TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC
Nhiều tác giả
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
CHÂU ĐỐC - AN GIANG
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM – 2021
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ............... iii
MỤC LỤC
Trang
vii
ĐỀ DẪN HỘI THẢO
I.
1.
GIÁ TRỊ LỄ HỘI
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ núi Sam trong tâm thức
người dân qua khảo sát TP Châu Đốc tỉnh An Giang
1
2.
Lâm Nhân
Nhận diện giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trong đời
sống cư dân Châu Đốc – An Giang
12
3.
Nguyễn Đức Tuấn
Giá trị di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam
28
4.
Nguyễn Thị Nguyệt
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ – một góc nhìn
44
Phan Đình Dũng
5.
Hà Thị Vân Khanh
Lễ hội cúng Bà vùng An Giang với tín ngưỡng thờ Nữ
thần của người Việt ở Nam Bộ
64
6.
Huỳnh Văn Tới
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ trong bối cảnh thờ Nữ thần
ở Nam Bộ
75
7.
Nguyễn Thanh Lợi
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Trảng Bàng (Tây Ninh)
Phí Thành Phát
87
iv ����������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
II. QUẢN LÝ, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
8. Vấn đề quản lý lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
100
UBND tỉnh An Giang
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam – khuyến nghị khi lập hồ
sơ UNESCO-02
114
Lê Thị Minh Lý
10. Nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa phi vật thể lễ hội
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
124
Nguyễn Thị Uyển
11. Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
trong phát triển du lịch An Giang
140
Nguyễn Thị Minh Ngọc
12. Bảo tồn và phát triển bền vững giá trị lễ Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam theo Cơng ước của UNESCO
150
Võ Văn Sịnh
13. Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
trong xây dựng nơng thôn mới tại thành phố Châu Đốc
161
Nguyễn Văn Tấn
14. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ núi Sam
176
Trần Thanh Xun
15. Vai trị của cộng đồng địa phương trong việc giữ gìn và
phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
188
Cao Nguyễn Ngọc Anh
16. Sự tham gia của người dân trong bảo tồn và phát huy giá
trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
200
9.
Đặng Hoàng Lan
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ v
17. Cộng đồng cư dân thành phố Châu Đốc với việc gìn giữ
và phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
Lâm Thanh Sơn
18. Đưa lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam vào trong dạy học lịch
sử – một giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể
Dương Tấn Giàu
19. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam – từ biểu tượng tâm linh
đến việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống văn hóa
của dân tộc
Châu Thị Thùy Trang
20. Truyền thông với phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
Trần Lâm Kim Phượng
21. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam dưới góc nhìn du lịch
hành hương
Huỳnh Cơng Hiếu
22. Kết nối lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (Châu Đốc, An
Giang) với hệ thống di sản văn hóa được cơng nhận phục
vụ phát triển du lịch bền vững
212
223
239
256
267
282
Đào Vĩnh Hợp
Võ Thị Ánh Tuyết
23. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành di sản văn hóa
phi vật thể đại diện nhân loại: thời cơ và thách thức
298
Huỳnh Thị Thùy Trang
24. Múa Bóng rỗi trong lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam – nhu
cầu văn hóa và sản phẩm du lịch
308
Võ Văn Thắng, Nguyễn Trung Hiếu
vi ����������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
25. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể nhìn từ 330
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới
Nguyễn Thị Thanh Xuyên
26. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tại lễ hội Bà Chúa
Xứ (Châu Đốc – An Giang) nhằm phát triển du lịch địa
phương từ kinh nghiệm các nước trên thế giới
Phạm Thị Huệ
27. Thành tựu và kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể
Nguyễn Thái Hịa
351
361
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang .............. vii
ĐỀ DẪN HỘI THẢO
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM CHÂU ĐỐC – AN GIANG
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử, văn hố, khoa học, được lưu giữ và trao truyền qua nhiều thế
hệ, bằng nhiều hình thức. Trong loại hình di sản văn hóa phi vật thể
được quy định bởi Luật Di sản văn hóa 2001 và sửa đổi 2009, lễ hội
truyền thống chiếm số lượng lớn và có vai trị quan trọng đối với đời
sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đó là
nguồn tài sản vơ giá của quốc gia, liên quan đến con người và các
cộng đồng. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam là lễ hội truyền thống
được gìn giữ và thực hành qua nhiều thế hệ tại thành phố Châu Đố,
tỉnh An Giang. Lễ hội đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa
vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014.
Hội thảo “Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang” do Trường Đại học Văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh và UBND thành phố Châu Đốc phối hợp tổ
chức nhằm mục đích làm rõ hơn các giá trị của lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam tỉnh An Giang, nhận diện mặt tích cực và những hạn chế,
bất cập trong tổ chức, quản lý và thực hành lễ hội để đưa ra những
định hướng, giải pháp bảo tồn và phát triển lễ hội một cách hài hòa,
phù hợp trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp
với Ban Quản lý Khu Di tích Văn hố, Lịch sử và Du lịch Núi Sam,
tiến hành nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng lễ hội Vía Bà
Chúa Xứ núi Sam trong 6 tháng đầu năm 2021 và đồng thời xây dựng
kế hoạch tổ chức hội thảo. Sau gần 2 tháng thông báo chuẩn bị hội
viii ỷ��������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
thảo, Ban tổ chức đã nhận được 31 tham luận của các nhà khoa học,
nhà quản lý và nghiên cứu ở lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn
trên cả nước. Trên cơ sở nội dung, mục tiêu của hội thảo, Ban tổ chức
đã thành lập Tổ chuyên gia, tiến hành thẩm định và chọn 27 tham
luận phù hợp với chủ đề của hội thảo để đưa vào kỷ yếu của hội thảo.
Nội dung của các tham luận khá phong phú, đa chiều nhưng chủ
yếu tập trung về vấn đề nhận diện giá trị di sản lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ núi Sam; lý luận và thực tiễn bảo tồn và phát huy lễ hội trong bối
cảnh hiện tại; gợi mở những giải pháp thiết thực cho hoạt động quản
lý, bảo tồn và phát huy. Bên cạnh đó, một số tham luận đề cập đến
kinh nghiệm thực tiễn ở một số quốc gia là cơ sở tham khảo quan
trọng cho việc quản lý, bảo tồn và phát triển lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam nói riêng và lễ hội cả nước nói chung. Ban tổ chức cũng lấy
làm tiếc đối với những tham luận chưa được sử dụng trong hội thảo
này, bởi nội dung chưa có nhiều gắn kết với chủ đề đã đặt ra.
Trên cơ sở nội dung của các tham luận, Ban tổ chức thực hiện kỷ
yếu khoa học theo ba nhóm chủ đề:
– Giá trị của lễ hội (7 tham luận);
– Quản lý, bảo tồn và phát huy (17 tham luận);
– Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới (3 tham luận).
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối bởi có nhiều tham
luận trong cùng một nhóm chủ đề, nhưng có tham luận bàn luận
chuyên sâu, cụ thể và cũng có tham luận mang tính tổng hợp, so
sánh. Nhưng vấn đề quan trọng hơn cả là thông qua hội thảo, chúng
tôi mong muốn được lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học, các nhà
quản lý và cộng đồng cùng tham gia bàn luận về hoạt động quản lý,
vận hành cũng như hoạt động bảo tồn và phát huy Lễ hội một cách
hiệu quả nhất.
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ............... ix
Thay mặt Ban tổ chức, chúng tôi trân trọng cảm ơn các tác giả đã
gửi tham luận đến với hội thảo khoa học này. Do tình hình dịch bệnh
covid-19, nên hội thảo không thể diễn ra theo đúng kế hoạch, thời
gian tổ chức hội thảo cũng hạn chế. Vì vậy, chúng tôi đề nghị quý vị
đại biểu tham dự trao đổi trên tinh thần xây dựng và khoa học hướng
đến một kết quả tốt nhất.
Thay mặt lãnh đạo Trường Đại học Văn hóa TP HCM, kính chúc
q vị mạnh khỏe, chúc hội thảo thành công tốt đẹp.
Trân trọng!
Hiệu trưởng/Trưởng ban tổ chức Hội thảo
PGS.TS Nguyễn Thế Dũng
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ 1
TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
TRONG TÂM THỨC NGƯỜI DÂN QUA KHẢO SÁT
THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC TỈNH AN GIANG
Lâm Nhân *
Tóm tắt: Bài viết này tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ trong tâm
thức của người dân tại chỗ ở vùng Châu Đốc, An Giang qua nghiên cứu
khảo sát lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam từ ngày 31/5/2021 đến ngày
08/6/2021, với các thao tác quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Bài
viết góp phần tìm hiểu thêm và kiểm chứng truyền thuyết về Bà Chúa
Xứ và thực hành tín ngưỡng trong cuộc sống hàng ngày của cư dân
Châu Đốc, chủ thể của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ núi Sam.
Từ khóa: Bà Chúa Xứ, tín ngưỡng, tâm thức, Châu Đốc.
1. Mở đầu
Vùng đất Châu Đốc, tỉnh An Giang nằm ở vị trí đắc địa bên bờ
sông Hậu, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Núi Sam với độ
cao 284 m nổi lên giữa vùng đất phù sa của các nhánh sông tạo nên
cảnh quan phong thủy hữu tình. Phía đơng và đơng bắc núi Sam có
dịng sơng Hậu chảy từ Campuchia vào Việt Nam và đổ ra biển Đơng,
phía tây có kênh Vĩnh Tế chạy song song với biên giới Campuchia,
nối liền với vùng Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang – nơi còn lưu danh võ
tướng Thoại Ngọc Hầu là người đào kênh để giúp dân phát triển kinh
tế nông nghiệp và bảo vệ bờ cõi phía Nam.
Tên gọi kinh Vĩnh Tế được đặt theo tên vợ cả của Thoại Ngọc
Hầu là bà Châu Thị Vĩnh Tế (1766 – 1826) hay cịn có tên khác là
Châu Thị Tế. Bà nổi tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang, đã
*
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
2 ........................................................................................... Kỷ yếu Hội thảo khoa học
góp phần khơng nhỏ trong sự nghiệp lừng lẫy của chồng. Bà còn là
người có cơng xây dựng miếu Bà Chúa Xứ núi Sam – Châu Đốc. Khi
Thoại Ngọc Hầu được vua giao trọng trách đào con kênh nối liền từ
Châu Đốc đến Hà Tiên, bà đã tận tụy giúp chồng chăm lo công việc
đại sự. Những lúc chồng bận việc công cán, bà đã thay chồng lãnh
phần đơn đốc, coi ngó việc đào kênh. Để tuyên dương công trạng của
vợ chồng Thoại Ngọc Hầu và thể theo lòng dân mến mộ, vua Minh
Mạng cho lấy tên chồng bà là Nguyễn Văn Thoại đặt cho con kênh
“Thoại Hà”, núi “Thoại Sơn”, đặt tên kênh Châu Đốc – Hà Tiên là
“Vĩnh Tế Hà”, núi Sam gần đấy là “Vĩnh Tế Sơn” và làng cạnh núi là
“Vĩnh Tế Thôn”. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua cho chạm hình
tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, đỉnh đồng lớn nhất trong Cửu
đỉnh đặt tại Thế miếu, Huế.2 Khu vực Vĩnh Tế thôn ngày nay bao gồm
phường Núi Sam và xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc.
Châu Đốc là nơi cộng cư và giao lưu văn hóa của nhiều dân tộc
anh em như: người Khơme, người Chăm, người Hoa và người Việt.
Một trong những biểu hiện văn hóa, kết quả của q trình lưu tiếp
biến văn hóa đó chính là miếu Bà Chúa Xứ núi Sam và lễ hội Vía Bà
Chúa Xứ núi Sam, chứa đựng những giá trị lịch sử – văn hóa đặc
trưng của cư dân Việt trong dịng chảy văn hóa Nam Bộ.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam vốn là lễ hội truyền thống của
dân làng Vĩnh Tế, với tín ngưỡng bản địa thờ Mẹ Đất. Trải qua sự bồi
đắp của lịch sử, Bà đã vượt ra khỏi phạm vi làng để trở thành biểu
tượng thiêng liêng, có quyền năng của vị Thánh Mẫu, của Bà mẹ Xứ
Sở che chở cho nhiều tộc người cùng sinh sống trên một vùng đất.
Thế nên có thể thấy hội tụ ở Bà Chúa Xứ núi Sam bóng dáng hình
tượng Thánh Mẫu Ponargar của người Chăm, nữ thần Neang Khmau
(Bà Đen) của người Khơme và Thiên Hậu của người Hoa.
truy cập ngày
29/7/2021.
2
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ 3
Bà Chúa Xứ nằm trong hệ thống Thánh Mẫu được tôn thờ trong
điện thần và tổ chức các thực hành liên quan như lễ hội, tế lễ và các
hình thức diễn xướng dân gian khác. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
trong dịng chảy của văn hóa Việt Nam, đại diện cho văn hóa của cư
dân vùng Tây Nam Bộ.
Theo truyền thuyết, Bà Chúa Xứ là người trời được Ngọc Hoàng
sai xuống cứu dân độ thế, canh giữ bờ cõi. Bà là một trong sáu nữ
thần bất tử trong tín ngưỡng dân gian của người Việt (Bà Chúa Bầu,
Bà Chúa Liễu, Bà Chúa Tó, Bà Chúa Kho, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa
Xứ). Do đó, việc thờ phụng Bà khơng chỉ có người dân Châu Đốc mà
cịn có cả vùng Tây Nam Bộ.
Bà Chúa Xứ đã trở thành biểu tượng thiêng, có quyền năng che
chở, đùm bọc người dân trong vùng. Niềm tin và khát vọng đó được
trao truyền, vun đắp qua nhiều thế hệ để tạo nên sức mạnh tinh thần.
Bà là một biểu tượng của tín ngưỡng thờ Mẹ, Thánh Mẫu, một đức
tin vào quyền năng và sự che chở của Mẹ từ Nam đến Bắc. Mỗi năm
có hàng triệu lượt người dân và du khách về vùng đất núi Sam để
viếng và cúng lễ Bà hòng cầu mong cho được sức khỏe, làm ăn, kinh
doanh phát đạt.
2. Khái quát về nguồn gốc Bà Chúa Xứ
Có nhiều tư liệu, cơng trình khoa học đã cơng bố về nguồn gốc
Bà Chúa Xứ núi Sam, bài viết này tổng quan lại cách lý giải từ quan
điểm khoa học và dân gian về nguồn gốc của Bà.
– Lý giải về nguồn gốc tín ngưỡng Bà chúa Xứ núi Sam của một
số học giả. Nghiên cứu hiện tượng Bà Chúa Xứ, các học giả lý giải
khác nhau:
Nghiên cứu đầu tiên về bức tượng Bà phải nhắc đến cơng trình
của nhà khảo cở người Pháp Louis Malleret. Ông đến tham quan
4 ........................................................................................... Kỷ yếu Hội thảo khoa học
miếu, quan sát kỹ pho tượng, từ chất liệu cấu tạo, phương pháp tạc
tượng cho đến phong cách ngời của pho tượng. Ơng đã làm việc
nhiều ngày liền trong các viện bảo tàng và viện nghiên cứu. Bằng
những phương pháp so sánh và loại suy, ông đưa ra kết luận: pho tượng
được trước tác từ thời trung cổ (vào cuối thế kỷ VI) và rất có thể là một
trong sớ hiện vật của nền văn hố Ĩc Eo cịn sót lại, mang tính chất
tượng thần Shiva3. Dân gian lưu truyền lại là sau khi ông Malleret cởi
áo bức tượng ra để chụp ảnh thì bị các bơ lão trong làng phản đối,
ơng phải làm một nghi lễ dâng Bà để tạ lỗi. Từ đó, mọi việc của ơng
mới được sn sẻ.
Tác giả Ngơ Đức Thịnh lại cho rằng: “Nhìn vào các lớp văn hóa
tạo nên biểu tượng tâm linh Bà Chúa Xứ, chúng ta đều thấy thấp
thống hình bóng Bà Mẹ Xứ Sở – Pô Inư Nưgar của người Champa,
Thánh mẫu Thiên Yana của người Việt, nữ thần Neang Khmau (Bà
Đen), tục thờ Neak Tà của người Khơme và xa xưa hơn, nhưng cũng
biểu hiện hơn là tất cả các biểu tượng trên đều được quy tụ trong linh
tượng Shivalinga và Sakti của Shiva là nữ thần Uma của Bàlamôn
giáo, mà truyền thuyết bức tượng Bà Chúa Xứ An Giang đã mách bảo
chúng ta những điều như vậy, cho dù bề ngoài bức tượng đó cũng đã
được cải trang dưới hình dáng Thánh Mẫu của người Việt4. Tác giả
Trần Ngọc Thêm trong công trình Văn hóa người Việt vùng Tây Nam
Bộ cho rằng: “Thực ra lực lượng qút định sự hình thành tín ngưỡng
Bà Chúa Xứ ở Tây Nam Bộ không phải là người Khmer với tín ngưỡng
Bà Đen, cũng khơng phải người Chăm với tín ngưỡng thờ Bà Mẹ Xứ Sở
mà đúng hơn là sự phối hợp của cả ba tộc người, trong đó đóng vai trị
Châu Bích Thủy (2011), Bí ẩn về Bà Chúa Xứ Núi Sam, NXB Văn hóa Văn nghệ,
TP. HCM. Dẫn theo Bùi Thị Ngọc Phượng (2015).
4
Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo mẫu ở Việt Nam, tập 1, NXB Tôn giáo, H. tr. 282.
Dẫn theo Bùi Thị Ngọc Phượng (2015),
3
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ 5
chủ đạo là người Việt”.5 Tác giả cho rằng pho tượng đàn ông tạc thần
Vishnu (một số học giả lại cho là thần Shiva) trên núi Sam đã được
mang xuống trang điểm để biến cải thành tượng đàn bà Việt với hình
hài Bà Chúa Xứ phúc hậu. Việc thờ cúng Bà Chúa Xứ trong lễ hội Núi
Sam, chính là bắt ng̀n từ nhu cầu tín ngưỡng dân gian thờ Mẹ vớn
ẩn sâu trong tiềm thức của người Việt. Từ đó, họ sẵn sàng chấp nhận
pho tượng đá tượng trưng cho vị nữ thần mà không cần xem xét truy
nguyên gốc gác của pho tượng ấy thuộc nền văn hóa nào…6
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đồng quan điểm với tác giả Trần
Ngọc Thêm về tính chất thờ Mẹ đã ăn sâu trong tiềm thức người Việt;
trong quá trình khẩn hoang, nhu cầu về việc thờ mẹ càng lớn hơn.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa về thờ mẹ xứ sở của
người Chăm cộng với tính phóng khống, dễ chấp nhận các lý giải
các hiện tượng siêu nhiên nên họ không cần quan tâm đến xuất xứ
của pho tượng, miễn là pho tượng đó đáp ứng được nhu cầu tâm linh
của họ. Bà Chúa Xứ xuất hiện là lẽ tất yếu, là sự lựa chọn hợp lý của
cư dân miền sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long.
– Nguồn gốc Bà Chúa Xứ lưu truyền trong dân gian vùng Châu
Đốc, An Giang. Truyền thuyết phổ biến nhất về sự xuất hiện của Bà
chúa xứ Núi Sam là: Cách đây khoảng 200 năm có một bọn cướp quấy
nhiễu vùng biên giới đã đến vùng núi Sam. Tại đây chúng gặp tượng
Bà ở trên gần đỉnh núi. Khi ấy chúng tìm cách đem đi nhưng không
làm sao đem đi được mà chỉ xê dịch được một đoạn. Bực mình chúng
bèn đập phá không thương tiếc và làm gãy tay trái của pho tượng, sau
đó chúng bỏ đi. Dân làng đã kéo lên rất đông và những người dân lực
lưỡng, khoẻ mạnh định chuyển pho tượng xuống núi, nhưng lạ thay
Trần Ngọc Thêm (CB, 2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, NXB
VHVN, TP. HCM, tr. 225.
6
Trần Ngọc Thêm (CB, 2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, NXB
VHVN, TP. HCM, tr.103.
5
6 ........................................................................................... Kỷ yếu Hội thảo khoa học
tượng không hề lay chuyển. Khi ấy Bà bèn đạp đồng cho một người phụ
nữ, tự xưng là Chúa Xứ Thánh Mẫu, mách cho dân nếu muốn đem Bà
xuống núi chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên di tượng là được. Quả nhiên
khi 9 cơ gái đờng trinh được cử đến thì tượng Bà trở nên nhẹ nhàng
và di chuyển một cách dễ dàng. Dân làng vui mừng chuyển tượng Bà
xuống chân núi. Nhưng khi đến chỗ miếu Bà bây giờ, bỗng dưng pho
tượng trở nên rất nặng không sao di chuyển được nữa. Dân làng cho
rằng Bà muốn ngự tại đây nên lập miếu thờ, đó là khoảng thời gian
những năm 1820 – 1825. Lúc đầu miếu được xây dựng đơn sơ bằng
tre lá, nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, chính điện nhìn
ra con đường làng và cánh đồng lúa bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu,
miếu càng ngày càng được xây dựng khang trang hơn7. Câu chuyện
này được ông Thái Công Nô – chánh tế của Miếu – ghi lại trong cơng
trình Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Hội Văn học Nghệ thuật TP
Châu Đốc xuất bản năm 2014. Trong quá trình điền dã, khảo sát và
phỏng vấn người dân, hầu hết cư dân trong vùng đều biết sự tích này.
Một số truyền thuyết khác lại cho rằng, bọn cướp đến phá làng
xóm, sau đó lên núi thấy pho tượng q mà khơng thể nào mang về
được. Chúng bèn đập phá làm gãy tay của Bà. Lúc này Thoại Ngọc
Hầu là người đuổi đánh bọn cướp đi và đưa tượng Bà về dưới núi
để tiện bảo vệ. Tuy nhiên, qn lính khơng thể nào di chuyển được
tượng. Chuyện về sau thì giống như truyền thuyết trên.
Như vậy, cho dù đó là bức tượng thần Vishnu hay Shiva nhưng
đã được Việt hóa thành những câu chuyện thần bí. Chính những câu
chuyện, hiện tượng khơng thể giải thích được, truyền miệng trong
dân gian đã ngày càng làm lên sự linh thiêng của Bà. Đối với Bà,
người dân chỉ có thành kính, thành tâm mới được Bà chứng, việc
gian đối với Bà đều từ từ bị phát hiện.
7
Hội Văn nghệ Châu Đốc (2004), Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, An Giang,
tr 10.
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ 7
3. Vấn đề thực hành tín ngưỡng hàng ngày
Đối với người dân Châu Đốc, việc đi lễ vào dịp Vía Bà là không
thường xuyên, đặc biệt là đối với người dân buôn bán. Mùa lễ hội,
nhiều khách hành hương từ mọi miền đất nước tụ họp, đây là dịp
kinh doanh buôn bán. Tuy nhiên, điều không thể thiếu với người dân
là đi vía Bà vào dịp Giao thừa. Thời điểm này khách thập phương hầu
như khơng có, người dân địa phương xem đây là dịp vía Bà đầu năm,
cầu mong cho được một năm mới gia đạo an khang, làm ăn phát đạt.
Anh Lợi chủ khách sạn cho biết: “…mình ít đi vía Bà vào mùa này
lắm, bà con ở đây cũng vậy, mùa này khách đơng, vào khó khăn với lại
đây là mùa phục vụ khách du lịch, đông lắm,… họ đến đầy khách sạn,
hết phịng thì ngủ ngồi sảnh, mình cũng thơng cảm và tạo điều kiện
cho khách, đâu có thời gian mà đi vía, riết thì quen luôn. Em và ở đây
chủ yếu đi vào đêm Giao thừa để xin lộc Bà đầu năm mới.8
Khi tìm hiểu về việc người dân có tham dự lễ Tắm bà khơng
thì được biết hiếm khi mà họ có dịp được “mục sở thị”, có rất nhiều
nguyên nhân mà chủ yếu là do quá đông người ở khắp nơi đến để
cầu mong có dịp chứng kiến nghi lễ thiêng liêng này nhưng khu vực
Miếu thì rất hạn hẹp, khơng thể đáp ứng nổi cho nhu cầu của khách
thập phương. Những buổi lễ chính, người ta sẽ đóng cửa, rào lại, người
ta chặn khơng cho ai vơ hết. Chỉ có Ban tổ chức, lãnh đạo hoặc các
đoàn đăng ký trước. Ban tổ chức phát phiếu cho người vào, phiếu đó
phân ra ba loại: một loại phiếu của lãnh đạo, một loại phiếu của nhân
viên và những người thường là mạnh thường quân của Miếu. Phiếu
đặc biệt sẽ được vô ở bên trong, phiếu màu xanh thì sẽ ở ngồi phần
hành lang, ở ngồi sảnh đằng trước, là mình chỉ được ngồi ở phần đó
và khơng được vơ trong.9
Trích biên bản phỏng vấn anh Lợi, chủ khách sạn Hải Âu, phường Núi Sam.
Trích biên bản phỏng vấn nhóm ngày 31/5/2021 tại phường Núi Sam.
8
9
8 ........................................................................................... Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Như vậy, do q đơng khách thập phương đến vía Bà vào mùa
lễ hội, để ổn định trật tự, sắp xếp, chuẩn bị vật phẩm dâng cúng và
tổ chức các nghi lễ được chu đáo, Ban tổ chức lễ hội phải nghĩ ra
cách làm các phiếu ra vào cổng sao cho hạn chế số lượng người vào
khu vực chính điện của miếu. Cách làm này cũng khơng được sự hài
lịng của một bộ phận bà con Châu Đốc và khách hành hương. Tuy
nhiên, họ cũng chẳng còn cách nào khác. Điều này cũng lý giải cho
việc phỏng vấn người dân Châu Đốc về việc tham dự lễ Tắm Bà, rất
ít người đã từng được tham dự. Ngay cả trong Ban quản lý Khu di
tích văn hóa, lịch sử và du lịch Núi Sam, Lễ hội tháng 6/2021, do dịch
bệnh Covid-19, Ban tổ chức không tổ chức phần hội, chỉ tổ chức nghi
lễ với việc thực hiện mang tính nội bộ, họ mới lần đầu tiên được tham
dự nghi lễ này.10
Hàng ngày, vào dịp ít khách thập phương đến viếng, sau giờ làm
việc người dân Châu Đốc cũng ghé Miếu cúng bà. Đặc biệt, khu bệ
đá thờ Bà trên đỉnh núi, buổi chiều tối người dân (chủ yếu là thanh
niên) thường chạy xem máy lên cúng. Quan sát cho thấy, khu vực này
cao, gió mát, thơng thống, thanh niên vừa đi cúng Bà, vừa thưởng
ngoạn cảnh quan, hóng mát sau một ngày làm việc mệt mỏi. Phỏng
vấn anh Minh Đăng cho biết: “…nhà em bán quán từ 4 giờ chiều, khi
hết khách khoảng 8, 9 giờ là tụi em rủ nhau lên bệ đá thờ Bà trên núi
để cầu được may mắn, và hóng mát,… Thường thì tụi em 2-3 ngày thì
đi lên 1 lần, khơng có ngày cụ thể, cứ rảnh là chạy lên thơi.11 Đăng mới
24 tuổi, nhóm bạn cũng trạc tuổi Đăng. Điều này có thể lý giải được
sự trao truyền và sáng tạo truyền thống. Trước đây, người dân chủ
yếu vào miếu vía Bà cầu may, ngày nay việc vía Bà cũng đa dạng hơn,
kết hợp với giải trí sau một ngày làm việc. Đặc biệt, từ khi con đường
lên bệ đá thờ Bà được mở rộng cùng với sự phát triển của khu resort
10
11
Trích biên bản quan sát tham dự của Lâm Nhân 6/2021.
Trích biên bản phỏng vấn Minh Đăng, bán hàng ăn, ngày 01/6/2021.
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang ................ 9
Victoria Núi Sam lodge, giao thông thuận tiện cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự đổi mới và sáng tạo truyền thống.
Điều quan trọng trong tâm thức cộng đồng cư dân Châu Đốc là
việc vía Bà khơng nhất thiết phải đi vào mùa lễ hội. Mùa này là dịp
để khách hành hương ở xa đến vía. Họ là người địa phương, là dịp để
phục vụ các dịch vụ thiết yếu như hướng dẫn, vận chuyển, chỗ nghỉ
chân, làm đồ cúng và các dịch vụ mua bán khác. Đây là dịp mang lại
nguồn thu nhập cho gia đình và cộng đồng.
4. Tạm kết
Lễ hội Vía Bà khơng chỉ phục vụ nhu cầu tâm linh, sinh hoạt
văn hóa văn nghệ của cộng đồng mà di sản đã trở thành tài ngun
văn hóa vơ giá cho phát triển kinh tế, du lịch bền vững. Với hệ thống
chùa, đình, miếu, am thờ tự và lễ hội, cùng các trò chơi dân gian
trong những ngày hội, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam đã trở thành
một địa điểm hành hương, du lịch tâm linh của người dân trong
vùng và người dân cả nước. Trong tâm thức người dân Châu Đốc nói
riêng và cả khu vực nói chung, Bà Chúa Xứ đã trở thành Đức Mẹ linh
thiêng trong tâm thức người dân, là biểu tượng cho tình u cao cả,
lịng từ bi độ lượng. Quyền năng của Bà lan tỏa và có sức sống mãnh
liệt tuyệt đối và giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tín ngưỡng của
người Việt ở vùng Nam Bộ.
Lễ hội Vía Bà tạo nên sự gần gũi và chia sẻ giữa nhiều cộng đồng
dân tộc ở Nam Bộ. Sự sáng tạo trong sinh hoạt tín ngưỡng và sự hịa
hợp đồng thuận trong đời sống văn hóa tâm linh là một trong những
sợi dây nối kết quan trọng giữa các dân tộc khác nhau, tạo lập nên
một cộng đồng xã hội đồng thuận trong một khơng gian văn hóa
chung. Sự có mặt của nhiều tộc người, thành phần từ khắp mọi nơi
tạo ra một cộng đồng thờ Bà Mẹ xứ sở mang tính cởi mở. Lễ hội, vì
10 ���������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
thế mà tạo nên sự đối thoại, giao lưu văn hóa, và đồng thời cũng thể
hiện sự tôn trọng sự đa dạng văn hóa của các cộng đồng có sự tương
đồng về tín ngưỡng, thực hành thờ Thánh Mẫu.
Lễ hội không chỉ phục vụ nhu cầu tâm linh, văn hóa tinh thần
của cộng đồng mà cịn là tài ngun văn hóa góp phần phát triển
kinh tế, du lịch bền vững. Với hệ thống chùa, đình, miếu, am thờ tự
và lễ hội, cùng các trò chơi dân gian trong những ngày hội, lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ núi Sam đã trở thành một địa điểm hành hương, du lịch
tâm linh của người dân trong vùng và người dân cả nước.
Trong những năm qua, với sự quan tâm của chính quyền, người
dân Châu Đốc và cộng đồng thực hành lễ hội đã ln duy trì, gìn giữ
và phát huy giá trị lễ hội Vía Bà Chúa Xứ. Nhờ đó, hàng năm lễ hội
Vía Bà thu hút khoảng 4,5 triệu lượt du khách đến hành hương, dâng
lễ, cúng bái, cũng như chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên của vùng
đất Châu Đốc, An Giang. Trong bối cảnh cuộc sống đương đại tạo
ra sự biến đổi của các sinh hoạt tín ngưỡng, giá trị nhân văn, giá trị
văn hóa và nghệ thuật, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam hiện vẫn tồn
tại với sức sống mạnh mẽ và ngày càng thu hút đông đảo khách thập
phương tham dự, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng các dân
tộc sinh sống tại đây và góp phần đáng kể trong phát triển bền vững
kinh tế địa phương.
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang .............. 11
Tài liệu tham khảo
Hội Văn nghệ Châu Đốc (2004). Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, An Giang.
Bùi Thị Ngọc Phượng (2015). Lễ hội Bà chúa xứ của người Việt ở Nam Bộ,
Luận án tiến sỹ Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa – Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (CB, 2013). Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bọ. Nxb
VHVN, TP HCM.
Ngô Đức Thịnh (2009). Đạo mẫu ở Việt Nam, tập 1. Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
Châu Bích Thủy (2011). Bí ẩn về Bà Chúa Xứ Núi Sam. Nxb VHVN, TP HCM.
Biên bản quan sát tham dự; Biên bản phỏng vấn sâu của Lâm Nhân, tháng
5,6/2021.
truy cập
ngày 29.7.2021
12 ���������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
NHẬN DIỆN VÀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
Nguyễn Đức Tuấn *
Tóm tắt: Lễ hội vía bà chúa Xứ núi Sam là lễ hội cấp quốc gia, đã được
ghi vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2015. Lễ hội
vía bà Chúa Xứ núi Sam là một hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp,
là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa của các cộng đồng dân cư
như Kinh, Hoa, Khmer, Chăm sinh sống trên địa bàn thành phố Châu
Đốc, tỉnh An Giang. Đây là lễ hội đặc sắc và chứa đựng nhiều giá trị
như giáo dục, văn hóa tâm linh, kinh tế…, là nguồn tài nguyên nhân
văn góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Từ khóa: Châu Đốc, lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam.
1. Mở đầu
Châu Đốc là thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, sát biên
giới Việt Nam với Campuchia, cách thành phố Long xuyên 54 km
theo Quốc lộ 91. Đông bắc tiếp giáp huyện An phú; Tây bắc giáp
Campuchia; phía Đơng giáp huyện Phú Tân; phía Nam giáp huyện
Châu Phú; phía Tây giáp huyện Tịnh Biên.2
Thành phố Châu Đốc thuộc vùng đồng bằng của tỉnh An Giang
do phù sa sông Hậu bồi đắp. Địa hình thấp dần theo hướng Đơng
Bắc – Tây Nam. Ở trung tâm có núi Sam nổi lên giữa đồng bằng tạo
thành cảnh quan độc đáo; Phía Đơng có sơng Châu Đốc và sơng Hậu
*
2
Tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
/>ctp-dieukientunhien/!ut/p/z1/04_iUlDgAgL9CCADyIQSuGj9qLzEssz0xJLM_
LzEHP0I_cgos3hLSxdPA28TQx93V0dzA0cPH3MjH1NLQwMzQ30v_
Sj8CgqyAxUBexNyGQ!!/
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang .............. 13
chảy theo chiều Bắc – Nam; Phía Tây có kênh Vĩnh Tế chạy song song
với biên giới Campuchia, nối liền với thị xã Hà Tiên. Địa hình chia
cắt bởi các kênh rạch ngang dọc. Với địa hình đa dạng, Châu Đốc có
điều kiện phát triển về thương mại, dịch vụ, du lịch và nơng nghiệp.
Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc,
bao gồm 5 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh
Mỹ, Vĩnh Nguơn và 2 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Tế được chia thành 52
khóm – ấp3 với số dân 119 ngàn người4 gồm các dân tộc Kinh, Hoa,
Khmer, Chăm sinh sống cộng cư tạo nên sự đa dạng văn hóa trong
đời sống xã hội của vùng đất biên cương này.
Thành phố Châu Đốc là trung tâm thương mại biên giới của
vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời là trung tâm du lịch, tạo
động lực cho sự phát triển chung của tồn tỉnh. Châu Đốc cịn có
vai trị nịng cốt trong phát triển kinh tế, xã hội vùng biên giới. Các
thành phần kinh tế của thành phố phát triển mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực như dịch vụ, thương mại, du lịch, nông nghiệp. Châu Đốc
cũng là đơn vị trực thuộc tỉnh đầu tiên hoàn thành chỉ tiêu xây dựng
nông thôn mới, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới; 100% hộ dân (cả
ở thành thị và nông thôn) đều được sử dụng điện và nước sạch, là
đơn vị duy nhất của tỉnh đạt mục tiêu này.5
Ngoài ra, Châu Đốc là vùng đồng bằng nằm trên bờ sông Hậu,
thuận tiện phát triển kinh tế nông nghiệp. Thành phố đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp theo hướng tăng giá trị và chất lượng nông sản đáp
/>4
Truy cập 9h30 ngày 25/7/2021.
5
Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
3
14 ���������������������������������������������������������������������������������������� Kỷ yếu Hội thảo khoa học
ứng nhu cầu xuất khẩu. Xác định phát triển du lịch là kinh tế mũi
nhọn, do vậy Thành phố có chiến lược đầu tư và triển khai hàng chục
dự án giao thông, đô thị, thương mại gắn với phát triển du lịch bền
vững. Về cơ bản, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đang hoàn
thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu
cầu của du khách. Theo thống kê, mỗi năn Châu Đốc đón từ 4 đến 5
triệu lượt du khách, doanh thu du lịch nhiều ngàn tỉ đồng, góp phần
quan trọng trong tăng nguồn thu cho ngân sách của thành phố6.
2. Lễ hội Vía bà Chúa xứ núi Sam Châu Đốc
Lễ hội Vía bà chúa Xứ núi Sam cịn gọi là lễ hội Bà Chúa Xứ hay
nói ngắn gọn hơn là lễ Vía Bà, lễ hội Bà Châu Đốc hay lễ hội Bà Núi
Sam được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng tư âm lịch hằng năm.
Trước đây, lễ hội Vía bà Chúa Xứ núi Sam chỉ diễn ra hơn một ngày
và chủ yếu gồm có một số lễ thức đơn giản. Từ năm 2002 đến nay
lễ hội Vía bà Chúa Xứ đã được UBND tỉnh An Giang nâng tầm lên
thành lễ hội quốc gia với nhiều nghi thức sinh động, cách thức tổ
chức chuyên nghiệp hơn.
2.1. Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ
Về nguồn gốc tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam có nhiều truyền thuyết
khác nhau. Thực tế, trước đây tượng Bà Chúa Xứ chỉ là một tượng đá
ở trên lưng núi Sam. Minh chứng cho điều này là bệ đá Bà ngồi vẫn
còn tồn tại đến ngày nay. Bệ đá có chiều ngang khoảng 1,60 m, dài
khoảng 0,3 m, chính giữa có lỗ vng cạnh 0,34 m; bệ đá này là loại
sa thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn, không tìm thấy ở địa phương.
Theo nghiên cứu khảo cổ của người Pháp là L. Mallret năm 1941 cho
rằng tượng Bà Chúa Xứ thực ra là một tượng thần Vishnu, được tạc
/>
6
Bảo tồn và phát huy Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc - An Giang .............. 15
từ cuối thế kỷ thứ VI, mang phong cách văn hóa Óc Eo7. Còn theo
nhà nghiên cứu Sơn Nam: “Tượng Bà Chúa Xứ là một pho tượng
Phật cổ của người Khmer xưa đã bỏ lại khi di chuyển. Đặc biệt, đây
là pho tượng Phật có giới tính Nam, người Việt đã đem tượng Phật về
điểm tô thêm nước sơn thành tượng Bà Chúa Xứ.”8
Ơng Trần văn Dũng tác giả của cơng trình khoa học “Khai phá
vùng đất Châu Đốc” cũng khẳng định, tượng bà Chúa Xứ thật ra là
tượng nam ngồi ở tư thế vương giả, phần đầu của tượng hiện thờ tại
miếu không phải là nguyên gốc mà được chế tác sau này bằng chất
liệu khác với phần thân tượng9.
Theo dân gian kể lại: Khoảng năm 1820 – 1825, quân Xiêm sang
xâm lược vùng biên giới. Khi giặc đến, người dân phải chạy trốn lên
núi lánh nạn. Có lần, khi giặc Xiêm đuổi theo đến đỉnh núi Sam thì
gặp tượng Bà Chúa Xứ Châu Đốc. Quân giặc hì hục buộc và khiêng
tượng Phật núi Sam xuống để mang về xứ . Nhưng mới khiêng được
đoạn ngắn thì tượng trở nên nặng trĩu và khơng thể nhấc lên được.
Ngay lúc đó, một tên trong bọn chúng tức giận đập vào cốt tượng
và làm gãy cánh tay bên trái và đã bị Bà Chúa Xứ Thánh Mẫu trừng
phạt. Sau đó, Bà báo mộng cho dân làng và tự xưng là Bà Chúa Xứ,
đồng thời dạy dân làng nên khiêng tượng Bà Chúa Xứ xuống núi và
lập miếu thờ cúng, bà sẽ phù hộ mưa gió thuận hịa, may mắn, tránh
sự quấy phá của giặc, thốt khỏi dịch bệnh hồnh hành. Vì vậy, dân
làng cùng nhau khiêng tượng về thờ cúng. Tuy nhiên khơng thể nào
lay chuyển tượng Bà dù có mấy chục thanh niên trai tráng. Đột nhiên
Theo Lịch sử Miếu bà Chúa Xứ Núi Sam, tr.10-12.
Sơn Nam 1985, Đồng bằng Sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa, NXB TP. Hồ Chí
Minh, tr 149
9
Trần Văn Dũng, Luận văn Thạc sỹ KHLS, Lịch sử khai phá Châu Đốc xưa,
ĐHKHXH&NV TP HCM
7
8