TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
- - - - - -
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Đề tài thảo luận: Sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Giáo viên hướng dẫn: Thính giảng
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Lớp học phần:
Năm học: 2020-2021
1
Kết cấu
Đề tài 2: Sự khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
TỰ ĐÁNH GIÁ.............................................................................................
BIÊN BẢN HỌP NHÓM....................................................................
BIÊN BẢN HỌP NHÓM.............................................................
Mục lục:
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Nội dung
Cơ sở lí luận và thực tiễn nghiên cứu về điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.1.
Quan niệm về dân chủ và các cách tiếp nhận dân chủ
1.2.
Quan niệm về những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.3.
Những yếu tố tác động đến sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
2. Thực chất những quan điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.1.
Thực chất những quan điểm tương đồng, khác biệt giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.2.
Thực trạng vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam hiện nay
3. Yêu cầu và giải pháp vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ XHCN trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3.1.
Yêu cầu đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam hiện nay
3.2.
Giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng những quan điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN trong xây dựng nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.
Phân III: Kết luận
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu so sánh những điểm "tương đồng" và những "khác biệt" của dân
chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục được
cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy cũ, thể hiện
bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản: Hai là, xu hướng
ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, "hòa nhập" theo dân chủ tư sản phương Tây khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn với thế giới, chủ yếu
là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Việc nghiên cứu này khơng những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và
toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà cịn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực tiễn, giải đáp những vấn đề
thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác so sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc
gia tư bản trên thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.
3
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Quan niệm về dân chủ và các cách tiếp cận dân chủ
1.1.
1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Quan niệm chung về dân chủ:
•
•
•
•
•
•
Dân chủ là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính trị được nảy
sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với những hiện
tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính lịch sử,
nên dân chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến. Nó
được phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô
lệ, giữa dân chủ và chuyên chế, độc tài.
Dân chủ hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều khía cạnh phong phú
đa dạng. Dân chủ khơng chỉ là phạm trù chính trị, mà cịn là phạm trù xã
hội, khơng chỉ là phạm trù lịch sử, mà cịn phạm trù vĩnh viễn.
Quan niệm của chủ nghĩa Mac- lenin về dân chủ:
Chủ nghĩa Mác – Lenin kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động
thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan
điểm: Dân chủ là một nhu cầu khác quan của nhân dân lao động, dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân.
Khi xã hội có giai cấp và nhà nước– tức là một chế độ dân chủ thể hiện
chủ yếu qua nhà nước thì khi đó khơng có dân chủ chung chung, phi giai
cấp, siêu giai cấp, “ dân chủ thuần túy”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn
liền với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Nên dân
chủ trong xã hội có giai cấp nó mang tính giai cấp, gắn liền với các giai
cấp đã thiết lập nên nền dân chủ đó, như: Dân chủ nơ lệ, dân chủ tư sản,
dân chủ vơ sản (dân chủ XHCN). Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì
dân chủ ln ln tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù
chính trị.
Từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ cịn với ý nghĩa là một hình
thức nhà nước, trong đó chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên của nhà
nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nước đó
“quyền lực thuộc về nhân dân” (cịn dân là ai thì do giai cấp thống trị
quy định) gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị
xã hội.
Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp
thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của tồn xã hội, do vậy,
tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
4
Quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lenin về dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa
•
Về nền dân chủ tư sản,dân chủ được đặt ra trong điều kiện phải đấu tranh
trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự tuyệt đối hóa những
giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương thời cũng như nhu
cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen trước
hết vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản.
•
Về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền lực chính
trị thuộc về giai cấp cơng nhân: “Trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ
mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản”.
1.1.2. Một số cách tiếp cận dân chủ hiện nay
Thực tế đời sống tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay có nhiều cách tiếp cận
đối với khái niệm dân chủ. Trong đó có thể khái quát 5 cách tiếp cận cơ bản:
Thứ nhất, cách tiếp cận xem dân chủ là một phạm trù chính trị, nó chỉ ra đời,
tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ, đồng thời
cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một giá trị phổ 13
biến, có tính tồn nhân loại, thời gian và khơng gian khơng có giá trị nhiều
trong việc làm nó biến đổi.
Thứ ba, cách tiếp cận cho rằng, dân chủ và lãnh đạo là hai khái niệm không thể
tương dung; và muốn có dân chủ phải đa nguyên về chính trị.
Thứ tư, quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối thoại
hịa bình và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với chuyên
chính.
Thứ năm, xem dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử; lịch sử xã hội
loài người là lịch sử vươn lên của dân chủ với nghĩa rộng nhất của khái niệm
đó.
1.2.
Quan niệm về những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1.
Phân biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ tư sản
5
Mục đích Dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là
nền dân chủ cho đại đa số nhân
dân lao động, phục vụ lợi ích cho đại
đa số.
Là nền dân chủ mang bản
Bản chất chất của giai cấp cơng nhân, nhưng
nó phục vụ cho đa số.
Bởi vì, lợi ích của giai cấp cơng nhân
phù hợp với lợi ích của nhân dân lao
động và toàn dân tộc.
Cách
thức
Cơ sở
kinh tế
Dân chủ XHCN là nền dân chủ do
ĐCS lãnh đạo, nhất nguyên về giá trị;
còn dân chủ tư sản do các đảng của
giai cấp tư sản lãnh đạo, đa đảng
về chính trị.
Dân chủ tư sản (TS) là nền dân chủ cho
thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số.
Mang bản chất của giai cấp tư sản, lợi ích
của giai cấp tư sản đối lâp với lợi ích của
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Thực
hiện
thông
qua nhà
nước pháp quyền XHCN (thống nhất và
phân công giữa lập pháp, hành pháp và
tư pháp); cịn thực hiện thơng qua nhà
nước pháp quyền TS (tam quyền phân
lập).
Dân chủ XHCN được thực hiện trên Dân chủ tư sản được thực hiện trên cơ
cơ sở kinh tế là cơng hữu hóa các tư sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân
liệu sản xuất chủ yếu.
TBCN về TLSX chủ yếu của tồn XH
đó là chế độ áp bức bóc lột.
1.2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư bản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực
Về lĩnh vực chính trị: Dân chủ trong chính trị cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất
của hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa nhà nước
với xã hội công dân.
Về lĩnh vực kinh tế: Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất, quyết định thực chất
của dân chủ, cũng là nội dung cho thấy sự khác biệt mang tính bản chất giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, dân chủ trong kinh tế là tơn trọng và
bảo đảm hài hịa các lợi ích, trước hết là lợi ích của người lao động. Nhà nước phải
thơng qua cơ chế lợi ích, các nhân tố kích thích, các địn bẩy kinh tế mà khuyến khích,
thúc đẩy người lao động quan tâm tới sản xuất, nâng cao năng suất lao động và gắn bó
với cơng việc.
Về lĩnh vực văn hóa- xã hội: Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã
hội, một quan hệ xã hội khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung
cốt lõi của dân chủ là khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân.
6
1.3.
Những yếu tố tác động tới sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều không xuất hiện ngẫu nhiên
mà có tính tất yếu. Nó khơng xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn chủ quan của con
người mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử. Nó ra đời trong những 15 điều kiện
lịch sử nhất định. Dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội nhất
định mà dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời và mang những điểm tương
đồng và khác biệt với nhau.
Ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định nhưng mỗi thể chế dân chủ tư sản
hay dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn bị chi phối bởi yếu tố thời đại làm cho chúng có xu
hướng phát triển khác nhau. Bởi thế, bối cảnh thời đại được coi là yếu tố ảnh hưởng rất
lớn tới sự tương đồng hay khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa đương đại.
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều biến đổi nhanh
chóng, phức tạp và sâu sắc trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, quân sự, và khoa
học - cơng nghệ, trong đó, có những đặc điểm, xu hướng nổi bật và có cả những chấn
động bất ngờ, biến hóa khơn lường, đầy kịch tính. Những sự kiện lịch sử, những đặc
điểm, xu hướng vận động ấy của thế giới tác động, ảnh hưởng đến xu hướng cũng như
thể chế, phương thức thực hành dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa của các
quốc gia trên thế giới. Trong đó, đáng chú ý là những tác động của cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, tồn cầu hóa.
2. Thực chất những quan điểm tương đồng, khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.1.
Thực chất những quan điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị
-
Thứ nhất, trên phương diện là một phạm trù chính trị, cả dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa đều đề cao nguyên lý “quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Tuy nhiên, bản chất giai cấp của hai kiểu nhà nước lại khác nhau.
+ Trong quan điểm của Các Mac và Ăng ghen, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa được xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà nước, mơt chế độ xã hội
trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Trong mối quan hệ tương quan giữa quyền lực
và chế độ nhà nước, dân chủ được hiểu ở đây là chế độ dân chủ, là nền dân chủ.
+ C. Mác cho rằng, không phải mọi nhà nước đều mang hình thức dân chủ, nhưng
cơ sở hình thành và tồn tại của bất kì nhà nước nào cũng khơng thể nào khác , là phải
nhờ vào sự đóng góp chủ quyền của các công dân.Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Hê
ghen, V.Lênin cũng đã nhiều lần khẳng định, dân chủ tức là quyền lực nhà nước phải
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lí cơng việc nhà
nước, quyền lực nhà nước do nhân dân mà có và nó thuộc về nhân dân. Nhân dân có
quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm“ nhân dân” trong chế độ dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa hoàn tồn khơng giống nhau và về thực chất, nhà nước tư sản vẫn
7
là nhà nước của thiểu số giai cấp bóc lột. Nhân dân là chủ thể quyền lực chỉ được biểu
hiện qua hình thức qua hình thức phổ thơng đầu phiếu , qua quốc hội lập hiến hoặc
nghị viện.
-
Thứ hai, cả dân chủ tư sản và dân chủ XHCN đều phải thực hành dân chủ thơng
qua hình thức nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vai trò, cơ cấu và mối quan hệ
giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở hai kiểu nhà nước khác nhau.
+ Bất kì nhà nước hiện đại nào cũng quản lí xã hội bằng pháp luật, điều chỉnh
cơng việc theo luật và xử lí các vi phạm luật. Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà
nước được phân định theo ba chức năng: lập pháp, hành pháp, tư pháp, vừa có nhiệm
vụ riêng biệt, vừa có quan hê ràng buộc trên cơ sở của luật pháp, nhà nước xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng được
thiết kế chặt chẽ như vậy.
+ Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản được đánh dấu bằng việc thiết lập chính
quyền nhà nước tư sản sau khi đã đánh đổ quyền lực của các vương triều phong kiến.
Chế độ cộng hòa tư sản đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế. Nhà nươc tư sản trở
thành thiết chế quyền lực của giai cấp tư sản, bảo đảm cho giai cấp này ở địa vị thống
trị xã hội với sức mạnh thao túng xã hội cả về kinh tế và chính trị.
+ Việc xác lập nhà nước pháp quyền tư sản với sự phân định rõ vị trí , chức năng,
nhiệm vụ của các tổ chức, các thiết chế của nó và thể chế hóa nó bằng luật pháp là một
bước tiến căn bản của xã hội tư sản so với một xã hội phong kiến trong quản lý xã hội.
+ Nhà nước tư sản đã rất nỗ lực vào hoạt động lập pháp và công tác xây dựng
pháp luật. Quản lý xã hội, quản lí nhà nước dựa vững chắc vào pháp luật, xem pháp
luật là cơng cụ duy nhất quản lí có hiệu quả và là một quy luật phổ biến.
+ Sự khác biệt cơ bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa về
phương diện này lại nằm ở chỗ: dân chủ tư sản được thực hành dân chủ thơng qua hình
thức nhà nước pháp quyền tư sản, trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hành
dân chủ thơng qua hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Mặt khác, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân
đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật vì pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của tồn nhận dân. Các nhà nước pháp quyền tư
sản đều tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực thàng 3 quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
+ Trong khi nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “ tam quyền phân lập” là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thì nhà nước pháp quyền xã hơi
chủ nghĩa khơng thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là
thống nhất và thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
-
Thứ ba, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa biểu hiện ra những quan hệ
giữa các tổ chức và quan hệ xã hội mang những tính chất khác nhau.
+ Dân chủ tư sản là nền dân chủ phục vụ giai cấp tư sản , nên nó tìm cách hạn
chế, lừa gạt, trấn át , tước đoạt dân chủ đối với số đông nhân dân lao động.
8
+ Trong khi đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về số đông, là nền
dân chủ thực sự rộng rãi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện trên thực tế để giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình.
2.1.2. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
-
-
-
và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế
Chế độ dân chủ tư sản lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Trong khi đó, chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa lại lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất làm cơ sở chả sự tồn tại của mình. Chính vì vậy sau khi ra đời, chế
độ dân chủ tư sản phải được cây dựng sao cho bảo đảm sự tồn tại, phát triển của
chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và sự thống trị của giai cấp tư sản. Ngược lại, chế
độ dân chủ xã hôi chủ nghĩa phải được xây dựng sao cho người lao động thực sự
là người chủ xã hội, phát huy quyền màn chủ của nhân dân trong quản lí nhà
nước, xã hội .
Dân chủ là một phạm trù chính trị, bản chất của nó là sự phản ánh của các quan
hệ kinh tế trong xã hội. Cơ sở kinh tế vảy chế độ dân chủ tư sản là chế độ sở hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ
nghĩa dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất là chủ yếu. Chủ nghĩa cộng sản
bản chất đặc trưng là sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Cả dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa đều dựa trên nền kinh tế thị trường.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp chả nhà
nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định.
2.1.3. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
- Thứ nhất, ở phương diện xã hội, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều
được thể hiện với tính cách là phương thức tổ chức, quản lý và hoạt động của17 tổ
chức và xã hội. Tuy nhiên, cách thức thực hiện, tổ chức, quản lý và hoạt động của tổ
chức và xã hội lại có sự khác nhau mang tính bản chất.
+ Khi giải cấp tư sản ra đời, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, do các cuộc cách mạng công nghiệp đem lại, xu hướng dân chủ, tự do nảy nở và
phát triển mạnh mẽ. Đây là cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của dân chủ tư sản.
+ Bên cạnh đó, giai cấp tư sản, trong nền dân chủ tư sản còn sử dụng phương thức
cưỡng chế, chun chính.
+ Trong khi đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa coi dân chủ là tính bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Bởi lẽ, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem
lại tự do, bình đẳng thực sự tạo mọi điều kiện để con người phát triển toàn diện, trở
thành người làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ chính bản thân mình, là mục
đích tự thân của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ hai, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều là giá trị tiến bộ xã hội,
đều thừa nhận những quyền tự do, bình đẳng của công dân.
9
+ Các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng giải phóng,
nâng cao vụ trí của con người trong lịch sử hình thành và phát triển ở con người có ý
thức và năng lực làm chủ xã hội.
+ Dân chủ, giống như tất cả mọi quản lí nào khác, cuối cùng phải tan rã, sự giả dối
không thế tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong nó tất yếu sẽ phải bộc lộ ra, hoặc
là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự
và bình đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng sản .
+ Một trong những nội dung hết sức quan trọng mà Lênin quan tâm chính là dân
chủ giữa các dân tộc, tôn trọng quyền tự quyết, quyền bình đẳng các dân tộc.
2.2.
Thực trạng vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
2.2.1.
và dân chủ XHCN trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Thành tựu của sự vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ XHCN trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện
-
-
nay
Về nhận thức, qua 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận thức về
dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ và sâu sắc
hơn. Đó cũng là thành tựu của sự vận dụng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn những
điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Về thực tiễn, thành tựu vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem xét trên một số lĩnh vực cơ
bản là chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
+ Trên lĩnh vực chính trị: Trong q trình vận dụng đúng đắn những điểm tương
đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, học hỏi kinh nghiệm và những
ưu điểm của dân chủ tư sản trong lĩnh vực chính trị, qua hơn 30 năm đổi mới ở nước
ta, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể và xã hội, trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan dân cử được mở rộng và có những bước tiến mới.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: Điểm nổi bật thể hiện sự vận dụng điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta qua hơn 30 năm
đổi mới là đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh, hình thức phân phối, bình đẳng trước pháp luật, hoạt động theo pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tạo nên điều kiện nền tảng cho
việc thực hành và phát huy dân chủ.
+ Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Qua hơn 30 năm đổi mới, dân chủ trong lĩnh vực
văn hóa - xã hội đã được mở rộng và nâng lên một bước. Nhiều văn bản pháp luật đã
cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp hơn với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội.
2.2.2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra trong quá trình vận dụng những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN trong
xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.1.
Hạn chế
10
-
-
Về nhận thức: Trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN, nhận thức và nghiên cứu lý luận về
bản chất của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay vẫn chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn
đề do thực tiễn đặt ra; chưa đạt được nhiều kết quả có giá trị định hướng,
mang tính đột phá cho q trình đổi mới, xây dựng và phát huy dân chủ.
Về thực tiễn: Trong vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực tiễn xây dựng và phát huy nền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập.
+ Trên lĩnh vực chính trị: Dân chủ trong Đảng đóng vai trò quyết định chi phối và
lan tỏa dân chủ trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội, song có nơi, có lúc dân
chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn cịn tình trạng dân chủ hình thức.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: Một là, sự bình đẳng (dân chủ) giữa các thành phần kinh
tế trong tiếp cận các nguồn lực như: tín dụng, thị trường, đất đai, khoa học cơng nghệ,
sự hỗ trợ của Chính phủ… vẫn chưa được coi trọng đúng mức.
+ Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Văn hóa chưa đủ sức tác động, chi phối, điều
chỉnh hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo hướng dân chủ, công bằng, văn minh,
hiện đại. Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá văn học, nghệ thuật cịn nhiều sai sót,
lệch lạc cả về hình thức và nội dung tư tưởng...
-
Những hạn chế trong sự vận dụng điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ XHCN trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có thể được lý giải từ những nguyên
nhân cơ bản:
+ Một là, Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội tiền
tư bản. Nước ta thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng từng bước nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ xuất phát điểm là một xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất còn rất thấp lại bị chiến tranh tàn phá
kéo dài.
+ Hai là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả
cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội.
+ Ba là, trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ cịn rất
thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thực hành
dân chủ.
2.2.2.2.
Những vấn đề đặt ra
- Thứ nhất, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cịn có độ vênh đáng kể giữa lý luận và thực tiễn.
- Thứ ba, các điều kiện để thực hành dân chủ ở nước ta còn rất thiếu hụt. Hiện nay,
một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù hợp với nguyện
11
vọng của Nhân dân, một số chính sách xã hội đưa ra nhưng chưa được thực hiện
nghiêm túc, cơ chế giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật cịn lỏng lẻo.
- Thứ tư, trong nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay chưa làm sáng tỏ được sự
khác biệt giữa dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với dân chủ trong chủ
nghĩa xã hội.
- Thứ năm, trong nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có tình trạng những
bất cập thực hiện dân chủ trong Đảng mâu thuẫn với bản chất dân chủ tốt đẹp của dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
3. Yêu cầu và giải pháp vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ XHCN trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam hiện nay
3.1.
Yêu cầu đối với việc vận dụng
3.1.1. Trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam phải trên cơ sở nhận
thức đúng và vận dụng, phát triển sang tạo chủ nghĩa Mác – lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN có sự thống nhất biện chứng với lí luận
về dân chủ XHCN của chủ nghĩa Mác Lênin.Lý luận về dân chủ XHCN là một chỉnh thể
thống nhất chặt chẽ ko thể tách rời. Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện cách rời hoặc đối lập
giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mac-Lenin trong quá trình đổi mới tư duy, phát
triển nhận thức về dân chủ xã họi chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đều là những lệch lạc, sai lầm cần phải phòng tránh và phê phán.
+ Theo tinh thần khoa học của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, việc
nhận thức các tư tưởng, quan điểm về dân chủ, XHCN và xây dựng nên dân chủ XHCN
phải trong tổng thể, trong hồn cảnh củ thể, trong q trình phát triển biện chứng và khi
vận dụng nhất thiết phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử. Điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị
hiện nay đã có nhiều thay đổi so với trước đây nên giữa tư tưởng, lí luận dân chủ XHCN
của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng HCM và thực tiễn cách mạng hiện nay sẽ khơng tránh
khỏi có 1 độ vênh nhất định ở mặt này hay mặt khác,ở luận điểm này hay luận điểm khác.
+ Giá trị khoa học của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN
và xây dựng dân chủ XHCN, không chỉ được tạo nên bởi sự đúng đắn, sâu sắc từ nội dung
các quan điểm, tư tưởng và quan trọng hơn là giá trị về phương pháp luận toát lên từ những
tư tưởng và quan điểm đó.
3.1.2. Trong nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam phải gắn với việc chủ động đấu tranh chống quan điểm, hành
động sai trái, thù địch về dân chủ
Ngay khi ra đời, chủ nghã Mac và sau này là chủ nghĩa Mac – Lenin, đã lập tức trở
thành đối tượng phê phán, phủ nhận, xyên tạc và bác bỏ của các thế lực thù địch:
12
+ Một là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia
dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
+ Hai là, kết hợp tuyên truyền, phổ biến thông tin lý luận, thực tiễn về dân chủ, nhân
quyền với đấu tranh lý luận về dân chủ, nhân quyền một cách công khai, rộng rãi trên các
phương tiện thông tin khoa học chuyên ngành, thông tin đại chúng, nhất là trên mạng
thơng tin tồn cầu. Như thế mới có thể dần khắc phục được tình trạng, người dân, nhất là
thanh niên, sinh viên, trí thức, kể cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và những
người làm cơng tác tư tưởng, lý luận khó tiếp cận thơng tin lý luận chính diện, chính thống
nhưng lại dễ dàng tiếp cận thông tin lệch lạc, sai trái, thù địch, kể cả thông tin lý luận và
thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh tư
tưởng, lý luận xung quanh vấn đề về dân chủ, nhân quyền. Chú trọng nghiên cứu, phát
hiện, dự báo, nhận diện đầy đủ, đúng đắn những tư tưởng, quan điểm, hành vi lệch lạc, sai
trái trong nội bộ, những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu mới của các thế lực cơ hội, thù địch
để từ đó chủ động phê phán, uốn nắn, đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ.
+ Bốn là, phải đặc biệt coi trọng việc hiện thực hóa tư tưởng, lý luận về dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sức sống của lý luận
chính là ở sức mạnh của thực tiễn. Thực tiễn đổi mới, dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã
hội của đất nước, trong đó, trước hết là thực tiễn đổi mới, dân chủ hóa tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị là bằng chứng có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để khẳng định
giá trị soi đường của lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa và bác bỏ một cách đanh thép mọi
sự xuyên tạc, vu cáo, chống phá của các thế lực phản động, thù địch.
3.1.3. Trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam phải gắn với điều kiện cụ
thể của đất nước và xu thế vận động khách quan của thời đại
+ Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một cuộc
biến đổi to lớn, khó khăn và sâu sắc chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Độc lập dân tộc
gắn liền chủ nghĩa xã hội, từ dân chủ nhân dân tiến lên dân chủ xã hội chủ nghĩa bỏ qua
dân chủ tư sản, đó là con đường vận động, phát triển tất yếu khách quan của lịch sử Việt
Nam hiện đại.
+ Thứ hai, nước ta thực hiện đổi mới, xây dựng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản, cơng nhân quốc tế có
những bước hồi phục nhưng cịn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Xây dựng
phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện không qua trường học dân chủ tư sản,
không kinh qua nền dân chủ tư sản. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong khi chủ nghĩa tư bản đang áp đảo trên nhiều phương diện; bỏ qua dân chủ tư sản tiến
lên dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện quan hệ hợp tác sâu rộng với các nước tư bản
và các nền dân chủ tư sản.
+ Thứ ba, tính quá độ là một đặc điểm khách quan nổi bật của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Đến nay, có mặt đã ở trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, có khía cạnh
đang là định hướng xã hội chủ nghĩa, có khía cạnh cịn ở trình độ thấp hơn nữa. Cơng cuộc
xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải làm rất nhiều cơng việc
phức tạp mang tính q độ.
3.2.
Giải pháp
13
3.2.1. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội dung cần vận dụng từ
những kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các nước trên thế giới
Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã và đang vận dụng những kinh nghiệm
thực hành dân chủ ở các nước trên thế giới. Việc tham khảo để vận dụng kinh nghiệm của
các nước, chúng ta cần lưu ý một số điểm sau đây:
+ Tham khảo kinh nghiệm của cả quá khứ và hiện tại, vì trong quá khứ cũng có những
kinh nghiệm rất quý.
+ Nếu có điều kiện, chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của tất cả các nước trên thế
giới để so sánh, không phân biệt về địa lý, về chế độ chính trị.
+ Chúng ta tham khảo không chỉ những kinh nghiệm thành công mà cả những kinh
nghiệm không thành công để tránh vấp váp, sai lầm.
+ Khi vận dụng một kinh nghiệm nào đó, cần phải nghiên cứu rất kỹ hồn cảnh, điều
kiện Việt Nam để tránh áp dụng máy móc, rập khn.
3.2.2. Xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo ra
cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ XHCN
+ Một là, thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Xây
dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu,
trái phiếu... quy định rõ, quyền trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội. Nhà nước
cần xây dựng lộ trình cụ thể tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, thơng thống. Mơi
trường thuận lợi để cá nhân, doanh nghiệp phát triển là con đường nâng cao nội lực kinh
tế, bảo đảm thành công trong chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sử hữu, nhiều thành phần kinh tế.Kinh tế nhà nước
phải là thành phần quan trọng, giữ vai trò chủ đạo và là công cụ định hướng và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh
nghiệp.
+ Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Sớm hình thành
việc rà sốt, bổ sung, hồn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh phù hợp với Việt
Nam. Trong điều kiện hiện nay, để hoàn thiện thể chế môi trường kinh doanh dân chủ, cần
tập trung khắc phục thực trạng yếu kém của một số văn bản luật pháp. Đổi mới, hoàn thiện
các quy định về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, về ký kết, thực hiện hợp đồng và
giải quyết tranh chấp. Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị trường có sự điều tiết của Nhà
nước.
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân
+ Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê
14
chuẩn. Nâng cao chất lượng lập pháp của Quốc hội để xây dựng hệ thống pháp luật đồng
bộ, ổn định, tiên tiến và khả thi.
+ Thứ hai, thể chế hóa đường lối, chủ trương thực hành dân chủ thành Hiến pháp và
pháp luật. Quốc hội nói riêng và Nhà nước nói chung cần kịp thời thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách về thực hành dân chủ thành Hiến pháp, thành hệ thống đồng bộ các
đạo luật có tính khả thi cao, khơng vì và khơng được để tạo kẽ hở trong luật cho những sự
lợi dụng của các nhóm lợi ích phi pháp, tiêu cực.
+ Thứ ba, trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trước hết phải bảo đảm thực
hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm sốt có hiệu quả giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Giữa các cơ quan Nhà nước các cấp, các ngành và
mọi cá nhân, nhất là người đứng đầu cơ quan phải được phân định rõ ràng, cụ thể về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm. Tập trung xây dựng hệ thống hành chính Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực,hiệu quả.
+ Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tuỵ phục
vụ nhân dân, có tính chun nghiệp cao. Muốn làm được việc này, phải thật sự dân chủ hóa
cơng tác cán bộ; đổi mới cơ chế chính sách phát hiện, tuyển dụng, đề bạt, đãi ngộ xứng
đáng, có cơ chế, quy định đánh giá, khen thưởng, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh. Đồng
thời phải thực hiện chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ và đạo đức công chức một cách cụ
thể, nghiêm ngặt.
+ Thứ năm, cùng với việc hoàn thiện pháp luật và nêu cao trách nhiệm thi hành luật
pháp của tổ chức, cá nhân, việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật để hình thành ý thức pháp
luật, tự giác chấp hành pháp luật, hình thành văn hố pháp luật cho nhân dân là một việc
rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Mọi người dân, mọi công dân phải được trang bị những tri thức phổ thông
cần thiết về pháp luật.
3.2.4. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng, chỉnh đốn
ĐCS Việt Nam, thực hành dân chủ trong Đảng nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với xã hội
+ Thứ nhất, Đảng cần tiếp tục đổi mới công tác lý luận, tư tưởng, tổ chức cán bộ, kiểm
tra, phương thức lãnh đạo theo hướng mở rộng dân chủ hơn nữa. Đảng phải thường xuyên
coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, chăm lo công tác cán bộ; nâng cao trình
độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận với sức sáng tạo cao. Đường lối, chủ trương, chính
sách phải ln ln xuất phát từ lợi ích của nhân dân, khơng giáo điều, bảo thủ.
+ Thứ hai, Đảng phải thật sự thấm nhuần dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ; tránh
dân chủ hình thức. Đại hội VI đã nêu: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sau đó
Nhà nước đưa thành Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, nhưng vẫn còn những yếu kém trong thực tế. Cần bổ sung thêm vào nội dung dân
quyết vào cơng thức nói trên thì mới đầy đủ, vì dân biết, dân bàn... mà khơng được quyết,
thì thực chất dân chỉ đóng vai trị thụ động là thực hiện những điều mà cấp trên đã quyết.
+ Thứ ba, Đảng phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và
chống tham nhũng, lãng phí. Hiện nay, đang có những biểu hiện tiêu cực xuất hiện trong
15
đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với
Đảng, phá hoại quan hệ máu thịt giữa Đảng và Nhân dân.
+ Thứ tư, cùng với việc chủ động nâng cao đạo đức trong Đảng, phải rất coi trọng việc
nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng và thu hút được nhiều nhân tài vào Đảng .Mặt khác,
Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ. Đảng cần chủ động, tích cực
xây dựng chiến lược, xác định quan điểm, nguyên tắc công tác cán bộ; chăm lo giáo dục,
rèn luyện đảng viên, lựa chọn những đảng viên ưu tú để nhân dân bầu vào cơ quan nhà
nước, bảo đảm tính dân chủ, khách quan trong lựa chọn và giới thiệu cán bộ vào các cơ
quan nhà nước.
16
PHẦN KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu này khơng những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện,
sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mà cịn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực tiễn, giải đáp những vấn đề thực
tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên cứu, so sánh bản chất cũng như thực tiễn
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở
nhiều quốc gia tư bản trên thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần
đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hịa bình", lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân
quyền" để chống phá nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn, trước hết của giới lý luận ở nước ta.
17