi người Khmer
cịn có sự cộng cư sinh sống của tộc người Việt,
Hoa, Chăm. Trong quá trình giao lưu kinh tế văn hóa, tạo nên những giao thoa văn hóa mới,
nhưng người Khmer vẫn giữ được văn hóa tộc
người mình, đặc biệt là về ngơn ngữ.
2. Sự giao lưu ngôn ngữ của cộng đồng người
Khmer với các tộc người khác ở khu vực
miền núi biên giới Tây Nam bộ
Sự giao lưu ngôn ngữ của cộng đồng người
Khmer và các tộc người khác ở khu vực miền
núi biên giới Tây Nam bộ là quá trình diễn ra
trên cả hai chiều cho và nhận. Trong quá trình
làm ăn sinh sống trên vùng biên giới có đặc
điểm đa tộc người đã góp phần vào sự giao lưu
văn hóa tộc người, trước tiên là về mặt ngôn
ngữ, dần dần đến phong tục, tín ngưỡng. Đa
phần cư dân làm ăn, sinh sống cặp bên biên giới
Tây Nam bộ đều có thể giao tiếp được bằng các
thứ tiếng: Khmer, Việt, Hoa, Chăm.
Trong đó, tiếng Việt là ngôn ngữ được các
tộc người khác tiếp nhận nhiều hơn, bởi vì tiếng
Việt là ngơn ngữ phổ thơng nên các tộc người
thiểu số nói chung, người Khmer nói riêng sử
dụng tiếng Việt trở thành nhu cầu cần thiết của
các tộc người. Mặt khác, để hòa hợp trong giao
tiếp và sinh kế, các tộc người thiểu số khác như
Chăm, Hoa, Khmer… phải chủ động cho và
nhận ngôn ngữ của nhau để phục vụ cho nhu
cầu của mình, kể cả người Việt cũng tham gia
với vai trò là chủ thể tiếp nhận ngôn ngữ của
các tộc người khác.
Đặc biệt, với vị trí địa lý tiếp giáp với
Vương quốc Campuchia – đất nước có hơn
90% dân số là người Khmer, dùng tiếng Khmer
làm ngơn ngữ chính thức thì việc các tộc người
khác sinh sống trên các tỉnh miền núi biên giới
Tây Nam bộ có sự tiếp thu, tiếp nhận ngơn ngữ
Khmer là xu thế tất yếu.
Nhờ quá trình cư trú xen kẽ giữa các tộc người
Việt – Hoa – Khmer – Chăm… đã tạo điều kiện
cho các tộc người giao lưu học hỏi với nhau về
cách thức làm ăn, về kỹ thuật trồng trọt, chăn
nuôi, và những yếu tố văn hóa mới phù hợp với
mỗi tộc người để thêm vào kho tàng tri thức,
văn hóa của tộc người mình. Chính những yếu
tố giao thoa trên là sợi dây liên kết giúp các tộc
người xích lại gần nhau, siết chặt tình đồn kết
giữa các tộc người cùng cư trú trên vùng biên
cương Tây Nam bộ.
Những cư dân Việt, Hoa, Chăm, Khmer rời
quê cũ đi làm ăn ở những vùng đất mới trên
vùng biên giới Tây Nam bộ có điều tiếp xúc với
các tộc người khác nhau. Ban đầu họ khơng biết
về nhau, gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp,
ngăn cách trong sinh hoạt, dần dần, họ đã thích
ứng được cuộc sống cộng cư nhiều tộc người.
Chỉ trong một thời gian ngắn, do nhu cầu trao
đổi, thông tin liên lạc, họ nhanh chóng học tập
ngơn ngữ của nhau, hòa hợp cách sống để tạo
thành một cộng đồng đa tộc người đồn kết,
thân ái.
Với các cơng việc như bn bán, làm cơng
nhân, làm nơng nghiệp địi hỏi sức lao động của
nhiều người. Đặc biệt là hình thức làm ruộng,
làm rẫy “dần công” của các cộng đồng người ở
Tây Nam bộ. Những người sinh sống hoặc canh
tác ruộng rẫy cạnh nhau, dùng cơng sức của
mình để giúp đỡ gặt lúa, đập lúa, vận chuyển
lúa, rơm… cuối ngày lao động phụ giúp, họ
thường được mời cơm hoặc có thể trả cơng.
Thơng qua hình thức canh tác cạnh nhau trên
cùng một dãy ruộng và hình thức “dần cơng”
này, cộng đồng người Khmer và các tộc người
khác có dịp trị chuyện, trao đổi thơng tin,
khơng khí mùa gặt thật nhộn nhịp, làm thắt chặt
thêm tình đồn kết giữa các thành viên trong
tộc người và các thành viên ngoại tộc (hình 2).
Trong một mơi trường làm ăn, có khi họ là
những người đồng tộc, nhưng đơi khi khơng
phải. Do đó, để trao đổi thơng tin, để hịa hợp
và tạo mối quan hệ trong sinh hoạt, yêu cầu
trước hết họ phải học tập ngôn ngữ nói lẫn
nhau. Vơ tình, dịng chảy ngơn ngữ của người
ngoại tộc đan xen một cách tự nhiên trong mỗi
con người. Nhất là trong cộng đồng người Việt
với đặc trưng tính cách truyền thống là cởi mở,
phóng khống.
Ngồi ra, yếu tố hôn nhân ngoại tộc cũng
tác động làm cho sự giao lưu ngôn ngữ trở nên
phong phú và là xu thế tất yếu. Do nhu cầu làm
ăn xa quê, nhiều nam nữ thanh niên đã định cư
và lập gia đình tại địa những phương khác. Kết
quả làm cho ngôn ngữ mẹ đẻ của những nam nữ
thanh niên này được chia sẻ trong sinh hoạt
kinh tế và đời sống gia đình, con cháu họ dễ
dàng tiếp thu nhiều ngơn ngữ vì có sẵn tiếng mẹ
đẻ của cha mẹ, ơng bà trong gia đình, dịng họ.
Xét về tính linh hoạt, nhạy bén, cởi mở trong sự
tiếp thu ngôn ngữ của các tộc người cộng cư,
cộng canh thì đa phần người Khmer sinh sống
trong những phum, sóc ven đồi núi, bìa rừng ở
khu vực biên giới Tây Nam bộ có phần hạn chế
hơn đối với người đồng tộc sinh sống trong các
phum, sóc ven trục lộ giao thông hay vùng
đồng bằng, ven sông rạch. Nguyên nhân có thể
do điều kiện sinh hoạt kinh tế ở những vùng đồi
núi, bìa rừng cách trở hơn, không thuận lợi với
đặc điểm cư trú của các cộng đồng tộc người
khác. Nên ở đây sự giao lưu ngôn ngữ giữa
người Khmer và các tộc người khác diễn ra
không thường xun, thậm chí chỉ có ngơn ngữ
mẹ đẻ là độc nhất nếu họ không đến trường học.
Ngược lại, ở những nơi có nhiều tộc người sinh
sống, thì hiện tượng song ngữ, đa ngữ trở nên
phổ biến. Việc nói được 2, 3 ngôn ngữ của
người Khmer từ người trẻ đến người lớn luôn
luôn tồn tại từ xưa đến nay ở vùng đất này. Thật
khó để phân biệt được thành phần tộc người
trong một cuộc trị chuyện của những nhóm
người nói cùng một ngôn ngữ thành thạo nếu
bản thân họ không cho biết mình thuộc tộc
người nào.
Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa
của giữa các cộng đồng người vùng biên giới
Tây Nam bộ, tiếng Việt đã trở thành tiếng nói
chung của các tộc người, bên cạnh hiện tượng
song ngữ hay đa ngữ. Trong vốn từ của người
Việt đã có sự hiện diện của các tiếng dân tộc và
ngược lại. Sự giao lưu này diễn ra tự nhiên, tự
nguyện, không chút gị bó, ép buộc, thậm chí có
nhiều từ ngữ hiện nay được dùng của một tộc
111
người hay nhiều tộc người cùng sử dụng không
biết nguồn gốc thuộc về tộc người nào.
Việc giao lưu ngôn ngữ giữa các tộc người
ở miền núi biên giới Tây Nam bộ thường dừng
lại ở ngơn ngữ nói, cịn chữ viết phổ biến vẫn là
tiếng Việt do quy định trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Các cộng đồng người có thể trị
chuyện với nhau, trao đổi kinh nghiệm làm ăn,
bn bán với nhau, nhưng đa số họ không đọc
được, không viết được ngơn ngữ của tộc người
bạn. Nhưng dù sao thì chính chiếc thuyền ngơn
ngữ đã đưa họ xích lại gần nhau, góp phần bảo
tồn văn hóa dân gian của các dân tộc.
3. Sự bảo tồn bản ngữ của người Khmer
miền núi biên giới Tây Nam bộ
Trải qua 10 năm (1981-1991) thực hiện
Chỉ thị 117 của Trung ương Đảng về công tác ở
những vùng đồng bào dân tộc Khmer trong
những năm trước mắt đã cơ bản giải quyết được
tình trạng thiếu đất ruộng và đất ở cho đồng bào
Khmer, củng cố và tăng cường thời lượng phát
thanh tiếng Khmer cho vùng có đơng đồng bào
Khmer, chú trọng việc dạy chữ cho con em
đồng bào Khmer, cải thiện điều kiện chăm sóc
sức khỏe, y tế cho đồng bào Khmer, nâng cao
công tác đào tạo, bồ dưỡng đội ngũ cán bộ là
người Khmer ….
Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về
cơng tác ở vùng đồng bào Khmer. Chỉ thị đặt ra
các vấn đề lớn trong việc thực hiện chính sách
đối với đồng bào Khmer: Đặc biệt quan tâm
chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa,
giáo dục, y tế, nhằm nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào, giúp đồng bào
Khmer hội nhập với sự phát triển chung của
khu vực và đất nước; Tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng tơn giáo của đồng bào, bảo vệ chùa
chiền, phong tục, tập quán của đồng bào
Khmer, tạo điều kiện cho các sinh hoạt của Phật
giáo Nam tông diễn ra thuận lợi, phát huy, phát
huy vai trò của nhà chùa, sư sãi và Phật tử yêu
nước, bảo tồn và phát huy những di sản văn
hóa, những giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc; Tăng cường cơng tác
tun truyền giáo dục, nêu cao tinh thần cảnh
112
giác, đấu tranh chống âm mưu của các thế lực
thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc.
Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7
(khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, công tác dân tộc đã giải quyết
đồng bộ các vấn đề về dân tộc với các nhiệm
vụ: Phát triển sản xuất, đẩy mạnh xóa đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt kinh
tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí, tăng cường đào tạo
nhân lực, kiên cố hóa các trạm y tế xã, phòng
khám đa khoa ở cụm xã, nâng cấp bệnh viện
tuyến huyện, tỉnh, cơ bản chuẩn hóa 100% trạm
y tế xã và cơ sở y tế trung tâm cụm xã; nâng
cao chất lượng phát thanh, truyền hình bừng
tiếng dân tộc trong khu vực; củng cố và nâng
cao hệ thống chính trị cấp cơ sở phù hợp với
đặc thù vùng đồng bào dân tộc, miền núi; tăng
cường quốc phịng, đảm bảo ổn định chính trị,
trật tự an tồn xã hội vùng dân tộc và miền núi.
Nhờ các chủ trương, chính sách dành cho đồng
bào dân tộc, miền núi, đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung,
đồng Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ
nói riêng có bước chuyển biến tích cực, góp
phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội vùng biên giới. Đồng thời, vấn đề bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc
Khmer được chú trọng.
Đối với ngôn ngữ Khmer, một số trường
học trên địa bàn tỉnh An Giang và Kiên Giang
có đông đồng bào Khmer sinh sống đã tổ chức
dạy học song ngữ cho học sinh là con em đồng
bào Khmer. Ở 2 tỉnh đều có trường trung cấp
nghề dân tộc nội trú, An Giang có 1 trường
trung học phổ thơng Dân tộc nội trú, 1 trường
Trung học cơ sở Dân tộc bán trú, trong khi tỉnh
Kiên Giang có 5 trường trung học phổ thông
Dân tộc nội trú . Các trường phổ thông dân tộc
nội trú, trường trung cấp nghề dân tộc nội trú
trên địa bàn tỉnh An Giang và Kiên Giang đã
góp phần bảo tồn ngơn ngữ Khmer nói riêng,
văn hóa Khmer nói chung. Trong các trường
học, việc tổ chức dạy và học ngữ văn Khmer đã
mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực, góp phần giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thơng qua ngơn
ngữ Khmer, các em đọc được những câu ca dao
tục ngữ và truyện cổ tích của dân tộc. Các em
học sinh dân tộc hiểu chính xác từ ngữ tiếng
Việt, học tốt các môn khoa học tự nhiên và xã
hội. Các trường đều có đội văn nghệ với những
học sinh có năng khiếu ca múa và chơi các loại
nhạc cụ Khmer.
Các ấn phẩm báo, tạp chí và chương trình
phát thanh truyền hình bằng tiếng dân tộc được
mở rộng, nâng dần nội dung, chất lượng, thời
lượng phát song. Trong 9 tỉnh miền Tây Nam
bộ có 8 tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số thực
hiện phát sóng chương trình tiếng Khmer, góp
phần nâng cao trình độ dân trí, tạo chuyển biến
về nhận thức trong sản xuất và đời sống đồng
bào[2]. Trong đó, 2 tỉnh miền núi biên giới An
Giang và Kiên Giang đều có phát thanh và
truyền hình bằng tiếng Khmer, cư dân Khmer ở
đây dễ dàng bắt song được các đài phát thanh,
truyền hình hồn tồn bằng tiếng Khmer của
nước láng giềng Campuchia.
Góp phần bảo tồn ngơn ngữ Khmer phải kể
đến vai trị quan trọng của chùa chiền và đội
ngũ sư sãi Phật giáo Nam Tông tại địa phương.
Trong các dịp hè, các sư sãi chính đứng ra tổ
chức và giảng dạy chữ Khmer tại các chùa cho
con em đồng bào Khmer. Khi bước vào năm
học, các nhà sư cùng với thầy cô giáo vận động
con em đồng bào Khmer đến lớp. Trường nào
thiếu phịng học thì có thể dạy ngay trong chùa,
thiếu giáo viên Khmer thì nhà sư sẵn sàng đứng
lớp. Ngồi giờ học, trẻ em cũng có thể vào chùa
để nhờ sư hướng dẫn bài vở. Do vị trí của Phật
giáo Nam Tông trong đời sống của đồng bào
Khmer nên tiếng nói của các nhà sư rất quan
trọng, có sức ảnh hưởng đến phụ huynh và học
sinh người Khmer, góp phần nâng cao mặt bằng
giáo dục vùng đồng bào dân tộc
Có nhiều nhà sư sau khi hoàn tục cũng đã
chọn và gắn bó với nghề giáo. Họ tham gia dạy
chữ Khmer với nhiều thuận lợi, như: có vốn văn
hóa, am hiểu phong tục tập quán sâu sắc, vốn
chữ đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và có thể
truyền đạt thêm về văn hóa, đồng thời vốn đã
có uy tín với phum sóc sóc nên giảng dạy cho
con em đồng bào dân tộc Khmer rất thuận lợi.
Ngôi chùa của Phật giáo Nam Tơng ngồi vai
trị là nơi sinh hoạt tơn giáo cịn là điểm sáng
trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa tộc
người Khmer (hình 3). Trong chùa là nơi lưu
trữ các thư tịch cổ (các pho kinh điển Bà La
Môn và kinh phật), các di sản văn hóa dân tộc,
nơi truyền đạt đạo lý Phật giáo và học chữ mẹ
đẻ. Người Khmer có phong tục tu học của nam
thanh niên, quan niệm của người dân Khmer đi
tu không phải để trở thành Phật, mà tu để làm
người, làm người có nhân cách, có phẩm chất
và đạo đức tốt theo quan niệm của họ. Trong
thời gian tu tập tại chùa, họ được học tiếng, học
chữ của dân tộc mình.
Tồn tỉnh An Giang có 65 và Kiên Giang
có 76 ngơi chùa Khmer. Có thể nói chùa Khmer
là trung tâm văn hóa của cộng đồng phum sóc,
là nơi để đọc kinh, học chữ, học đạo lý làm
người. Với cộng đồng người Khmer, chùa là
mái nhà chung của mọi gia đình, là nơi sinh
hoạt lý tưởng của người Khmer, chùa không
những là nơi tôn nghiêm truyền bá giáo lý của
đạo Phật mà còn là nơi đào tạo, giáo dục văn
hóa, đào tạo tri thức cho cộng đồng.
Phong tục, lễ hội truyền thống của người
Khmer cũng góp phần bảo tồn tiếng mẹ đẻ của
tộc người. Thông qua các nghi thức, nghi lễ và
các bài văn cúng tế bằng ngôn ngữ Khmer trong
các dịp lễ hội đã thúc đẩy người Khmer tìm tịi,
học hỏi để bảo tồn di sản của cha ơng, tiếp tục
duy trì phong tục, lễ hội truyền thống của tộc
người mình.
Ngồi các yếu tố trên, ý thức tự giác của
đồng bào Khmer trong việc bảo tồn bản ngữ là
quan trọng nhất. Bởi vì ngôn ngữ dân tộc là
biểu hiện của bản sắc văn hố dân tộc. Duy trì
và bảo vệ ngơn ngữ các dân tộc là duy trì và
bảo vệ bản sắc văn hố dân tộc. Do đó, dù hồn
cảnh kinh tế có khó khăn, phải xa q hương
tìm kế sinh nhai, nhưng nếu bản thân người
Khmer ln có ý thức bảo tồn và phát huy ngơn
ngữ mẹ đẻ của mình thì họ vượt qua những khó
khăn đó để cho con em đến trường học, thậm
113
chí ngồi giờ lao động, họ tự dạy chữ cho con
em mình.
Người Khmer ở miền núi biên giới Tây
Nam bộ thường có xu hướng kết hợp giữa hai
ngơn ngữ là tiếng Khmer và tiếng phổ thơng, số
lượng người nói được hai thứ tiếng là rất lớn.
Trong giao tiếp với xã hợi thì họ sử dụng tiếng
Việt, trong phum, sóc thường họ sử dụng riếng
Khmer. Thơng qua đó, sự giao lưu và bảo tồn
bản ngữ của dân tộc Khmer được duy trì và
phát huy.
Thực tế cho thấy, trong quá trình giao lưu
với cộng đồng người ngoại tộc, người Khmer
vẫn duy trì mối quan hệ nội tộc. Biểu hiện ở
việc giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người, bảo vệ,
lưu truyền bản ngữ và các yếu tố truyền thống
tốt đẹp của tộc người mình. Những người đồng
tộc thường xuyên giao tiếp xúc với nhau bằng
tiếng mẹ đẻ, trao đổi kinh nghiệm canh tác, làm
ăn, tương trợ, giúp đỡ nhau trong đời sống vật
chất, tạo điều kiện cho con em đến trường học
tập…đó là những điều kiện quan trọng đẻ bảo
tồn bản ngữ của cộng đồng ngườ Khmer miền
núi biên giới Tây Nam bộ.
4. Một số đề xuất nhằm bảo tồn bản ngữ của
người Khmer khu vực miền núi biên giới
Tây Nam bộ
Chữ viết của người Khmer tuy có từ lâu
đời nhưng khơng phổ biến và đa số người
Khmer không biết chữ. Việc giao lưu ngôn ngữ
Khmer với các ngôn ngữ khác trong vùng chỉ
dừng lại ở ngơn ngữ nói.
Việc bảo tồn ngơn ngữ Khmer cịn nhiều khó
khăn, có nhiều ngun nhân như:
- Tình trạng học sinh Khmer bỏ học vẫn
cịn xảy ra và chất lượng dạy và học chữ dân
tộc chưa được như mong muốn. Đa phần người
Khmer sống chủ yếu bằng nghề nơng, đời sống
kinh tế cịn khó khăn nên việc cho con em đến
trường còn hạn chế hoặc họ chỉ cho con đến
trường học hết bậc trung học cơ sở, sau đó phải
tham gia lao động tạo lập kinh tế cho gia đình.
- Sự ý thức của nhân dân chưa cao, một bộ
phận phụ huynh học sinh nghĩ rằng học chữ
Khmer khơng biết để làm gì vì con em lớn lên
sau này đi làm phải sử dụng tiếng Việt hoặc sợ
114
con tập trung học tiếng Khmer ở bậc tiểu học,
trung học cơ sở, khi đến bậc học cao hơn học
tiếng Việt thì con họ khơng theo kịp. Nên họ
chỉ cho con em học ở các trường mầm non, phổ
thông không dạy chữ Khmer để con em tập
trung học tập như những học sinh khác.
- Việc truyền bá chữ viết và đào tạo bằng
tiếng Khmer tuy được Đảng và Nhà nước
khuyến khích nhưng cịn hạn chế. Các địa điểm
tổ chức lớp học đều thiếu thốn về cơ sở vật
chất. Đội ngũ người giảng dạy tiếng Khmer đa
phần còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng truyền
đạt, do đó ảnh hưởng một phần đến chất lượng
chung. Việc biên soạn chương trình giảng dạy
và tài liệu tham khảo bằng tiếng dân tộc chưa
có thống nhất và còn hạn chế. Sách giáo khoa
dạy tiếng Khmer trong các trường dạy song
ngữ, trường phổ thông dân tộc nội trú ở Tây
Nam bộ mỗi tỉnh đều giáo trình khác nhau,
không đồng nhất;
- Cơ sở vật chất như trường lớp, trang thiết
bị phục vụ đào tạo và giáo dục vùng đồng bào
dân tộc Khmer còn thiếu thốn. Đơn cử như ở
huyện Gị Quao (tỉnh Kiên Giang) là địa
phương có đơng đồng bào dân tộc Khmer sinh
sống. Những năm gần đây, tỷ lệ con em đồng
bào Khmer đến tuổi đi học được đến trường
ngày càng cao. Ở điểm trường Rạch Tìa của
trường Định An, vì khơng đủ phịng học nên
học sinh học chữ Khmer phải học ca 3 (vào lúc
12 giờ trưa). Có lớp phải học trong nhà dân ở
gần trường.
- Học sinh chỉ chú trọng học tiếng phổ
thông để tiện xin việc làm mà không nhận thức
được giá trị của tiếng mẹ đẻ. Qua khảo sát thực
tế trong 35 sinh viên người Khmer theo học chế
độ cử tuyển tại Trường Đại học Đồng Tháp từ
năm 2008 đến 2013, chỉ có 12 sinh viên thành
thạo các kỹ năng nghe, nói, viết tiếng Khmer,
trong số đó chỉ có 2 sinh viên nữ. Nguyên nhân
được lý giải là do 10 nam sinh viên đã từng và
đang theo tu học tại các chùa Khmer ở địa
phương (họ sắp xếp linh hoạt thời gian tu tại
chùa vào dịp hè), cịn 2 sinh viên nữ có ba hoặc
mẹ làm giáo viên dạy tiếng Khmer cho học sinh
là người dân tộc ở tỉnh Kiên Giang. Số còn lại
(23 sinh viên) chỉ có thể nói thơng thạo được
tiếng Khmer, cịn kỹ năng đọc – viết biết chút ít
nếu có sách từ điển tra dịch, nhưng có đến 8 sinh
viên không thể giao tiếp bằng tiếng Khmer do từ
nhỏ chỉ tiếp xúc với tiếng Việt.
- Thời lượng, chất lượng phát thanh, truyền
hình tiếng Khmer cịn hạn chế, thiếu sự đa
dạng, phong phú.
Từ thực trạng trên, chúng tơi có một số đề xuất
sau:
- Các cấp chính quyền cần hồn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy học
tiếng dân tộc nói chung, tiếng Khmer nói riêng.
- Cần nâng cao số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên và các bộ quản lý dạy học
tiếng dân tộc.
- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học, đảm bảo đủ trường lớp cho con em đồng
bào tham gia học tập ở các cấp học.
- Phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ của các
cấp, các ngành có liên quan, tranh thủ sự giúp
đỡ của cộng đồng. Đặc biệt là vai trò của chùa
Khmer và tầng lớp sư sãi trong đồng bào
Khmer.
- Đẩy mạnh công tác vận động tuyên
truyền, giáo dục trong cộng đồng Khmer để họ
thấy được tầm quan trọng của việc học tập ngơn
ngữ mẹ đẻ. Qua đó nâng cao ý thức học tập
trong từng hộ gia đình Khmer, giúp họ nhận
thấy bản thân phải có trách nhiệm trong việc
bảo tồn bản ngữ của tộc người.
- Tổ chức có quy mơ và chất lượng các lễ
hội truyền thống của người Khmer để động viên,
khuyến khích đồng bào gìn giữ, phát huy yếu tố
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Cần tổ chức nhiều
cuộc thi văn hóa – văn nghệ nhằm khuyến khích
việc sưu tầm, sáng tác văn học, văn nghệ bằng
tiếng nói và chữ viết Khmer.
- Nâng cao đời sống kinh tế vùng đồng bào
dân tộc Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ
để họ có điều kiện cho con em đến trường. Góp
phần gìn giữ văn hóa dân tộc trong đó có ngơn
ngữ Khmer.
HÌNH ẢNH MINH HỌA
Bản đồ 1: Các tỉnh thuộc miền Tây nam bộ (nguồn: )
115
Hình 1. Giấy chứng minh là căn cứ pháp lý thừa nhận tộc danh người Khmer
Nguồn: Tác giả chụp từ giấy chứng minh của một người Khmer ở Kiên Giang
Hình 2. Những người nông dân Khmer gánh lúa và đập lúa theo hình thức “dằn cơng” (huyện Tri Tơn,
tỉnh An Giang)
Nguồn: Tác giả
Hình 3. Ngơi chùa Xà – Tón (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), nơi lưu giữ bộ kinh lá lớn nhất Việt Nam
116
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 24/NQ-TW (2003) lần thứ 7 (khóa IX) về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc.
[2]. Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo tại tổng kết năm 2013, triển khai phương hướng nhiệm
vụ 2014.
[3]. Chỉ thị 117 (1981) của Trung ương Đảng về công tác ở những vùng đồng bào dân tộc Khmer
trong những năm trước mắt,
[4]. Chỉ thị số 68-CT/TW (1991) của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng
đồng bào Khmer.
[5]. Cục Thống kê tỉnh An Giang, Niên giám thống kê An Giang 2011.
[6]. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang, Niên giám thống kê Kiên Giang, 2011
[7]. Các bản Hiếp Pháp năm 1946
[8]. Hiến pháp năm 1960.
[9]. Hiến pháp năm 1980.
[10]. Hiến pháp năm 1992.
[11]. Hiến pháp 2014.
[12]. Ngô Chân Lý, Tự học chữ Khmer, NXB Giáo dục, 2006.
[13]. Trung Ngôn, Bảo vệ ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc thiểu số, báo Bình Định online,
16/02/2014.
[14]. Nguyễn Văn Thuận, Kiên Giang: Phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học, báo Đại
Đoàn Kết online, 14/01/2014.
117