Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

chuyen de 3 3 10 10 trac nghiem tam ly tram cam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.55 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ

ĐỖ VĂN DIỆU

CHUYÊN ĐỀ TIẾN SĨ
(Chuyên đề 3)
MỘT SỐ TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ SỬ DỤNG TRONG SÀNG LỌC
VÀ HỖ TRỢ CHẨN ĐOÁN TRẦM CẢM

Thuộc đề tài luận án tiến sĩ
NGHIÊN CỨU TRẦM CẢM VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
MÔ HÌNH CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHỊNG CHỐNG TRẦM CẢM
Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 9720701

Huế, năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
-------------------------

CHUYÊN ĐỀ TIẾN SĨ
(Chuyên đề 3)
MỘT SỐ TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ SỬ DỤNG TRONG SÀNG LỌC
VÀ HỖ TRỢ CHẨN ĐOÁN TRẦM CẢM


Thuộc đề tài luận án tiến sĩ
NGHIÊN CỨU TRẦM CẢM VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
MƠ HÌNH CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG TRẦM CẢM
Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 9720701

Họ và tên NCS: Đỗ Văn Diệu
Người hướng dẫn 1: TS. Đoàn Vương Diễm Khánh
Người hướng dẫn 2: TS. Trần Như Minh Hằng

Huế, năm 2019


DANH MỤC VIẾT TẮT
BDI

Beck Depression Inventory: Thang tự đánh giái trầm cảm Beck

DASS

Depression-Anxiety-Stress Scale: Thang đánh giá lo âu – trầm cảm – stress.

HDRS

Hamilton Depression Rating Scale: Thang đánh giá trầm cảm của
Hamilton.

MADRS Montgomery-Asberg Depression Rating Scale: Thang đánh giá trầm

cảm của Montgomery-Asberg.
GDS

Geriatric Depression Scale: Thang đánh giá trầm cảm người cao tuổi.

ZSDS

Zung Self-Rating Depression Scale: Thang tự đánh giá trầm cảm của zung.


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ ...................... 3
1.1. Lịch sử phát triển trắc nghiệm tâm lý ..................................................... 3
1.2. Khái niệm trắc nghiệm tâm lý ................................................................. 4
1.2.1. Định nghĩa trắc nghiệm tâm lý ......................................................... 4
1.2.2. Vai trò và giá trị của trắc nghiệm tâm lý trong lâm sàng tâm thần học 5
1.3. Các tiêu chuẩn của một trắc nghiệm tâm lý tốt....................................... 6
1.4. Sử dụng trắc nghiệm tâm lý trên thế giới và Việt Nam .......................... 8
1.4.1. Sử dụng trắc nghiệm trên thế giới .................................................... 8
1.4.2. Sử dung trắc nghiệm tâm lý ở Việt Nam .......................................... 9
CHƯƠNG 2. TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ TRONG SÀNG LỌC VÀ
CHẨN ĐOÁN TRẦM CẢM ........................................................................ 11
2.1. Trắc nghiệm tâm lý và các thang đo đánh giá trầm cảm ...................... 11
2.1.1. Trắc nghiệm tâm lý sàng lọc chẩn đoán trầm cảm ......................... 11
2.1.2. Sự tương đồng và sự khác biệt đặc thù của các thang đo hỗ trợ sàng
lọc chẩn đoán trầm cảm ................................................................... 11
2.2. Các thang đánh giá trầm cảm thường sử dụng ..................................... 13
2.2.1. Thang Đánh giá trầm cảm Hamilton (Hamilton Depression Rating

Scale-HDRS) .................................................................................... 13
2.2.2. Thang Tự đánh giá trầm cảm Beck (Beck Depression
Inventory-BDI) ................................................................................. 19
2.2.3. Thang Đánh giá trầm cảm Montgomery-Asberg (MADRS) .......... 22
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ SỬ DỤNG TRONG
SÀNG LỌC VÀ CHẨN ĐOÁN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI CAO TUỔI ....... 23
3.1. Trầm cảm người cao tuổi và các trắc nghiệm tâm lý ............................ 23
3.2. Các thang đo đánh giá trầm cảm ở người cao tuổi thường sử dụng ..... 24


3.2.1. Thang đánh giá trầm cảm người cao tuổi (GDS-Geriatric
Depression Scale) ............................................................................ 24
3.2.2. Thang Đánh giá trầm cảm Zung (Zung Self-Rating Depression
Scale -SDS) ..................................................................................... 28
KẾT LUẬN .................................................................................................... 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trắc nghiệm tâm lý là hệ thống các biện pháp đã được chuẩn hóa về kỹ
thuật, được quy định về nội dung và quy trình thực hiện, nhằm đánh giá hành
vi và kết quả hoạt động của một người hoặc một nhóm người. Trắc nghiệm
tâm lý mang các đặc trưng riêng đó là tính chất tương đối đơn giản, thời gian
ngắn, ghi lại trực tiếp các kết quả, tiện lợi trong việc xử lý toán học, các tiêu
chuẩn đã được xác lập [1]. Các trắc nghiệm tâm lý từ khi ra đời đã trở thành
một công cụ đắc lực trong lĩnh vực thăm khám chẩn đoán điều trị tâm lý, việc
sử dụng các trắc nghiệm tâm lý trở nên phổ biến ở các nước trên thế giới và
ngày càng được phát triển chuẩn hóa phù hợp hơn cho từng đối tượng [2].
Trong y học, khoa học chẩn đoán tâm lý lâm sàng lấy phương pháp trắc

nghiệm tâm lý làm cơng cụ thực hành để lượng hóa các triệu chứng tâm thần,
hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng, phát hiện những lệch lạc về trí tuệ và nhân cách
mang tính chất tâm bệnh học, gợi ra phương hướng điều trị và đánh giá kết
quả điều trị. Trong thực hành lâm sàng tâm thần học ở các bệnh viên cũng
như ở cộng đồng, việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý hỗ trợ chẩn đoán rối
loạn tâm thần ngày càng được phổ biến. Các trắc nghiệm tâm lý làm cho việc
chẩn đốn tâm thần học nói chung và trầm cảm nói riêng khơng trở nên đơn
điệu mà nó cịn định lượng hóa được các triệu chứng của người bệnh, khảo sát
được các triệu chứng tế nhị khó hỏi trực tiếp người bệnh ví dụ khi hỏi về chức
năng tình dục...Ngồi ra trắc nghiệm tâm lý nó cịn giúp đánh giá các triệu
chứng có bất thường hay khơng giữa các lần thăm khám và giữa người này
với người khác.
Trên thế giới trong sàng lọc và hỗ trợ chẩn đoán trầm cảm trên lâm
sàng cũng như ở cộng đồng có một số trắc nghiệm tâm lý thường được dùng
để đánh giá trầm cảm thể hiện bằng những thang đo như thang đánh giá trầm

1


cảm Beck (Beck Depression Inventory) năm 1961, thang đánh giá trầm cảm
của Hamilton (HDRS–Hamilton Depression Rating Scale) năm 1960 [3].
thang đánh giá lo âu–trầm cảm–stress DASS (Depression-Anxiety-Stress
Scale) năm 2015 [4]; Thang đánh giá trầm cảm ở người cao tuổi GDS
(Geriatric Depression Scale) [5].
Ở Việt Nam, việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý bước đầu cũng đã
được áp dụng trong ngành y tế với mục đích hỗ trợ sàng lọc chẩn đốn bệnh,
đặc biệt trong chun khoa tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng. Tại
viện sức khỏe tâm thần-Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, phòng phòng Trắc
nghiệm tâm lý từ nhiều năm nay đã sử dụng các thang đánh giá trầm cảm để
lượng hóa mức độ các trạng thái trầm cảm kể cả bệnh nhân lâm sàng và ở

cộng đồng [6]. Những kết quả thu nhận được đã góp phần hỗ trợ chẩn đốn
các rối loạn trầm cảm và đánh giá tiến triển trong điều trị, giúp cho các thầy
thuốc chun khoa có thêm thơng tin để kết luận bệnh, trạng thái bệnh và từ
đó chọn lựa các giải pháp điều trị phù hợp.
Vì vậy trắc nghiệm tâm lý nhằm hỗ trợ sàng lọc chẩn đoán, điều trị và
theo dõi bệnh nhân trầm cảm trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần học trong giai
đoạn già hóa dân số hiện nay là vô cùng quan trọng, để làm sáng tỏ vấn đề
này tác giả xin trình bày chuyên đề “Một số trắc nghiệm tâm lý sử dụng
sàng lọc và hỗ trợ chẩn đoán trầm cảm” nhằm ba mục tiêu:
1. Mô tả lịch sử phát triển trắc nghiệm tâm lý trong sàng lọc và hỗ trợ
chẩn đoán trầm cảm.
2. Phân tích khả năng sử dụng các trắc nghiệm tâm lý trong sàng lọc
và hỗ trợ chẩn đoán trầm cảm.
3. Áp dụng trắc nghiệm tâm lý trong sàng lọc và hỗ trợ chẩn đoán trầm
cảm ở người cao tuổi tại Việt Nam.

2


Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ
1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ
Trắc nghiệm tâm lý được hình thành và phát triển trong khoảng thời
gian khá dài. Nói đến lịch sử phát triển của các trắc nghiệm tâm lý là nhắc tới
những nhân vật góp phần hình thành và phát triển các trắc nghiệm. Năm 1879
người tiên phong trong lĩnh vực trắc nghiệm là nhà sinh vật học người Anh,
Francis Galton. Ông là người đầu tiên thành lập phịng thí nghiệm nhân trắc
tại triển lãm quốc tế. Bằng các phương pháp đo đạc, lượng giá mà người ta có
thể biết được các chỉ số về thị giác, thính giác, sức cơ, thời gian phản xạ cùng
một số chức năng giác quan đơn giản khác. Galton cũng là người đầu tiên áp

dụng các phương pháp thang cho điểm, bảng hỏi và kỹ thuật liên tưởng tự do.
Bên cạnh đó, ơng cịn góp phần vào việc phát triển các phương pháp thống kê
để phân tích các cứ liệu khác biệt cá nhân [7]. Một nhà khoa học khác nữa cần
nói đến đó là James McKeen Cattell. Ơng tích cực hoạt động trong việc thành
lập các phòng thực nghiệm tâm lý, nhân rộng và phát triển xu hướng trắc
nghiệm tâm lý. Cattell là người đầu tiên nói đến thuật ngữ "Mental Test"
trong bài báo của mình năm 1890. Trong bài báo này Cattell mơ tả một loạt
các trắc nghiệm có thể dùng để khảo sát mức độ trí tuệ của sinh viên. Vào
những năm cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà tâm lý học ở châu Âu đã quan tâm tới
các trắc nghiệm. Cùng với sự quan tâm đó, hàng loạt các trắc nghiệm đã được
đưa vào sử dụng, như: Trắc nghiệm trí nhớ, liên tưởng, trắc nghiệm số học,
trắc nghiệm hoàn thiện câu, ... Và sau này hàng loạt các trắc nghiệm khác đã
ra đời nhằm đo các yếu tố của con người như: trắc nghiệm khảo sát trí tuệ,
trắc nghiệm khảo sát nhân cách, trắc nghiệm khảo sát cảm xúc, trắc nghiệm
khảo sát tư duy, ...

3


1.2. KHÁI NIỆM TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ
1.2.1. Định nghĩa trắc nghiệm tâm lý
Thuật ngữ “trắc nghiệm tâm lý” được nhà Nhân chủng học người Anh Francis Galton sử dụng lần đầu tiên vào năm 1884 để đo sự phát triển khả
năng của con người bằng phương pháp thống kê và mơ tả tốn học. Galton
định nghĩa: “Trắc nghiệm tâm lý là nghệ thuật của phép đo và con số có ý
nghĩa dựa trên những hoạt động của trí não” (Galton, 1879) [8].
Năm 1968, nhà tâm lý học người Nga (Liên Xô cũ) B.G. Ananhep đã
định nghĩa: “Trắc nghiệm tâm lý là một hướng nghiên cứu tâm lý, có mục
đích xác định trình độ phát triển của các chức năng, các q trình, các trạng
thái và thuộc tính tâm – sinh lý của nhân cách,…, xác định những đặc điểm
cấu trúc của mỗi thứ đó và của các chùm của chúng, tạo thành những hội

chứng phức tạp của hành vi,…, xác định những trạng thái của con người dưới
tác động của những tác nhân kích thích, những tác nhân gây căng thẳng,
những tác nhân gây hẫng hụt và những tình huống khác nhau…” [9].
Nhà tâm lý học người Mỹ F.S. Freeman (1971) đã đưa ra định nghĩa
được nhiều người chấp nhận: “Trắc nghiệm tâm lý là một công cụ đã được
tiêu chuẩn hóa, dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của
nhân cách hồn chỉnh qua những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ
hoặc những loại hành vi khác” [10] . Theo Freeman, ba dấu hiệu cơ bản của
trắc nghiệm là: (1) tính tiêu chuẩn hóa của việc trình bày và xử lý kết quả; (2)
tính khơng phụ thuộc của kết quả vào ảnh hưởng của tình huống thực nghiệm
và nhân cách nhà tâm lý học; và (3) tính đối chiếu của các tài liệu cá thể với
các tài liệu chuẩn mực, nghĩa là những tài liệu đã thu được cũng trong những
điều kiện như thế ở một nhóm khá tiêu biểu [10].
Theo Từ điển Tâm lý của Nguyễn Khắc Viện (1995): “Trắc nghiệm
tâm lý là một hệ thống biện pháp đã được chuẩn hóa về kỹ thuật, được quy
định về nội dung và cách làm, nhằm đánh giá ứng xử và kết quả hoạt động
4


của một người hay một nhóm người, cung cấp một chỉ báo về tâm lý (trí lực,
cảm xúc, năng lực, nét nhân cách…) trên cơ sở đối chiếu với một thang đo đã
được tiêu chuẩn hóa hoặc với một hệ thống phân loại trên những nhóm mẫu
khác nhau về phương diện xã hội” [1], [11].
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể thống nhất về mặt nhận thức
rằng trắc nghiệm tâm lý là hệ thống các biện pháp đã được chuẩn hóa về kỹ
thuật, được quy định về nội dung và quy trình thực hiện, nhằm đánh giá hành
vi và kết quả hoạt động của một người hoặc một nhóm người. Với tư cách là
một phương pháp nghiên cứu tâm lý học, trắc nghiệm tâm lý phải mang 06
đặc trưng riêng, đó là: tính chất tương đối đơn giản của thủ tục và trang bị;
thời gian ngắn; ghi lại trực tiếp các kết quả; tiện lợi trong việc xử lý tốn học;

có những tiêu chuẩn đã được xác lập; và khả năng sử dụng đối với cá nhân
cũng như đối với tồn bộ nhóm.
1.2.2. Vai trị và giá trị của trắc nghiệm tâm lý trong lâm sàng tâm thần học
Chẩn đoán tâm thần học dựa trên việc phân loại, định nghĩa và đánh
giá các rối loạn tâm thần. Không giống như các bệnh lý khác, hầu hết các
rối loạn tâm thần được xem xét theo khía cạnh các hội chứng – nhóm các
dấu hiệu và triệu chứng dựa trên tần suất xuất hiện đồng thời. Để đánh giá
các dấu hiệu và triệu chứng nhằm xác định chẩn đoán, các trắc nghiệm tâm
lý đã được xây dựng để định lượng, cụ thể hóa các triệu chứng chủ quan
của đối tượng, trắc nghiệm tâm lý góp phần làm giảm nhẹ các cuộc phỏng
vấn của nhà lâm sàng và tế nhị hóa các triệu chứng khó bộc lộ của người
bệnh, ngồi ra chúng cịn có vai trị làm tăng thêm niềm tin của bệnh nhân
đối với thầy thuốc và bản thân chúng chính là liệu pháp tâm lý có hiệu
quả. Trong lĩnh vực tâm thần học, trắc nghiệm tâm lý dùng để (a) đánh giá
tần suất và mức độ của các triệu chứng tâm thần; (b) hỗ trợ xác định chẩn
đoán lâm sàng; và (c) đánh giá hiệu quả điều trị, dự báo hành vi, triệu
chứng hay tiên lượng điều trị.
5


1.3. CÁC TIÊU CHUẨN CỦA MỘT TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ TỐT
Một trắc nghiệm tâm lý tốt phải có các tính chất chuẩn hóa của nó, một
số tác giả như Pichot P.1973; Hamilton M., 1975; Chelov B.M., 1979, Hankin
J.R., 1982 đã nhấn mạnh đến bốn tiêu chuẩn làm cơ sở cho việc xây dựng các
trắc nghiệm tâm lý [6]:
- Tính khách quan. Kết quả đo của trắc nghiệm không phụ thuộc vào
mối quan hệ riêng tư giữa nhà lâm sàng và nghiệm thể.
- Độ tin cậy. Trắc nghiệm đo cho những kết quả giống nhau qua nhiều
lần thực hiện trên cùng một nghiệm thể, tuy nhiên phải ln tính đến các đặc
điểm định tính và mức độ phát triển của nghiệm thể.

- Độ ứng nghiệm. Trắc nghiệm phải đo được chính cái cần đo, cái cần
nghiên cứu. Độ ứng nghiệm của trắc nghiệm bao gồm độ ứng nghiệm nội
dung (các đề mục trong trắc nghiệm phải đại diện được cho cái cần đo), độ
ứng nghiệm đồng thời (trắc nghiệm phải có giá trị đồng thời với những tiêu
chuẩn đánh giá đang có) và độ ứng nghiệm cấu trúc (trắc nghiệm phải đảm
bảo đánh giá được từng biến số hay cấu trúc bên trong).
- Tính quy chuẩn. Cách tiến hành xử lý kết quả, các bước thực hiện,
các cách cho điểm và kết luận đều được quy định chặt chẽ. Trắc nghiệm phải
được thực hiện theo những tiêu chuẩn, hay những quy chuẩn căn cứ theo một
nhóm chuẩn, và nhóm chuẩn cũng phải mang tính đại diện cho cộng đồng.
Độ ứng nghiệm và độ tin cậy của cơng cụ đánh giá đóng vai trò then
chốt trong việc lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp. Độ ứng nghiệm là
mức độ của một thang đánh giá đo được triệu chứng cần đánh giá, trong khi
độ tin cậy là mức độ đo lường được tính nhất quán của kết quả đánh giá.
Cơ sở lâm sàng nơi công cụ đánh giá được thực hiện rất quan trọng vì
sự gị bó về mặt thời gian có thể làm hạn chế sự lựa chọn các thang đánh giá.
Ngoài ra, nhà lâm sàng nên xác định xem với bệnh nhân này thì nên sử dụng
thang tự đánh giá, thang quan sát hay thang phỏng vấn thì phù hợp hơn.
6


Các thang phỏng vấn có thể đảm bảo q trình hồn thành trắc nghiệm
– điều rất quan trọng trong nhóm quần thể người cao tuổi cũng như trong các
thử nghiệm lâm sàng, nhưng chúng có thể chứa đựng cả những suy nghĩ chủ
quan của người phỏng vấn, điều này tác động đến tính khách quan của kết quả
trắc nghiệm. Do đó, việc sử dụng các thang phỏng vấn phải do các nhà lâm
sàng đã được tập huấn kỹ về loại trắc nghiệm này nhằm làm giảm ý kiến chủ
quan cá nhân trong việc diễn giải hoặc diễn đạt các câu hỏi.
Các thang tự đánh giá đem lại hiệu quả về mặt thời gian cho các nhà
lâm sàng. Tuy nhiên một số người cao tuổi cần phải có sự trợ giúp từ phía các

thành viên trong gia đình để hồn thành được các câu hỏi. Sự trợ giúp từ
người thứ ba có thể mang lại kết quả là các số liệu nhiều khi không phản ánh
được thực sự ý kiến của bệnh nhân. Ngồi ra, những bệnh nhân có động cơ
kém hoặc trầm cảm thường có xu hướng khơng làm theo quy trình đánh giá.
Điều nữa là yếu tố xấu hổ và sợ bị kỳ thị cũng có thể dẫn đến việc không báo
cáo đầy đủ các triệu chứng ở thang tự đánh giá. Một trắc nghiệm tâm lý tốt,
sử dụng trong lâm sàng có hiệu lực đánh giá hay khơng còn tùy thuộc vào
người sử dụng trắc nghiệm.
Người sử dụng trắc nghiệm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
trắc nghiệm, cố gắng khách quan một cách tối đa, thiết lập mối quan hệ tin
cậy, hợp tác tích cực từ phía nghiệm thể.
Người sử dụng trắc nghiệm phải chọn được những trắc nghiệm phù hợp
cho từng nghiệm thể để họ chấp nhận làm trắc nghiệm một cách tự nguyện,
khuyến khích nghiệm thể làm trắc nghiệm, để họ bộc lộ tâm tư hoặc thể hiện
được năng lực trí tuệ khi làm trắc nghiệm.
Trắc nghiệm tâm lý là một công cụ khách quan, còn sự đánh giá của
người sử dụng trắc nghiệm mang tính chủ quan. Chính vì vậy, việc sử dụng
trắc nghiệm đòi hỏi người sử dụng trắc nghiệm phải có tay nghề thành thạo,
có kinh nghiệm và kiến thức sâu sắc về tâm thần học – tâm lý học, biết đánh
giá kết quả ở từng nghiệm thể trong từng tình huống nhất định.
7


Kết quả trắc nghiệm khơng chỉ có ý nghĩa duy nhất mà cịn có khả năng
mang lại nhiều ý nghĩa. Kết quả chỉ là chỉ báo để gợi ý cho lâm sàng chứ
không mang ý nghĩa quyết định trong việc chẩn đoán hay điều chỉnh việc điều
trị. Trong một số trường hợp cần thiết, có thể tiến hành làm nhiều trắc nghiệm
để so sánh đối chiếu, nhằm đánh giá được một cách chính xác hơn với những
kinh nghiệm lâm sàng thông thường.
1.4. SỬ DỤNG TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.4.1. Sử dụng trắc nghiệm trên thế giới
Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển vượt bậc và nhanh chóng của tâm lý
học. Cùng với sự phát triển của các phòng thực nghiệm tâm lý là sự phát triển
của các trắc nghiệm tâm lý - giáo dục vào những năm cuối của thế kỷ XIX.
Trắc nghiệm trí tuệ của Alfred Binet (1857 - 1911) là trắc nghiệm trí tuệ cá
nhân đầu tiên được Bộ giáo dục Pháp sử dụng để phân biệt trẻ bình thường và
khơng bình thường [12]. Đầu thế kỷ XX các trắc nghiệm khả năng (năng lực)
nhân cách lần lượt ra đời và có ứng dụng rộng rãi trong việc nhận xét đánh giá
cá nhân, đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc tư vấn và chọn nghề. Có thể nói
rằng cơng tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp có thể tồn tại và phát triển được
là nhờ sự trợ giúp của các trắc nghiệm về khả năng nhận thức, hứng thú, trí
thơng minh, nhân cách, ... Những trắc nghiệm này ngày càng được chuẩn hóa
và hồn thiện góp phần tích cực cho tất cả các loại hình tham vấn. Những
người sử dụng trắc nghiệm đầu tiên đều là những người tham gia vào công tác
xã hội và họ làm công việc tư vấn nghề nhằm giúp đỡ các cá nhân trong việc
lựa chọn nghề nghiệp, tìm ra cách bắt đầu và xây dựng một công việc một
cách thành công. Họ cũng là những người được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh
vực sử dụng trắc nghiệm và đều làm việc tại các trung tâm tư vấn, các cơ sở
thăm khám tâm lý hay tại các bệnh viện [7]. Nhìn chung, việc sử dụng các
trắc nghiệm tâm lý trên thế giới khá phổ biến và rất phát triển. Các trắc
nghiệm liên tục được thay đổi cho thích hợp với thời điểm sử dụng trắc
8


nghiệm để đem lại hiệu quả thực tế. Các trắc nghiệm tâm lý dần dần được đưa
vào ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống tâm lý chứ không chỉ
dừng lại ở việc đem lại hiệu quả cho công tác tuyển chọn và tư vấn nghề. Các
trắc nghiệm tâm lý góp phần khơng nhỏ vào việc chẩn đốn và trị liệu cho
những cá nhân có rối nhiễu tâm lý.
1.4.2. Sử dung trắc nghiệm tâm lý ở Việt Nam

Ở Việt Nam, việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý và những mục đích
thăm khám tâm lý cịn rất mới mẻ. Ở một vài bệnh viện lớn, trong khoa tâm
thần hay khoa thần kinh các bác sĩ đã sử dụng khá phổ biến các trắc nghiệm
để chẩn đoán bệnh. Một số nơi như Khoa Tâm thần bệnh viện Bạch Mai, Hà
Nội; Viện quân y 103; Viện nhi trung ương; ... đã có một phịng riêng làm các
trắc nghiệm tâm lý. Các trắc nghiệm trí tuệ cũng được nghiên cứu và sử dụng
tại Viện Nhi Hà Nội. Các bác sĩ quân đội cũng đã dùng các trắc nghiệm tâm
lý trong công tác chữa bệnh và khám tuyển. Trong lĩnh vực giáo dục, các trắc
nghiệm trí tuệ được ứng dụng trong việc tuyển chọn sinh viên vào các lớp tài
năng như ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trường Đại học Xây dựng, ...
Ngồi ra cịn có một số các trắc nghiệm được sử dụng trong trường học để ôn
tập và thi cử. Trên các báo như Hoa học trò, Mực tím, ... cũng có đăng tải các
trắc nghiệm nhằm giúp các bạn học sinh lựa chọn ngành học phù hợp khi họ
đang phân vân không biết nên lựa chọn ngành học nào, sau này ra làm gì. Từ
năm 1984, chuyên đề Khoa học chẩn đoán tâm lý đã bắt đầu được giảng dạy
cho hệ sau Đại học của khoa Tâm lý học trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 1996, các mơn học như: khoa học chẩn đốn tâm lý, tâm lý học lâm
sàng, tâm lý học trị liệu, tham vấn tâm lý, ... được đưa vào giảng dạy ở khoa
Tâm lý học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia
Hà Nội. Việc đưa vào giảng dạy những mơn học đó góp phần vào việc đào tạo
những người sử dụng trắc nghiệm, chủ yếu là những nhà tâm lý lâm sàng hoạt
động trong lĩnh vực này. Hiện nay đã có một số trung tâm tư vấn, bệnh viện,
9


trung tâm nghiên cứu có sử dụng các trắc nghiệm tâm lý để chẩn đoán và đã
tổ chức huấn luyện kỹ thuật viên về trắc nghiệm. Có thể kể đến: Trung tâm
nghiên cứu trẻ em N - T; Viện Nhi trung ương; Viện sức khỏe tâm thần quốc
gia; Bệnh viện tâm thần trung ương; Viện quân y 103; ... Nhìn chung, chúng
ta mới đang ở giai đoạn thử nghiệm và thích nghi hóa các trắc nghiệm nước

ngồi. Việc nghiên cứu lý luận và xây dựng các trắc nghiệm riêng thuần túy
của nước ta mới đang ở giai đoạn bắt đầu, thực tế chưa có một trắc nghiệm
nào được đem vào ứng dụng thăm khám tâm lý [7].

10


Chương 2
TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ TRONG SÀNG LỌC VÀ CHẨN
ĐOÁN TRẦM CẢM
2.1. TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ VÀ CÁC THANG ĐO ĐÁNH GIÁ
TRẦM CẢM
2.1.1. Trắc nghiệm tâm lý sàng lọc chẩn đoán trầm cảm
Các trắc nghiệm tâm lý sử dụng trong sàng lọc và chẩn đoán trầm cảm
được các nhà khoa học khối ngành sức khỏe mã hóa thành những thang đo.
Những thang đo nào có liên quan đến việc lượng hoá các triệu chứng trầm
cảm, được dùng để hỗ trợ lâm sàng xác định các rối loạn trầm cảm và các
mức độ diễn biến của nó thì được gọi là thang đánh giá trầm cảm. Nếu sử
dụng những thang đánh giá trầm cảm cùng với phương pháp hệ thống hoá
chuẩn sẽ cho phép nhà tâm thần học có thể dễ dàng tiến hành phân loại những
triệu chứng trầm cảm của một bệnh nhân. Kiểu thang đánh giá thông dụng
nhất là thang dành để tạo dựng nên “tình trạng” của các bệnh nhân; kiểu thang
này nhằm để đánh giá tất cả các thay đổi có thể xẩy ra, kể cả những thay đổi
sau khi bệnh nhân được điều trị. Kiểu thang đầu tiên được quan tâm đến hiện
nay là kiểu để chẩn đốn bệnh. Thang dùng vào mục đích này cung cấp những
thông tin cần thiết để xếp loại một trường hợp bệnh ở mức gần đúng nhất [13].
2.1.2. Sự tương đồng và sự khác biệt đặc thù của các thang đo hỗ trợ sàng
lọc chẩn đoán trầm cảm
Các thang đo trầm cảm được khởi đầu chỉ là “các thang đánh giá” có
bản chất rất chung chung, vì chúng được dành cho việc quan sát những mặt

khác nhau về hành vi của những bệnh nhân tâm thần nội trú hoặc ngoại trú dù
là chẩn đoán thế nào. “Thang đánh giá tâm thần” (PRS: Psychiatric Rate
Scale) của Wittenbort khởi thảo năm 1951–1955 được các nhà tâm thần học

11


sử dụng và được sửa chữa lại hoàn thiện vào năm 1964. “Thang đa kích thước
để đánh giá các bệnh tâm thần” (MSRPP: Multidinenional Scale for Rating
Psychiatric Patients) của Lorr và cộng sự xây dựng năm 1953, và được sửa
chữa lại trở thành “Thanh đánh giá đa kích thước bệnh tâm thần nội trú”
(IMPS: Inpatient Multidiménional Psychiatric Scale) vào năm 1963. Những
thang đánh giá của Wittenbort và Lorr chứa đựng những đề mục liên quan
đến những khía cạnh khác nhau của triệu chứng học trầm cảm, và đến sự phân
tích những yếu tố đã được thực hiện, cho phép phân lập ra được những nhóm
đề mục cấu tạo nên những thang triệu chứng đánh giá, đó là những cơng cụ để
đo lường mức độ của triệu chứng trầm cảm. Thí dụ, đề mục “Trầm cảm” và
“Lo âu” trong “Thang đánh giá tâm thần”, đề mục “Trầm cảm chậm chạp” và
“Kích động sầu uất” trong thang MSRPP, đề mục “Chậm chạp và lãnh đạm”
trong thang IMPS… Những thang này cho phép ghi nhận một số triệu chứng
liên quan đến rối loạn trầm cảm. Người ta thấy xuất hiện những thang đánh
giá dùng đặc biệt cho việc nghiên cứu những trường hợp rối loạn trầm cảm
(1960) [13], [14], [15]. “Thang nghiên cứu tác dụng của thuốc Imipramin”, do
Lehmann xây dựng năm 1958; “Thang những hiện tượng trầm cảm” của Grin
Ker xây dựng năm 1961, nhằm thống kê những triệu chứng trầm cảm; và một
số thang đánh giá rối loạn trầm cảm khác cũng ra đời, như “Thang lượng hoá
các phản ứng trầm cảm” của Cutler và Kurland, 1961; “Thang đánh giá trạng
thái trầm cảm” của Wechsles năm 1963; v.v.
Hiện nay có rất nhiều thang đánh giá trầm cảm đang đang được triển
khai ứng dụng ở các viện tâm thần, các bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện đa

khoa và ứng dụng ở cộng đồng. Trong đó có hai loại thang cơ bản đó là thang
tự điền của đối tượng được khảo sát như thang đo GDS bao gồm 30 đề mục
(GDS-30)..., thang tự điền của đối tượng được khảo sát nhưng phải dưới sự
kiểm soát của điều tra viên là cán bộ được tập huấn về thang đo này như
thang BDI bao gồm 21 đề mục, SDS bao gồm 20 đề mục...; thang bắt buột
12


phải là thầy thuốc chuyên khoa hoặc cử nhân tâm lý chuyên khoa mới được
thực hiện như thang Hamilton, MADRS (Montgomery-Asberg), BDI bao
gồm 13 đề mục, GDS bao gồm 15 đề mục (GDS-15), GDS bao gồm 8 đề mục
(GDS-8), GDS bao gồm 4 đề mục (GDS-4), ...
Tuy nhiên do tính chất đặc trưng về dân số học và tính chất đa dạng của
các trắc nghiệm tâm lý thể hiện ở các thang đo đánh giá trầm cảm nên các nhà
khoa học đã phân chia các thang đo đánh giá này thành nhóm thang đo đánh
giá ứng dụng ưu tiên cho người cao tuổi (được trình bày ở chương 3) và nhóm
thang đo đánh giá trầm cảm ứng dụng được cho mọi đối tượng (được trình
bày ở các tiểu mục tiếp theo).
2.2. CÁC THANG ĐÁNH GIÁ TRẦM CẢM THƯỜNG SỬ DỤNG
2.2.1. Thang Đánh giá trầm cảm Hamilton (Hamilton Depression Rating
Scale-HDRS)
Thanh đánh giá trầm cảm của Hamilton, ra đời năm 1960, thường được
viết tắt theo các chữ cái đầu từ của tiếng Anh là HDRS (Hamilton Depression
Rating Scale) hoặc HAMD (Hamilton Depression).
Thang này thể hiện một phương pháp đơn giản để đánh giá bằng định
lượng mức độ nghiêm trọng của tình trạng trầm cảm, và để chứng minh
những chuyển biến của rối loạn này trong quá trình điều trị. Thanh đánh giá
trầm cảm của Hamilton không phải là một công cụ nhằm mục đích chẩn đốn.
Một nghiên cứu của Brink & cs (1982) so sánh GDS với HAM-D cho thấy
ngưỡng điểm 11 ở thang HAM-D có độ nhạy 86% và độ đặc hiệu 80% [16].

Đây là một thang được cơng nhận có giá trị và độ tin cậy cao được sử dụng
trong nghiên cứu lâm sàng và để chứng minh những chuyển biến của rối loạn
trầm cảm trong quá trình điều trị, thực hiện thang HAM-D mất khoảng 20 30 phút để hoàn thành và nên được thực hiện bởi người phỏng vấn đã được
huấn luyện [3].

13


2.2.1.1. Lịch sử của thang đánh giá trầm cảm Hamilton.
Thang đánh giá này mới đầu đã được nghĩ ra để đo lường những thay đổi
về cường độ của những triệu chứng trầm cảm trong thử nghiệm lâm sàng những
thuốc chống trầm cảm. Tác giả khơng có ý định xây dựng một bản đề mục với
hết thảy mọi triệu chứng trầm cảm; tuy nhiên, thang đánh giá được cấu tạo một
mặt bởi những triệu chứng rất hay quan sát thấy trong bệnh nhân trầm cảm, mặt
khác bởi những triệu chứng ít xảy ra hơn, nhưng khi xuất hiện thì chúng cho
phép xác định được mỗi thể lâm sàng riêng biệt của rối loạn trầm cảm.
Thang đánh giá trầm cảm của Hamilton có nhiều phiên bản khác nhau.
Phiên bản gốc có 21 đề mục (Hamilton, 1960) [17]. Phiên bản được tác giả
coi là vĩnh viễn có 17 đề mục (Hamilton, 1967) [3].
2.2.1.2. Kiểu cấu trúc Thang đánh giá trầm cảm của Hamilton.
Trong cấu trúc của thang đánh giá, 17 đề mục được giữ lại trong phiên
bản mà ông coi như vĩnh viễn là những đề mục đại diện tốt nhất cho triệu
chứng học của rối loạn trầm cảm. Theo tác giả, điểm tổng cộng phản ánh
được cường độ chung của hội chứng trầm cảm. mười bảy đề mục được giữ lại
trong phiên bản để cho điểm những triệu chứng sau đây:
Đề mục

TT

Đề mục


TT

1.

Khí sắc trầm

10

Lo âu (triệu chứng tâm lý)

2

Cảm giác tội lỗi

11

Lo âu (triệu chứng cơ thể)

3

Tự sát

12

Triệu chứng cơ thể (dạ dày- ruột)

4

Mất ngũ (lúc ban đầu)


13

Triệu chứng cơ thể chung

5

Mất ngũ (lúc gữa đêm)

14

Triệu chứng sinh dục

6

Mất ngũ (về sáng)

15

Nghi bệnh

7

Công việc và hoạt động

16

Sút cân

8


Chậm chạp

17

Mất sự thấu hiểu

9

Kích động

14


Hamilton đã thực hiện một nghiên cứu vào năm 1967, trên 272 bệnh
nhân. Qua nghiên cứu này, một số đề mục không đặc hiệu cho trầm cảm nhưng
vẫn được giữ lại, vì chúng xuất hiện với tần suất cao trong q trình của những
hội chứng trầm cảm (ví dụ: các triệu chứng cơ thể, triệu chứng lo âu).
Có 4 đề mục được thêm vào, hình thành một thang đánh giá Hamilton
có cấu trúc 21 mục, đó là:
Đề mục

TT
18 Những biến động trong ngày

19 Giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại
20 Triệu chứng hoang tưởng
21 Triệu chứng ám ảnh cưỡng bức
Các đề mục này tương đương với những triệu chứng ít gặp hơn, khơng
nhất thiết tương quan với cường độ chung của hội chứng trầm cảm, nhưng lại

xuất hiện trong một số thể trầm cảm.
Ở Mỹ, có 3 đề mục bổ sung của phiên bản thực nghiệm, đó là: tình cảm
bất lực, tình cảm vơ hi vọng, và tình cảm giá trị. Thêm 3 đề mục này, thang
đánh giá trở nên có cấu trúc 20 đề mục. Các đề mục này chứng tỏ mối quan
tâm của các tác giả muốn tăng thêm số lượng những đề mục “đặc hiệu” của
rối loạn trầm cảm.
Như vậy, Thang đánh giá trầm cảm được Hamilton dựng lên một “tình
trạng” với đầy đủ các khía cạnh rối loạn trầm cảm có trên các bệnh nhân.
Thang được coi như “bức tranh” hiện thực sinh động, là những đề mục đại
diện cho triệu chứng lâm sàng của người bệnh rối loạn trầm cảm.
Thang đánh giá được điền vào trong những phút tiếp sau một cuộc tiếp
xúc, trong đó thầy thuốc lâm sàng tìm cách phát hiện những triệu chứng trầm
cảm chính thức, chứ khơng phải những biến đổi khơng rõ ràng về khí chất.
Phải đặt những câu hỏi cho bệnh nhân theo quan niệm này. Những dữ liệu

15


lâm sàng thu được bằng cách như vậy có thể được bổ sung, nếu cần, từ những
thông tin do người thân của bệnh nhân cung cấp. Thời lượng của cuộc tiếp
xúc cần thiết để điền vào những đề mục của thang đánh giá nhằm đáp ứng đầy
đủ tập hợp các triệu chứng phải kéo dài tối thiểu là 20 phút.
Hamilton tính điểm từ các đề mục cụ thể. Thang đánh giá trầm cảm
được cho điểm sau khi đã hoàn thành phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn bệnh nhân
phải dựa vào cấu trúc của thang 21 đề mục, trong đó thơng tin mỗi đề mục có
thể quan sát được cũng như để cho điểm các lời than phiền của bệnh nhân.
Điểm tổng cộng được phản ánh cường độ chung của rối loạn trầm cảm. Dựa
vào kết quả số điểm, người thầy thuốc tâm thần có thể xác định tình trạng
bệnh lý chung của người bệnh có rối loạn trầm cảm ở mức độ nào (phụ lục 2).
THANG ĐÁNH GIÁ TRẦM CẢM HAMILTON (HAM-D)

Đề mục
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Điểm số
0-4
0-4
0-4
0-2
0-2
0-2

0-4
0-4
0-4
0-4
0-4
0-2
0-2
0-2
0-4
0-2
0-2
0-2
0-4
0-4
0-2

Triệu chứng
Khí sắc trầm
Cảm giác tội lỗi
Tự sát
Mất ngũ (lúc ban đầu)
Mất ngũ (lúc gữa đêm)
Mất ngũ (về sáng)
Cơng việc và hoạt động
Chậm chạp
Kích động
Lo âu (triệu chứng tâm lý)
Lo âu (triệu chứng cơ thể)
Triệu chứng cơ thể (dạ dày- ruột)
Triệu chứng cơ thể chung

Triệu chứng sinh dục
Nghi bệnh
Sút cân
Mất sự thấu hiểu
Thay đổi trong ngày và đêm
Giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại
Triệu chứng hoang tưởng
Triệu chứng ám ảnh cưởng bức

16


Mỗi đề mục của thang đánh giá được cho điểm từ 0 đến 2 hoặc từ 0 đến
4. Điểm tổng cộng của phiên bản 17 đề mục (khơng tính 4 mục cuối) là từ 0
đến 52 điểm.
Những điểm cho từ 0 đến 4 tương đương lần lượt với các triệu chứng
như sau: khơng có triệu chứng; triệu chứng nghi ngờ hoặc khơng có ý nghĩa;
triệu chứng nhẹ; triệu chứng vừa và triệu chứng nặng.
Những điểm cho từ 0 đến 2 tương đương với những mức độ triệu chứng
sau: khơng có triệu chứng; triệu chứng nghi ngờ hoặc không đáng kể và triệu
chứng biểu hiện rõ ràng.
Cách cho điểm dựa trên những dữ liệu của cuộc tiếp xúc, cũng như các
triệu chứng được bệnh nhân trình bày chi tiết hiện tại xảy ra trong quá trình
một tuần lễ vừa qua.
Nhiều tác giả đã sử dụng điểm tổng cộng của thang đánh giá trầm cảm
của Hamilton làm tiêu chuẩn trong những thử nghiệm trị liệu thuốc chống
trầm cảm. Việc sử dụng này hàm ý là điểm tổng cộng của thang đánh giá
phản ảnh trung thành cho tổng thể những triệu chứng trầm cảm.
Những nghiên cứu hợp thức hoá thang đánh giá trầm cảm Hamilton
khơng phải chỉ giới hạn ở những phép tính tương quan giữa một điểm tổng

cộng với một tiêu chuẩn của đề mục ghi lại được, để coi như đó là sự đánh giá
tổng thể của tình trạng trầm cảm trên bệnh nhân. Theo Hamilton, các nghiên
cứu hợp thức hoá bên trong của thang đánh giá sử dụng cách phân tích các
triệu chứng trong việc tìm ra một số triệu chứng chung của trầm cảm, hoặc
những triệu chứng riêng biệt đối với các mẫu chọn khác nhau. Phân tích khởi
đầu của Hamilton về thang đánh giá 17 đề mục, khi nghiên cứu 272 bệnh
nhân, đã chứng minh được 6 triệu chứng riêng biệt: chứng lo âu – cơ thể hoá;
những thay đổi về trọng lượng cơ thể; những rối loạn về nhận thức; những
biến động về chu kỳ ngày đêm; sự chậm chạp; và những rối loạn giấc ngủ.

17


Một số cơng trình nghiên cứu khác về vấn đề này cũng đã đi tới kết
luận rằng, 6 đề mục của thang đánh giá Hamilton tương quan đủ với đánh giá
tổng thể rối loạn trầm cảm và như vậy đáp ứng được những tiêu chuẩn chẩn
đốn trầm cảm, đó là khí sắc trầm cảm; tự sát; cơng việc và hoạt động; sự
chậm chạp; lo âu tâm lý; và những triệu chứng về cơ thể chung.
Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả nhận định 6 đề mục này là đại diện
cho “hạt nhân trầm cảm” trong thang đánh giá của Hamilton.
2.2.1.3. Ứng dụng và những hạn chế của thang đánh giá trầm cảm Hamilton
Thang đánh giá trầm cảm Hamilton cho đến nay vẫn được sử dụng phổ
biến trên thế giới. Thang này được các nhà tâm thần học sử dụng nhiều nhất
để ghi nhận các triệu chứng trầm cảm trước khi điều trị, và để đánh giá tầm
quan trọng của mức độ cải thiện bệnh mà phương pháp điều trị mang lại.
Ngồi ra, thang cũng có thể được các bác sĩ đa khoa sử dụng (Patkel, 1990)
[18]. Tuy nhiên, đối với một số thể lâm sàng của trầm cảm, như trầm cảm
theo mùa, thì thang đánh giá Hamilton là khơng thích hợp. Một số tác giả đã
đề xuất những phiên bản làm lại của công cụ này để áp dụng cho những
trường hợp đó, ví dụ trong trầm cảm theo mùa, thì đưa thêm một số mục như:

ngủ gà; tăng trọng lượng cơ thể; hoặc thèm ăn các chất Hydrat carbon vào
thang đánh giá là cần thiết. HDRS được xây dựng nhằm mục đích đánh giá
kết quả điều trị chứ khơng phải là cơng cụ chẩn đốn hay sàng lọc trầm cảm
(Hamilton M., 1960) [17]. Mặc dù HDRS không được thiết kế để chẩn đốn
trầm cảm, nhưng nó lại thường được sử dụng như một công cụ sàng lọc, đặc
biệt trong bệnh cảnh lâm sàng cần xác định bệnh nhân có các rối loạn trầm
cảm. Thang HDRS gồm có 21 đề mục hệ thống hóa các quan sát lâm sàng về
những triệu chứng liên quan đến trầm cảm, trong đó 10 đề mục có điểm từ 0 –
4; 9 đề mục có điểm từ 0 – 2; và 2 đề mục có điểm từ 0 – 3. Điểm từ 18 – 20
xác định phân biệt người có thể mắc rối loạn trầm cảm. HAM-D được thực
hiện trong vòng 30 phút phỏng vấn lâm sàng để đánh giá các triệu chứng trầm
18


cảm. Mặc dù HDRS là thang quan sát được sử dụng phổ biến nhất (Maier W,
Philipp M.,1985) [19], nhưng nó khơng có độ ứng nghiệm tốt cho nhóm quần
thể người cao tuổi (Lichtenberg PA., 1992) [20]. Những hạn chế của HDRS
bao gồm cấu trúc phân tích yếu tố khơng nhất quán, nhấn mạnh đến các triệu
chứng. HDRS đánh giá kết quả điều trị chứ không phải là công cụ hỗ trợ sàng
lọc chẩn đốn trầm cảm và khơng phải là thang tư điền của đối tượng khảo sát.
2.2.2. Thang Tự đánh giá trầm cảm Beck (Beck Depression Inventory-BDI)
Thang Đánh giá trầm cảm Beck (Beck Depression Inventory-BDI) là
một chuỗi những câu hỏi được xây dựng để đánh giá cường độ, mức độ và sự
nhận thức về trầm cảm ở những người bệnh có chấn đốn rối loạn tâm thần.
Nó gồm có hai phiên bản, bản 21 câu được thiết kế để đánh giá các triệu
chứng thường gặp ở những người mắc bệnh trầm cảm. Phiên bản rút gọn gồm
13 câu được thiết kế để dành cho các nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe ban
đầu. Aaron T. Beck (1961), người tiên phong trong lĩnh vực trị liệu nhận thức,
đã thiết kế ra thang đánh giá này.
Thang Beck lúc đầu được xây dựng để phát hiện, đánh giá và theo dõi

những thay đổi ở các triệu chứng trầm cảm với những bệnh nhân trong cơ sở
chăm sóc sức khỏe tâm thần. Nó cũng được dùng để phát hiện các triệu chứng
trầm cảm tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Hoàn thành trắc nghiệm
BDI thường mất 5 đến 10 phút.
Thang Beck phải do cán bộ đã được tập huấn sử dụng. BDI nên được
thực hiện dưới sự giám sát hoặc bán giám sát của người có kiến thức về sức
khỏe tâm thần đã từng được tập huấn về cách sử dụng và diễn giải trắc
nghiệm này.
Thang Beck (BDI) được xây dựng vào năm 1961, được chuẩn hóa vào
năm 1969, áp dụng vào năm 1972 và đăng ký bản quyền vào năm 1978, đến
năm 1979 một phiên bản sửa đổi BDI-II được xuất bản. Phiên bản hai của trắc
nghiệm này (BDI-II) được xây dựng theo những sửa đổi trong Phiên bản sửa
19


đổi lần thứ tư của sổ tay Thống kê và Chẩn đoán các rối loạn tâm thần của
Hiệp hội Tâm thần học Mỹ và hiện nay đươc sử dụng nhiều nhất. Sự khác
nhau giữa BDI và phiên bản dữa đổi BDI-II là BDI-II sẽ không áp dụng nếu
như đối tương khảo sát đã có một giai đoạn hưng cảm hoặc giai đoạn hưng
cảm nhẹ, các triệu chứng phải tồn tại trong hầu hết trong ngày và hầu như
hàng ngày, trong ít nhất 2 tuần liên tiếp (DSM-IV-TR) [21]. Phiên bản dài của
BDI gồm 21 đề mục, mỗi đề mục gồm bốn câu lựa chọn. Mỗi câu lựa chọn
được ấn định một điểm từ 0 đến 3, chỉ báo mức độ của triệu chứng. Phiên bản
rút gọn dành cho nhân viên chăm sóc sức khỏe ban đầu gồm 13 đề mục, mỗi
đề mục đề cập đến một triệu chứng của rối loạn trầm cảm chủ yếu xuất hiện
trong hai tuần trở lại đây.
Các câu lựa chọn của BDI đánh giá tâm trạng, sự bi quan, cảm giác thất
bại, khơng hài lịng với bản thân, mặc cảm tội lỗi, cảm giác bị trừng phạt, ghét
bản thân, tự buộc tội bản thân, ý tưởng tự sát, than khóc, dễ bị kích động, thu
mình, cảm giác về hình ảnh bản thân, làm việc khó khăn, mất ngủ, mệt mỏi,

mất ngon miệng, sút cân, lo lắng về cơ thể, và mất hứng thú tình dục. Các đề
mục từ 1 đến 13 đánh giá các triệu chứng về mặt tâm lý, trong khi các đề mục
từ 14 đến 21 là về các triệu chứng cơ thể. BDI có thể phân biệt giữa các loại
rối loạn trầm cảm như trầm cảm chủ yếu và chứng loạn khí sắc (phụ lục 3).
Thanh đánh giá trầm cảm của Beck là một công cụ đánh giá chủ quan
rối loạn trầm cảm được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu lâm sàng sức
khỏe tâm thần và dược lý học, cũng như trong lĩnh vực đa khoa và cả trong
dịch tễ học, mang lại những dữ liệu sâu sắc về tình trạng trầm cảm. Có thể nói
đây là một cơng cụ được các bệnh nhân chấp nhận tốt và sử dụng dễ dàng, vì
nó ngắn ngọn. Tác giả Forkmann T, Vehren T và cộng sự (2009) kết luận
rằng, BDI không thể khuyến cáo như một cơng cụ sàng lọc chính thức vì
khơng có điểm cắt cho BDI bao gồm 21 đề mục hoặc BDI bao gồm 13 đề
mục có sự kết hợp cả độ nhạy và độ đặc hiệu đủ cao. Tuy nhiên BDI bao gồm
13 đề mục ngắn hơn có thể được sử dụng thay thế cho BDI bao gồm 21 đề
20


×