Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THANH QUẾ 10600970

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.95 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN HỮU THỊNH
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THANH QUẾ

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2012


Cơng trình được hồn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐÌNH VĨNH

Phản biện 1: TS. BÙI CÔNG MINH

Phản biện 2: TS. BÙI THANH TRUYỀN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 12 năm 2012

Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thơng tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quảng Nam – Đà Nẵng là mảnh đất có nền văn hố lâu đời
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Mảnh đất đã từng chịu nhiều đau
thương mất mát trong chiến tranh và đã sản sinh ra biết bao anh
hùng, thi sĩ. Tiếp nối vào sự thành công của các nhà văn đi trước như
Nguyên Ngọc, Khương Hữu Dụng, Võ Quảng, Phan Tứ…, Thanh
Quế đã góp một tiếng nói đầy chân thành của mình qua những vần
thơ và những trang văn xuôi đặc sắc. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài :
Đặc điểm văn xi Thanh Quế nhằm góp thêm một tiếng nói, hiểu
thêm những giá trị của văn xi Thanh Quế trong dịng chảy của văn
học Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam
nói chung.
Thanh Quế thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành từ những năm
cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người đọc sẽ không
quên được ông với những vần thơ mang đậm chất hiện thực, mang
hương vị của miền quê xứ Quảng như Trước nhà em sông Vu Gia,
Trưa 30 tháng 4… Song có lẽ văn xi là nơi ơng thể hiện đầy đủ
nhất những đặc điểm sáng tạo nghệ thuật trong hơn 40 năm cầm bút
của mình. Người đọc sẽ khơng thể nào quên được những tiểu thuyết
Cát cháy, Rừng trụi, những truyện ngắn Mùa mưa, Mai, Bếp lửa làng
Tà Băng, Kẻ đào ngũ…hay những tập hồi kí Về Nam, Những gương
mặt những kỉ niệm. Do đó, nghiên cứu đề tài Đặc điểm văn xi
Thanh Quế để thấy được những đóng góp của ông trong việc mạnh
dạn mở ra nhiều chiều khi tiếp cận hiện thực đời sống với cái nhìn đi
sâu vào những vấn đề nhân bản của thân phận con người.



2. Lịch sử vấn đề
Trong hành trình nghệ thuật của mình, Thanh Quế đã để lại
12 tập thơ và 28 tập văn xuôi. Những sáng tác thơ của ông ra đời từ
những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước với
những tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm.
Có thể điểm qua một số cơng trình có liên quan đến đề tài
như sau:
Trong cơng trình Về một vùng văn học do Viện Văn học Việt
Nam và Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng xuất bản
1983, tác giả Hồ Hồng Thanh có bài Góp khúc dạo đầu, ở bài viết
này tác giả đã điểm qua những nét nổi bật của văn học Quảng Nam –
Đà Nẵng sau 1975 đặc biệt là ở lĩnh vực văn xuôi. Ông cũng đã điểm
qua những trang văn xuôi đặc sắc của Thanh Quế.
Cũng tác giả Hồ Hoàng Thanh trong bài viết “Thanh Quế và
con người bình thường”, Tạp chí Đất Quảng số 27, tr 96, 1984 đã có
nhận xét: “Nếu thơ Thanh Quế chủ yếu là tiếng nói trữ tình thầm thì
của những nỗi niềm tâm sự, thì văn Thanh Quế lại là những bức chân
dung của những tính cách bình thường vừa là những bức tranh thuỷ
mặc tồn cảnh về quần chúng nhân dân với những nét chấm phá chân
phương mà khơi gợi”.
Nguyễn Minh Hùng trong bài viết Chất Thanh Quế, in trong
Văn chương nhìn từ góc sân trường, NXB Văn học, Hà Nội 2003,
nhận xét: “Đừng mong tìm trên trang viết của ông kiểu cấu trúc tân
kỳ, ngôn ngữ óng chuốt, những cách nói đa nghĩa đa tầng…Đọc ông
không quen, dễ có cảm giác nhạt, cũ. Không phải ông không biết
điều ấy, mà ngược lại, đấy là ý thức nghệ thuật của Thanh Quế”.
Trong tuyển Văn (tác giả - tác phẩm Đà Nẵng đạt giải 1975
– 2005) NXB Đà Nẵng 2005, trong phần viết về văn Thanh Quế, tác



giả Ngơ Vĩnh Bình nhận xét: “Nét nổi bật dễ thương trong truyện
ngắn Thanh Quế là giàu chất thơ và tải chở, giãi bày được những
hiện thực bị khuất lấp, đặc biệt là đời sống những năm chiến tranh ở
một vùng quê nổi tiếng là gian khổ, ác liệt nhưng trung kiên – vùng
quê xứ Quảng.”. Những lời đánh giá trên của tác giả Ngơ Vĩnh Bình
sẽ giúp người đọc phần nào hiểu hơn về văn xuôi Thanh Quế.
Trong Báo cáo khoa học cấp thành phố năm 2006 với đề tài:
Văn xuôi Quảng Nam – Đà Nẵng sau năm 1975 – những vấn đề lý
luận và thực tiễn, do TS Phan Ngọc Thu chủ trì, khi đánh giá về
những chặng đường vận động và phát triển của văn xuôi Quảng Nam
– Đà Nẵng từ 1975 đến đầu những năm 1980 có đoạn: “Bước vào
giai đoạn này, ngay từ những năm đầu sau ngày quê hương giải
phóng, chưa kể tác phẩm của các nhà văn đã từng bám trụ trên chiến
trường Quảng Đà, nhưng sau 1975 do yêu cầu công tác đã chuyển đi
nơi khác, chỉ cần sơ bộ điểm lại sáng tác của những cây bút vẫn tiếp
tục sống và làm việc tại chỗ, cũng có thể thấy được dịng chảy không
dứt của mạch văn xuôi dào dạt ấy. Nhà văn Phan Tứ hoàn thành tập
ký xuất sắc Mưa trong núi và bộ tiểu thuyết sử thi hoành tráng Người
cùng q (…) Thanh Quế như khơng thể nói hết được vốn sống và
những điều đã cảm, đã nghĩ bằng thơ đã có ngay những truyện ngắn
Mùa mưa, Bà mẹ vui tính, Trong lịng hồ…”.
Phương Mai trong Tạp chí Non nước số 75, 2012 có bài
Những trang viết mơ ước hướng về tuổi thơ bàn về những sáng tác
cho thiếu nhi của Thanh Quế: “Nhà thơ Thanh Quế, tác giả của hơn
30 tác phẩm, gồm nhiều thể loại. Trong đó, các tác phẩm của anh viết
về thiếu nhi vẫn thường được nhắc nhiều hơn. Cụ thể, ngoài tiểu
thuyết "Cát cháy" từng đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhà văn Việt
Nam, anh cịn có các tác phẩm "Hai tiếng chim" (thơ), "Cuộc phiêu



lưu của con chó nhỏ", "Những truyện rút từ túi áo" (truyện thiếu
nhi)...”.
Tác giả Nguyễn Kim Huy thì cho rằng: “ Truyện Thanh Quế
có sự lơi cuốn, rung động bởi chính yếu tố quan trọng ấy. Nhân vật
của Thanh Quế thường là những con người bình thường, khuất mình
vơ danh, thầm lặng như cây giữa rừng, lúa giữa đồng, ngôi nhà giữa
xóm làng thân quen…và đó chính là cuộc đời, là hoá thân của bao
nhiêu số phận qua bao thời kì biến động của Con Người, Đất Nước
thân yêu này – và ở đó, có biết bao vấn đề cần được nói đến, cần
được bộc lộ trên các trang sách và cả ở thực tế cuộc sống”.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những ý kiến của những tác
giả đi trước chúng tôi sẽ làm rõ hơn những đặc điểm văn xuôi Thanh
Quế qua luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những đặc điểm văn
xi Thanh Quế nhìn từ các phương diện nội dung và nghệ thuật.
Song, văn xuôi vẫn là một khái niệm rộng, ở đề tài này chúng
tôi chỉ hướng đến những sáng tác văn xuôi nghệ thuật: truyện ngắn,
truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung
vào các tập truyện sau:
- 11 truyện ngắn (1994)
- Bếp lửa làng Tà Băng (1999)
- Chuyện ở miền Cát cháy, (tuyển truyện) (2009)
- Kẻ đào ngũ, (tập truyện ngắn) (2011)
- Tuyển truyện ngắn Thanh Quế (2011)



4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp vận dụng lí thuyết thi pháp học:
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, chúng tơi mong muốn sẽ tiếp cận được những
khía cạnh cơ bản nhất đã làm nên đặc trưng văn xuôi Thanh Quế, để
từ đó có thể xác định được những đóng góp của nhà văn đối với văn
học Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng và nền văn học hiện đại Việt
Nam nói chung. Đồng thời, chúng tơi sẽ chỉ ra những điểm thống
nhất xét từ quan niệm nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác của ông.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Phụ lục và tài liệu tham
khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Thanh Quế - cuộc đời và hành trình sáng tạo
nghệ thuật
Chương 2: Các phương diện nội dung cơ bản trong văn xuôi
Thanh Quế
Chương 3: Những phương thức thể hiện trong văn xuôi
Thanh Quế
Chương 1
THANH QUẾ - CUỘC ĐỜI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
1.1 Thanh Quế - “Nhà văn miền Cát cháy Quảng Đà”
1.1.1. Từ học sử đến viết văn
Nhà văn Thanh Quế tên thật là Phan Thanh Quế sinh ngày
26/2/1945, tại xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên trong một



gia đình trí thức u nước. Sau khi miền Nam Việt Nam được hồn
tồn giải phóng, ơng tham gia trại sáng tác văn học Quân khu V. Chỉ
trong 3 năm, ông viết và cho in hàng loạt tác phẩm: Tình yêu nhận từ
đất (thơ), Chuyện từ một truyền thuyết (truyện ngắn), Thung lũng
Dắc Hoa (truyện ngắn).
Thanh Quế sáng tác đều đặn, hầu như năm nào ông cũng
xuất bản được một quyển sách, có khi là văn, có khi là thơ, có khi là
tác phẩm viết cho các em, có khi là tác phẩm viết cho người lớn.
Nhưng dù viết thể loại nào, viết cho ai thì đề tài chiến tranh cách
mạng vẫn là đề tài chính của ơng. Những nhân vật chính trong tác
phẩm ơng viết là những con người bình thường, vơ danh, khuất mình
lẫn trong hàng triệu người khác. Họ chính là nhân dân, nhân dân
ngàn đời làm nên những kỳ tích lớn lao cho thế giới này
1.1.2 Thành tựu sáng tác và giải thưởng văn học
Làm thơ từ khi còn là học sinh lớp 5 trường học sinh miền
Nam trên đất Bắc. Năm 1962 đăng thơ ở Báo Văn học (nay là Văn
nghệ) với 2 bài Đêm trời trong và Gửi ngoại yêu. Năm 1963 vào đại
học Tổng hợp sử, vẫn tiếp tục làm thơ. Sau khi tốt nghiệp Đại học đã
vào chiến trường, công tác ở Hội văn nghệ giải phóng Trung Trung
Bộ, thời kì này này viết chun nghiệp hơn, có thơ và kí, truyện (viết
từ 1972) đăng trên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ và
các báo cáo Trung ương như Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ.
Giải thưởng văn học:
- Giải nhì (khơng có giải nhất) cho tiểu thuyết Cát cháy của
Hội Nhà Văn Việt Nam và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng Sản
Hồ Chí Minh năm 1981.


- Giải nhì cho tập thơ Những tháng năm vay mượn của Ủy
ban toàn quốc Liên Hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm

1994.
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012.
1.2. Quan niệm về văn chương
1.2.1 Quan niệm về thơ
Ngơ Thế Oanh đã có những nhận định thật chính xác về
những bước chuyển nghệ thuật trong thơ Thanh Quế: “Cùng với thời
gian, thơ Thanh Quế càng về sau càng đạt đến sự cô đọng thấm lòng
của một sự chiêm nghiệm sâu sắc. Những bài thơ anh viết về những
đời thường quanh anh, về gia đình anh... Tất cả mang cái đẹp của sự
lắng lại và chiều sâu không chỉ giới hạn trong câu chữ.” Thơ Thanh
Quế về sau thường gắn với dòng suy tư, chiêm nghiệm, những trăn
trở trước cõi đời.
Nhà thơ Trúc Thông thì cho rằng: “Mỗi nhà thơ đích thị có
một kênh thẩm mĩ riêng. Người đọc đi vào trúng kênh của nhà thơ ấy
thì sẽ thu nhận đúng những đóng góp của ơng ta. Đừng lấy gu riêng
của mình áp đặt lên thơ người khác. Các nhà lí luận vẫn nói rất hữu
lý về sự đồng sáng tạo của bạn đọc. Ở kênh thơ Thanh Quế, ta hãy để
lịng mình lắng chìm vào sự thì thầm, cùng tác giả lắng sâu vào
những nghẹn ngào kín ẩn. Có một tiếng thở dài nội tâm không bao
giờ cất lên”.
Những quan niệm nghệ thuật về thơ như trên của Thanh Quế
sẽ giúp chúng ta hiểu thêm được những sáng tác của ông.
1.1.2 Quan niệm về văn xuôi
Thanh Quế thường tâm sự: “Tôi không viết văn. Tơi chỉ ghi
lại những gì tơi đã sống. Tơi xin được coi thơ văn tơi là tiếng nói
riêng của tơi để tơi giãi bày tâm sự của mình với người khác, với


thiên nhiên âm dương trời đất”. Chính ơng của đã tự bộc bạch: “Đã
là nhà văn thì phải có giọng điệu riêng”.

Chính cái giọng điệu riêng đó đã làm nên nét phong cách
riêng mà chỉ đến những trang văn của Thanh Quế người đọc sẽ nhận
ra. Cùng viết về chiến tranh nhưng những trang văn của Thanh Quế
không phải là những trang tả trận với tiếng bom rơi pháo nổ, mà là
những trang viết đậm chất thơ về số phận của người lính bước ra từ
cuộc chiến, về số phận của những con người bình thường nhưng đã
làm nên lịch sử...
Ngơ Vĩnh Bình thì cho rằng: “Truyện ngắn Thanh Quế có
thể xem đó là truyện ngắn của một nhà thơ, ít tình thế nhưng nhiều
tâm sự. Ấy khơng phải là dòng thác mà là những mạch ngầm. Đọc
truyện ngắn của anh, người đọc dễ nhận ra được cái thẳng thắn,
nhân hậu của tác giả. Anh là thế và văn anh là thế”.
Những quan niệm của bản thân và những nhận định của các
nhà nghiên cứu giúp chúng ta hiểu thêm quan niệm của Thanh Quế
về văn xuôi.
1.2.3. Quan niệm về bút kí, phê bình văn học
Trước hết đó là những trang viết về q hương nơi ơng đã có
những tháng ngày tuổi thơ đẹp bên bà, bên mẹ để rồi năm mười tuổi
ông cùng cha ra Bắc: “Quê tôi là vùng nông thôn kháng chiến, giặc
Pháp càn quét luôn, gia đình phải gồng gánh tản cư. Việc học hành
của tơi lại đứt khúc đứt đoạn, sách vở thiếu thốn. Thỉnh thoảng tôi
cùng bạn bè vớ được một tờ báo kháng chiến in giấy đen xỉn, có
đăng những bài ca dao vận động thuế nơng nghiệp, kêu gọi binh lính
nguỵ quay về với nhân dân. Chúng tôi đọc ra rả cho vui rồi quên
ngay. Năm mười tuổi, tôi tập kết ra Bắc, học ở một trường học sinh
miền Nam. Vì lúc ấy chưa đến năm học mới nên chúng tôi chỉ rủ


nhau chơi bóng rồi nhảy ùm xuống ao bơi đuổi nhau” .
Bên cạnh đó ơng cịn giành những trang viết về thế hệ cầm

bút xứ Quảng, những người được ông dìu dắt sau này. Khi q
hương sạch bóng qn thù, đời sống của người dân đã khá hơn thì
trên lĩnh vực văn học ở Quảng Nam Đà Nẵng cũng đã có những nhà
thơ, nhà văn nổi lên như: Đà Linh, Bùi Tự Lực, Nguyễn Kim
Huy...Riêng Thanh Quế ông vẫn miệt mài viết và dìu dắt thế hệ cầm
bút xứ Quảng tiếp tục sự nghiệp các thế hệ đi trước.
Chương 2
CÁC PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG VĂN XUÔI THANH QUẾ
2.1 Hệ thống đề tài
2.1.1 Chiến tranh và người lính
Trưởng thành từ trong chiến tranh, chứng kiến cảnh mưa
bom bão đạn ác liệt nên khi trở về sau cuộc chiến Thanh Quế thấm
thía nỗi đau mất mát mà chiến tranh đã để lại. Cũng như sáng tác của
các nhà văn cùng thời, sáng tác của Thanh Quế sau 1975 vẫn tập
trung viết về chiến tranh và người lính. Hồ Hồng Thanh cho rằng,
“Cát cháy cho thấy rõ thái độ thẳng thắn, tỉnh táo nhìn vào sự thật
cuộc sống, khơng lẩn tránh cái phức tạp, uẩn khuất, hay cái bi đát
cũng như các khuyết điểm sai lầm. Truyện có vẻ hơi người lớn,
nhưng thiết tưởng cũng phù hợp với lứa tuổi đang lớn muốn làm ra
vẻ người lớn”.
Đọc truyện ngắn Mai, người đọc sẽ cảm động khi thấy hình
ảnh người cha sau bao năm tập kết đã tìm về mảnh đất Điện Bàn để
tìm hài cốt của con gái mình. Hình ảnh chị Đặng Thị Én trong truyện
Ở nơi thẩm vấn sẽ giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về đề tài chiến
tranh và người lính trong văn xi Thanh Quế. Như đã nói chiến


tranh trong văn xuôi Thanh Quế không phải là những trang tả trận ác
liệt, đầy tiếng bom rơi pháo nổ mà là những trang miêu tả ghi lại

những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ trung kiên. Mặc dù bị
tra tấn dã man, nhưng cái sự thật chân chính trong tâm hồn cô gái vẫn
anh dũng vượt qua những thủ đoạn tàn bạo và ma mảnh của kẻ thù.
Tóm lại, mảng đề tài Chiến tranh và người lính sau 1975 tuy
khơng chiếm vị trí số một như văn học giai đoạn trước, nhưng vẫn
phản ánh rõ nét quá trình chuyển biến của ý thức văn học, nhất là từ
khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
2.1.2. Cuộc sống và con người sau 1975
Ở mảng đề tài này Thanh Quế đã tập trung bút lực của để thể
hiện và miêu tả một cách đặc sắc về cuộc sống và con người trên quê
hương đất Quảng đã gánh chịu biết bao tàn tích nặng nề của chiến
tranh lại phải đứng trước những thử thách mới không kém phần hi
sinh gian khổ khi bước vào thời kì đầu khơi phục kinh tế và xây dựng
xã hội mới. Bà cụ vui tính và Trong lòng hồ là những truyện tiêu biểu
khi Thanh Quế viết về mảng đề tài này. Đây là hình ảnh những bà cụ
“trụ bám” kể từ sau chiến tranh và mỗi người mang một tính cách. Bà
cụ vui tính khơng chỉ hấp dẫn cái giọng điệu hóm hỉnh, hài hước của
nhân vật đang kể chuyện mà còn hấp dẫn ở tính lạc quan, khiêm tốn
bình dị của bà cụ.
Ở truyện Trong lòng hồ, Thanh Quế đã dựng nên nhân vật
cháu nhỏ và dùng con mắt ngây ngô trẻ con tim hiểu thái độ bà nội và
bà con làng xóm trước chuyện dời nhà, dời làng làm hồ Phú Ninh
miêu tả cuộc sống của những con người bình thường ở nơi đây. Qua
con mắt của người cháu trong nhà mới biết được những chuyện riêng
trong nội bộ gia đình, chuyện những mối ngổn ngang trong lòng bà
nội từ chỗ chưa thơng “khơng chịu đi mơ hết”, đến chỗ tự mình thông


suốt giơ tay phát biểu “Bàn chi bàn miết. Trước mình trụ bám để giữ
nước. Giờ đi cũng để làm hồ giữ nước. Bay biểu chi tụi tao làm liền

chớ bàn chi nữa”. Câu nói đơn sơ mà thâm thúy đó là kết quả của
một q trình đấu tranh dằn vặt trong lịng bà. Thật khơng đễ gì mà
đạt đến điều suy nghĩ giản đơn mà sâu sắc như thế.
2.2. Cảnh sắc thiên nhiên
2.2.1. Thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội
Trước hết đó là một thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội của dải
đất miền trung. Nắng, gió, mưa là những gì khắc nghiệt mà thiên
nhiên đã ban tặng cho mảnh đất này. Có khi sự khắc nghiệt đó làm
cản trở con đường hành quân của những người người lính.
Chính thiên nhiên khắc nghiệt và dữ dội như thế đã làm nên
những trang văn đặc sắc của Thanh Quế về vùng đất nơi đây. Nói
như Hồ Duy Lệ: “Tơi u vùng đất khắc nghiệt này vì kỉ niệm, tuổi
thơ, buồn, vui, gian truân, ác liệt và nhớ. Nhớ những đêm nằm không
ngũ được, khơng phải thao thức về mối tình trẻ thơ của những buổi
sớm chiều chăn bị trên trảng cát, khơng phải vì đùa nghịch say sưa
trên cát quên cả học hành, bị ba mẹ la rầy, mà vì những con bọ chét,
nhỏ như hạt cáy đen, chun mơn bị trong lưng quần, vừa nhột, vừa
ngứa”.
2.2.2. Thiên nhiên thơ mộng, trữ tình
Bên cạnh thiên nhiên khắc nghiệt và dữ dội ấy, đọc những
trang văn xuôi của Thanh Quế người đọc sẽ khám phá được một thế
giới thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.
Cái thơ mộng trữ tình ấy được thể hiện qua những kỉ niệm,
hồi ức về dịng sơng đã gắn bó một thời tuổi thơ của nhân vật Ba. Đó
là những tháng ngày ngập mình trong dịng nước sơng Trà Ly: “Một
lúc sau, Ba lại thiếp ngủ... Nước sông Trà Ly bỗng sôi lên, đổ ầm ào


qua con thác kề bếp ăn của cơ quan. Ba thấy mình ngụp lặn trong
dịng nước mắt, vẫy tắm thoả thích sau hai ngày đi đường trở về nhà.

Chị Bốn cấp dưỡng bảo Ba tắm nhanh lên để đem cơm cho chú
Chín”.
Chất thơ mộng ấy được Thanh Quế đưa ta đến với những bãi
cát dài của mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió: “Cồn cát giống
chiếc mai rùa, rộng chừng nửa cây số vuông này ngăn xã ra làm đơi.
Nửa phía nam là cánh đồng đất cát pha chạy từ mí đường tỉnh lộ
(đường này làm ranh giới phía tây của xã với các xã bạn) xuống phía
đơng, giáp với một cái làng hoang người ta gọi là Cô Sơn. Bên kia
cánh đồng là con sông Bãi Dài, làm ranh giới phía nam của xã với xã
bạn, chằng chịt những lạch nhỏ, sáng lấp lánh đang đổ về phía biển”.
Qua khảo sát các truyện và tiểu thuyết của Thanh Quế, chúng
tơi nhận thấy hình tượng cơn mưa được lặp đi lặp lại nhiều lần như là
một tín hiệu nghệ thuật mà ơng gửi đến người đọc. Đó có thể là cơn
mưa của đầu hạ của đồng bằng hay đó còn là những cơn mưa rừng
kéo theo những dòng thác lũ hung bạo. Mùa mưa đã thể hiện đầy đủ
những cung bậc cảm xúc mà Thanh Quế gửi đến người đọc.
2.2.3. Thiên nhiên gắn với bản sắc văn hoá
Như bao miền quê khác, trong cảnh sắc thiên nhiên vùng đất
Quảng cịn có một khơng gian văn hóa riêng mang vẻ đẹp lao động
sáng tạo và dấu ấn tâm thức của con người nơi đây. Đó là một thắng
cảnh Ngũ Hành Sơn thơ mộng đã đi vào bao trang thơ, những bản
nhạc tuyệt vời. Ngũ Hành Sơn ấy còn là nơi lưu giữ những kỉ niệm
thưở nhỏ của nhân vật Ba trong Cát cháy.
Thiên nhiên gắn với bản sắc văn hóa ấy đã được Thanh Quế
thể hiện qua những câu chuyện đã đi vào huyền thoại, đấy là đỉnh núi
Ngọc Linh từng đi vào trong trang viết của Nguyễn Trung Thành hay


đó cịn là câu chuyện về Rơ Rum, để sau này những người dân nơi
đây khi có con thường đặt tên con là Rum.

Khép lại tiểu thuyết Rừng trụi, Thanh Quế lại tiếp tục đưa ta
đến với hình ảnh núi Ngọc Linh - một bản sắc văn hoá của đất và
người nới đây.
2.3. Thế giới nhân vật
2.3.1. Người lính bước ra từ cuộc chiến
Chiến tranh chấm dứt, đất nước chuyển sang thời kì mới,
khơng cịn tiếng súng, khơng cịn đạn bom nhưng cuộc sống thời bình
chẳng hề đơn giản, mà đầy khó khăn, thử thách. Những người lính,
một thời chỉ quen cầm súng, chỉ biết sống rõ ràng, minh bạch trên
chiến trường, giờ cuộc sống mưu sinh đặt họ trước trận chiến mới.
Đọc Nó và ba nó người đọc sẽ thấy sự nghiệt ngã của chiến tranh
mang đến cho người lính. Lẽ ra ơng Bốn phải được hưởng cuộc sống
hạnh phúc bên người vợ đã bao bao năm mòn mỏi chợ đợi ông đi
chiến đấu. Nào ngờ, ngày ông ông trở về thật nghiệt ngã, mà chính
chiến tranh đã gây nên. Ngượi vợ ở nhà đã bị tên các ôn cưỡng hiếp
và có thai.
Tiểu thuyết Rừng trụi của Thanh Quế cũng đã thể hiện về
những thay đổi của người lính trở về sau cuộc chiến. Đó là hình ảnh
của Hà và Rum, sau khi được Đảng cho ra Bắc học tại trường học
sinh miền Nam, cả hai lại về với vùng đất Quảng Nam xưa kia khi họ
đã có một thời hoạt động cách mạng. Họ bắt tay vào xây dựng nơng
trường trên chính cái nơi bom đạn ngày xưa kẻ thù đã ném xuống.
2.3.2. Thân phụ người phụ nữ
Cuộc kháng chiến ba mươi năm được kết thúc huy hoàng. Hạnh
phúc lớn của dân tộc, của số đông đã vẹn toàn. Biết bao nhiêu cuộc
đoàn tụ cảm động sau những tháng năm chia li của cha con, vợ


chồng, anh em. Đọc lại Dì Út, ta càng thêm thấm thía nỗi đau của
người phụ nữ mà chiến tranh đã gây ra cho họ. Qua nhân vật Cậu Hai

như vang lên tiếng nói của lí trí, lên án Tư Hồng và phê phán cả Dì
Út. Suốt một đời gắn bó thủy chung với chồng và mong đợi ngày
chiến thắng để gia đình được đồn tụ, nào ngờ ngày chiến thắng đã
về mà người chồng bấy lâu Dì Út mong đợi đã phản bội mình.
Ngơ Vĩnh Bình nhận xét: “Khơng phải ngẫu nhiên mà nhân
vật trong các truyện ngắn của anh đa phần là phụ nữ. Phụ nữ trong
chiến tranh xưa nay bao giờ cũng là những người chịu đựng hi sinh
nhiều nhất”.
Trong Ở nơi thẩm vấn, cái sự thật chân chính trong tâm hồn
cơ gái bị tra tấn được thể hiện khi thì qua thái độ của cơ trước những
thủ đoạn tàn bạo và ma mảnh của kẻ thù, khi thì qua ký ức hiển hiện
trong đầu óc cơ về những quãng đời mình đã trải qua. Cách thể hiện
xen kẽ giữa cảnh tượng trước mắt và những mảnh ký ức vừa tỏ ra
phù hợp với thực tế, vừa có tác dụng thu hút sự chú ý của người đọc
bằng chính bản thân sự đa dạng của cuộc sống con người, bao gồm
cả ngoại cảnh và nội tâm, cả hiện tại quá khứ và tương lai xen kẽ.
2.3.3. Thế giới tuổi thơ
Trong thế giới nghệ thuật văn xuôi của mình, Thanh Quế đã
dành hẳn một mảng đề tài viết cho thiếu nhi, có thể điểm qua những
truyện như: Cát cháy, Bạn thưở nhỏ, Chân dung một miền quê, Câu
chuyện từ một truyền thuyết, Câu chuyện chiếc loa, Những đứa trẻ
trong làng.
Truyện dài Cát cháy viết về một đội du kích vùng ven Đà
Nẵng với những hoạt động gan dạ và thơng minh của các em, góp
phần ni giấu và giúp đỡ đắc lực cho đội du kích nhằm làm thất bại
thủ đoạn dồn dân, “tát nước bắt cá” của Mỹ-ngụy. Truyện ngắn Mùa


mưa cũng đã thể hiện đầy đủ tấm lòng nghĩa tình của một em bé Tây
Nguyên, một chú bé gan góc dũng cảm vượt qua khó khăn để đưa bộ

đội vượt qua núi rừng hiểm nguy.
Truyện của Thanh Quế, dù viết cho người lớn hay trẻ em,
thường dễ đón nhận từ tiếng ngân đầy sức rung động của âm hưởng
một bài thơ. Ngôn ngữ truyện và ngôn ngữ nhân vật đan xen hài hòa
giữa chất sinh động đời thường của truyện và sự êm dịu giàu biểu
cảm của thơ. Chính từ điều đó, người đọc tin tưởng rằng, ơng sẽ dành
nhiều trang viết rộn ràng tươi trẻ dành cho các em.
Chương 3
NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỦ YẾU
TRONG VĂN XUÔI THANH QUẾ
3.1 Không gian nghệ thuật
3.1.1 Không gian núi rừng
Đọc văn xuôi Thanh Quế, người đọc sẽ bắt gặp những khơng
gian quen thuộc của chiến trường Khu V nói chung và khơng gian xứ
Quảng nói riêng. Có được điều đó là nhờ Thanh Quế đã gắn bó sâu
nặng với chiến trường với quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng. Ông
đã sống, cầm bút và chiến đấu tại nơi đây. Vì thế, đọc được những
trang văn xuôi ấy của ông ta thấy hiện lên một không gian núi rừng
của mảnh đất miền Trung khơ cằn. Đó có thể là Một kỷ niệm nhỏ
trong rừng của nhân vật Ba. Không gian núi rừng ấy còn toả ra trên
những Bếp lửa làng Tà Băng. Qua truyện ngắn này người đọc sẽ
nhận ra được tấm lòng trung thành với Đảng, với cách mạng của bà
con vùng cao. Họ sống âm thầm nhưng hi sinh vì cách mạng. Chính
khơng gian núi rừng kia đã che chở cho họ trong những năm tháng
hoạt động cách mạng.


Giữa không gian bạc ngàn của núi ràng Tây Nguyên, một
chú bé trong Mùa Mưa đã làm lay động lòng người bởi tấm lòng hi
sinh của em cho bộ đội cho cách mạng. Dẫu những cơn mưa rừng,

những dòng thác lũ “dữ tọn” như muốn cuốn trôi đi tất cả nhưng tấm
lòng của người dân Tây Nguyên vẫn dành cho Cách mạng.
3.1.2 Không gian làng quê
Thanh Quế đã miêu tả sinh động khung cảnh làng quê miền
Trung nói chung và làng quê Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng, nơi
đây ông đã có những tháng ngày chiến đấu, hoạt động cùng với
những người dân chất phác, hiền hậu. Đấy là một không gian làng
quê gần gũi, dung dị, đời thường.Bạn thưở nhỏ viết về chuyến thăm
quê đầu tiên sau chiến tranh của Thanh, một phó Tiến sĩ sử học đang
nghiên cứu chuyên đề “chiến tranh nhân dân ở miền Nam”. Tại đây
anh đã được gặp lại Loan, cô bạn thưở nhỏ nhút nhát trước kia, qua
chống Mỹ đã trở thành một chiến sĩ kiên cường bị địch cưa mất một
chân, nay phải đi nạng và làm nghề bán vé xe.
Tập trung tất cả sức bút của đời mình để thể hiện nhân dân, thể
hiện con người bình thường, anh như một người nông dân cần cù cày
đi, xới lại mảnh đất của mình bằng những đường cày ngày một sắc
sảo, tài hoa hơn. Phải chăng nhờ vậy mà gần đây anh đã có được hai
thiên truyện Dì Út vá Hai chị em nổi bật hẳn lên về chất lượng, thu
hút được sự chú ý và cảm tình của bạn đọc bởi nêu lên được những
vấn đề rất đáng suy nghĩ.
3.2. Thời gian nghệ thuật
3.2.1. Thời gian sinh hoạt đời thường
Trong mỗi tác phẩm văn học, thời gian nghệ thuật đóng
một vai trò rất quan trọng, đấy là ý thức nghệ thuật của nhà văn để
làm nên những tác phẩm có giá trị. Sau chiến tranh nỗi đau mất


mát người thân sẽ mãi không bao giờ nguôi đối với mỗi người dân
Việt Nam. Trở về với cuộc sống đời thường những người thân ấy
lại đi tìm di hài của ơng, bà, cha, mẹ, anh em Đó là hình ảnh người

cha đi tìm mộ con gái trong truyện ngắn Mai, con ông đã nằm lại
trên nằm đất Quảng Nam sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Ơng tìm về với mảnh đất Điện Bàn trong một buổi sáng mùa xuân:
“Vào một buổi sáng mùa xuân, không rõ nhớ ngày nào, bà con ở
Thanh Quýt thấy một ông già lạ mặt có dáng người cao to, khn
mặt quắc thước từ trên một chiếc xe khách bước xuống, đi thẳng
vào giữa làng”.
Thanh Quế đã chọn thời gian buổi sáng để bắt đầu cho những
câu chuyện và đồng thời thời gian buổi sáng ấy cũng là nơi diễn tả
những ý đồ nghệ thuật của mình: “Một buổi sáng, ơng thấy trong
người đã khoẻ ra. Nhưng vừa định trở dậy, chẳng hiểu vì lí do bí ẩn
nào, một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay
lập tức một cơn mơ kỳ lạ đến với ơng. Ơng thấy một rừng dương hiện
ra trên bãi biển quen thuộc, từ lâu rồi, ông không hề trở lại. Ông dắt
tay con gái ông, lúc ấy chừng năm tuổi đi dạo mát. Tự nhiên, cơ bé
rụt khỏi tay ơng biến mất. Ơng kêu lên, chạy ngược, chạy xi để
tìm. Đâu đó quanh ơng có tiếng cười rúc rích. Nhưng ơng đến nơi
tiếng cười lại bặt đi”. Trong thời gian sinh hoạt hằng ngày đó còn là
những trận đánh, những lần vượt qua bom đạn kẻ thù như hình ảnh
Kỳ trong Những người con Gị Nổi
3.2.2. Thời gian hồi tưởng
Những trang văn xuôi của ông chúng ta như trở về với thời
gian của những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh chống đế
quốc Mĩ. Nhờ thời gian hồi tưởng mà Thanh Quế đã miêu tả đặc
sắc những trang văn này. Đấy là hồi ức của nhân vật tôi vào cái tết


năm 1956: “Tôi nhớ hồi tết năm 1956, tại Hà Nội, ba tôi dẫn tôi
đến câu lạc bộ Thống Nhất. Đó là nơi anh chị em miền Nam gặp
gỡ vui vẻ, tâm sự với nhau, động viên nhau, để đỡ nhớ nhà nhớ

quê kiểng. Ở đây, mọi người được xem phim, xem kịch, đánh bài
chịi hoặc chơi cờ tướng. Đó là những hồi ức về những ngày ở miền
Bắc cùng cha của nhân vật tôi, của một thời học sinh miền Nam trên
đất Bắc.”
Những trang văn miêu tả về Bị bắt đêm ba mươi tết cũng là
những kí ức khơng thể nguôi quên: “Vào giữa đêm 30 tết năm ấy, tôi
bị một tay dân vệ đuổi bắt... – Anh Thả, một cán bộ cao cấp đã về
hưu, tóc bạc tắng, có mọt vết sẹo ở má phải kể cho tơi nghe câu
chuyện của anh - Chắc anh cũng biết, vào khoảng cuối năm 55 đầu
năm 56, bọn địch thực hiện “diệt cán trừ cộng” rất ác liệt. Nhiều
đồng chí của ta bị bắt đi đày, bị thủ tiêu. Nhà tù mọc lên nh nấm độc.
Lúc ấy tôi đang hoạt động ở vùng cát Duy Xuyên. Bà con rất tốt,
nhưng vì địch vay hay ráp nên họ cũng ngại chứa chấp mình. Tơi đến
đâu bà con cũng nói:
- Tơi thương anh lắm, thương cách mạng lắm nhưng tụi nó
khám xét nhà ln, mong anh thơng cảm”. Đó là những hồi ức không
thể nào quên của nhân vật tôi khi bị bắt vào đêm ba mươi tết. Chính
nhờ thời gian hồi tưởng đó đã làm tăng sức hấp dẫn của câu chuyện
được kể lại.
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Chất thơ trong văn xuôi Thanh Quế được thể hiện ở ngữ
điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lời văn, ở những cảm xúc tinh tế của
một tâm hồn dể rung động. Những trang truyện cứ trải dài ra như một
bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn


thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Đúng như
Ngơ Vĩnh Bình nhận xét: “Nét nổi bật dễ thương trong truyện ngắn
Thanh Quế là giàu chất thơ và tải chở, giãi bày được những hiện thực

bị khuất lấp trong đời sống”.
Truyện của Thanh Quế có thể gọi là truyện của một nhà thơ.
Chất thơ bàng bạc trong các truyện, từ cách lựa chọn chủ đề, đề tài
đến kết cấu, diễn tiến và tính cách của nhân vật. Mai vừa là một
truyện ngắn có thể nói đã đạt đến sự hoàn hảo về thi pháp, vừa là một
bài thơ lớn về sự hy sinh của nhân dân trong chiến tranh, ăm ắp chất
thơ đan xen trong chất truyện, có sức rung động mạnh mẽ và cũng
chứa đựng rất nhiều yếu tố kịch tính huyền hoặc của truyện, tạo nên
sự cuốn hút không nhỏ. Một truyện ngắn như vậy tưởng cũng khơng
dễ có được trong số các truyện ngắn hiện đại Việt Nam viết về chiến
tranh. Đấy là những truyện ngắn theo kiểu thi pháp thơ - truyện đan
xen ấy, chất trữ tình giữ vị trí chủ đạo và làm nền cho toàn thể cốt
truyện, nhân vật, đồng thời giữ một vai trò then chốt làm nổi bật lên
vấn đề, ý nghĩa của truyện.
Đọc tiểu thuyết Rừng trụi ta cảm nhận được chất thơ vọng
lên từ con chữ, chất thơ ấy trải ra qua những dòng miêu tả thiên nhiên
hay tính cách một nhân vật: “Con đường vào nóc cũng lên dốc xuống
dốc liên tục. Nhưng đi với Rum một lúc, Hà thấy vui vẻ trở lại,
không có cảm giác mệt nhọc. Rum vừa đi vừa hát”.
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật
Thanh Quế cũng đã ý thức được tầm quan trọng của ngôn
ngữ trong việc phản ánh đời sống hiện thực trong sáng tác văn học.
Qua ngôn ngữ, ông giúp người đọc hiểu hơn về cuộc sống, tính cách
con người. Đọc những trang văn xuôi của Thanh Quế, người đọc sẽ
nhận thấy đó khơng phải là thứ ngơn ngữ óng mượt mà là thứ ngơn


ngữ gần gũi đời thường. Hãy đọc lại những trang văn của Thanh Quế
qua truyện Kỷ niệm nhỏ trong rừng để thấy được chất dung dị đời
thường trong ngôn ngữ nhân vật của ông. Trong cách dùng từ xưng

hô, gọi tên nhân vật rất đặc miền Trung nói chung và Quảng Nam nói
riêng. Có thể nói, cách xưng hơ gọi thẳng tên nhân vật, không kèm
theo thứ tự trong gia đình là một trong những biểu hiện. Khi giao tiếp
với nhau, họ nói thẳng vấn đề, gọi ngay tên người, sự vật, sự
việc…khơng rào đón vịng vo, khơng màu mè tình cảm giả tạo. Đó là
lối ứng xử của những người bộ trực, thích rạch rịi phân minh.
3.3.3. Giọng điệu trần thuật
Từ sau 1975 dần dần truyện ngắn đã có sự chuyển biến từ
ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ đối thoại, nhiều giọng. Có sự
tác động, hồ trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể
chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Thanh Quế đã mở đầu truyện Dì Út
bằng giọng văn nhẹ nhàng, qua những ngôn từ ấy làm xuất hiện
lên hình ảnh Dì Út, đấy là vẻ đẹp của cô gái quê chịu nhiều mất
mát đau thương. Có thể nói sau chiến tranh, Thanh Quế là một trong
những nhà văn đã sớm nhận ra và đề cập trực diện đến những vấn đề
phức tạp do chiến tranh gây ra với một cái nhìn cao thượng, nhân văn
rất có ý nghĩa ở những năm sau giải phóng, thời điểm mà sự hận thù
và các thành kiến chính trị chưa hề nhạt nhịa, những vấn đề khơng to
tát nhưng rất “con người”, dễ gây ra những bi kịch trong cuộc sống
đời thường ở những truyện ngắn Nó và ba nó, Người khách lạ, Hai
người đàn ơng và một người đàn bà...


KẾT LUẬN
Chiến tranh ngày càng lùi xa, nỗi đau tinh thần, thể xác theo
năm tháng sẽ phần nào nguôi ngoai, nhưng hồi ức về nó lại chẳng thể
chấm dứt. Văn học chính là cuốn phim tuyệt vời, ghi lại dấu ấn của
thời kì vinh quang, hào hùng nhưng khơng kém phần khốc liệt, đau
thương của dân tộc. Viết về chiến tranh, người lính, về cuộc sống
mới vẫn là niềm thơi thúc là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật đối

với nhiều thế hệ cầm bút hôm nay và mai sau. Thanh Quế cũng nằm
trong số các nhà văn tiên phong tìm tịi để thể hiện về chiến tranh,
người lính về những con người bình thường theo cách riêng của
mình.
Như đã trình bày ở trên với cuộc đời cầm bút trên 40 năm,
Thanh Quế cũng đã gặt hái nhiều thành công, tạo được ấn tượng sâu
sắc trong lòng bạn đọc nhất là bạn đọc yêu thơ và những trang văn
xuôi đặc sắc của ông. Với ông những quan niệm về sáng tác thơ, văn
xi, bút kí, phê bình văn học mà chúng tơi đã trình bày ở chương 1
là những hành trang quý báu để tác giả khẳng định chỗ đứng của
mình trong nền văn học Việt Nam, bởi “khi có cái riêng, nghệ sĩ sẽ
tồn tại”.
Chiến tranh đi qua, nhưng những năm tháng khói lửa vẫn là nỗi
ám ảnh, sự trăn trở, khao khát kiếm tìm của nhiều tác giả. Các sáng
tác thời kì hậu chiến, tính sử thi vẫn cịn nhưng khơng cịn là mạch
cảm xúc chủ đạo trong các tác phẩm mà thay vào đó là xu hướng viết
về chiến tranh và người lính ở góc nhìn thế sự, đời tư. Thanh Quế đã
thể hiện về số phận những người lính trở sau cuộc chiến được các tác
giả nhìn nhận một cách thấu đáo, bởi họ hiểu rằng các tác phẩm viết
lúc này không phải để chiêm ngưỡng, ca ngợi, ngắm nhìn, mà để tìm
ra những lí giải, nói được những góc khuất chưa có điều kiện nói tới.


Có thể nói văn xi sau 1975 đã và đang là trung tâm thu hút
sức sáng tạo của thế hệ cầm bút. Thanh Quế đã tiếp nối các thế hệ
nhà văn đi trước đã góp phần khơng nhỏ trong việc kế thừa và
cách tân với nhiều phương thức thể hiện đa dạng vừa truyền thống
vừa hiện đại làm cho văn xi ngày càng mới mẻ và phong phú
hơn. Có thể nói, nội dung trong văn xi Thanh Quế đa dạng, từ
hệ thống đề tài, chủ đề đến thế giới hình tượng, ở đó ơng tập trung

thể hiện về nhân dân, những con người bình dị đời thường nhưng
đã làm nên lịch sử, hay đó cịn là sự cảnh báo về những hệ luỵ sau
chiến tranh. Xét trong hệ thống chung của các loại hình nghệ
thuật, văn xi Thanh Quế đã đạt được những thành tựu đáng kể
và ngày càng khẳng định vị trí của mình trên văn đàn.
Thành tựu nổi bật của văn xi Thanh Quế là đã có những
tìm tịi thể hiện mang tính trải nghiệm tạo nên một số sáng tạo đặc
sắc trong phong cách nghệ thuật so với văn xuôi trước đây. Điều
này bắt nguồn từ sự chuyển đổi cảm hứng sáng tác từ cảm hứng sử
thi sang cảm hứng đạo đức thế sự đời tư. Từ đó kéo theo một loạt
cảm hứng mới lần lượt ra đời đó là: cảm hứng phê phán, cảm hứng
chiêm nghiệm q khứ, cảm hứng thân phận con người. Khơng chỉ
có sự khác biệt về mặt nội dung, về mặt nghệ thuật văn xi giai
đoạn này cũng đạt đến một trình độ nghệ thuật điêu luyện. Đây
chính là những mấu chốt quan trọng mở ra triển vọng mới cho sự
phát triển của văn xi ở thế kỷ sau.
Trong dịng chảy văn học sau 1975, Thanh Quế cũng đã có
những thay đổi trong quan niệm về hiện thực sáng tác như là đối
tượng phản ánh, khám phá của văn học cũng được mở rộng và
mang tính tồn diện. Hiện thực khơng chỉ là hiện thực cách mạng,
các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng. Mà đó cịn là hiện thực


của đời sống hằng ngày, với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa
sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi và mạch
ngầm của đời sống. Hiện thực, đó là đời sống cá nhân của mỗi con
người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát
vọng mọi mặt, cả hạnh phúc và bi kịch. Hiện thực đời sống trong
tính tồn vẹn của nó đã mở ra những khơng gian vơ tận cho văn
xuôi thoả sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ và đã đạt được những

thành tựu đáng kể từ đề tài, các kiểu kết cấu và mơ-típ chủ đề, cốt
truyện, nhân vật cho đến giọng điệu, ngôn ngữ và không gian, thời
gian nghệ thuật... Chúng ta sẽ bắt gặp nhiều truyện ngắn của
Thanh Quế về mảng đề tài trên, ông đã tập trung thể hiện về người
lính sau cuộc chiến như Hà và Tâm trong Hai người bạn, về Hà và
Rum trong Rừng trụi hay đó là những trang văn miêu tả về cuộc
sống đổi thay sau ngày đất nước giải phóng như hình ảnh bà và
cháu trong truyện ngắn Hai bà cháu.
“Nếu khi nào Thanh Quế từ bỏ cái thật thà ấy trong văn,
thì đấy khơng cịn là Thanh Quế nữa; hoặc vẫn còn đấy một Thanh
Quế nhưng trang văn thì trơi về phía lãng qn” [6, tr.126]. Vì thế,
những phương thức mà Thanh Quế sử dụng trong văn xuôi của
mình cũng có những nét riêng mà chúng tơi đã trình bày ở chương
3. Nhà văn bộc lộ những kinh nghiệm sống được chắt lọc, vắt kiệt
trên từng câu chữ, trang viết. Con người trong văn học hơm nay
được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan
hệ: con người xã hội, con người với lịch sử, con người của gia
đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những
người khác và với chính mình... Con người cũng được văn học
khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc : ý thức
và vơ thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản


×