Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giải pháp phát triển ngành ngân hàng Việt Nam thích ứng với các qui định của TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.15 KB, 10 trang )

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH NGÂN HÀNG
VIỆT NAM THÍCH ỨNG VỚI CÁC QUI ĐỊNH CỦA TPP
TS. Nguyễn Kim Hoàng
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã tạo
ra một bước ngoặt lớn đối với hội nhập kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Với tư
cách là thành viên của TPP, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ hiệp định này, tuy
nhiên Việt Nam cũng chịu nhiều thách thức lớn do là quốc gia phát triển kém
nhất trong nhóm. Bài viết này phân tích tác động của hiệp định TPP đến ngành
ngân hàng Việt Nam và sự cần thiết cho các giải pháp nhằm phát triển ngành
ngân hàng Việt Nam thích ứng với các quy định của TPP.

1. Giới thiệu về TPP
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh:
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một
hiệp định thương mại tự do đã hoàn tất các đàm phán vào ngày 5/10/2015 giữa 12
quốc gia1 với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm, tăng
cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh tranh, nâng cao mức sống, giảm đói nghèo
ở các nước ký kết, đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người
lao động, bảo vệ mơi trường và hiệp định sẽ có hiệu lực từ năm 2018.
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer
Economic Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, Thủ
tướng Singapore Goh Chok Tong và Thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra
thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los Cabos,
Mexico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng 04 năm
2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương. Đến năm 2008, thêm 4 nước đàm phán để gia


1

Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mỹ, Mexico, Nhật Bản, New Zealand, Peru, Singapore, Úc và Việt
Nam

553


nhập, đó là các nước Mỹ, Peru, Úc và Việt Nam. Từ năm 2010 đến 2013, lần lượt
các nước Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản bắt đầu tham gia đàm phán.
TPP trở thành một Hiệp định quan trọng của thế kỷ XXI, đặt ra các tiêu
chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, đồng thời tiếp tục giải quyết các vấn đề của
thời đại mới. Những đặc điểm đó bao gồm:
- Tiếp cận thị trường tồn diện. TPP đã xóa bỏ hoặc giảm thuế quan và các
rào cản phi thuế quan một cách đáng kể đối với mua bán hàng hóa và dịch vụ, bao
trùm một mảng lớn về thương mại, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, và đầu tư nhằm
tạo ra các cơ hội mới và lợi ích cho doanh nghiệp, công nhân, và người tiêu dùng
của các nước ký kết.
- Cách tiếp cận các cam kết khu vực. TPP hỗ trợ sự phát triển sản xuất,
chuỗi cung ứng, và thương mại liền mạch, tăng cường hiệu quả, tạo và hỗ trợ việc
làm, nâng cao mức sống, tăng cường các nỗ lực bảo tồn, hỗ trợ hội nhập xuyên
biên giới, cũng như mở cửa thị trường trong nước.
- Giải quyết các thách thức thương mại mới. TPP thúc đẩy sự đổi mới, năng
suất, và tính cạnh tranh nhờ vào việc xem xét giải quyết các vấn đề mới, trong đó
có phát triển kinh tế kỹ thuật số và vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế toàn cầu.
- Thương mại toàn diện. TPP bao gồm các yếu tố mới nhằm đảm bảo các
nền kinh tế ở các mức độ phát triển khác nhau và các doanh nghiệp có quy mơ
khác nhau đều có thể đạt được lợi ích từ thương mại. Hiệp định bao gồm cam kết
giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu được Hiệp định, nắm bắt các cơ hội,

và buộc chính quyền các nước tham gia TPP phải chú ý đến những thách thức đặc
thù của mình. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và xây
dựng năng lực thương mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên có thể tuân thủ cam kết
trong Hiệp định và tận dụng được những lợi ích.
- Nền tảng hội nhập khu vực. TPP được định hình như một nền tảng cho hội
nhập kinh tế khu vực và nhắm đến cả những nền kinh tế khác trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
2. Yêu cầu của TPP đối với ngành ngân hàng và một số lĩnh vực ở
Việt Nam
Theo đánh giá của nhiều tổ chức2, mặc dù Việt Nam là quốc gia kém phát
triển nhất trong 12 thành viên tham gia TPP nhưng Việt Nam có khả năng được
hưởng lợi nhiều do TPP mang lại.
2

Bloomberg (2015), The Biggest Winner From TPP Trade Deal May Be Vietnam
Wall Street Journal (2015), Why You May Soon See More Goods Labeled ‘Made in Vietnam’

554


Đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Hiệp định TPP có nhiều nội dung cốt lõi
giống như trong các hiệp định thương mại khác, bao gồm đối xử quốc gia; đối xử
tối huệ quốc; đồng thời cũng quy định việc cung cấp dịch vụ tài chính qua biên
giới cho một nước TPP từ một nhà cung cấp của một nước TPP khác mà không
yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác
để bán các dịch vụ của mình. Việt Nam có lĩnh vực tài chính ngân hàng cịn kém
phát triển so với các nước tham gia TPP, do đó Việt Nam cần phải nhanh chóng
nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung cũng như ngành dịch
vụ tài chính nói riêng cho đến khi hiệp định TPP có hiệu lực vào năm 2018. Với
chủ trương tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín

dụng (TCTD) nhằm tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam đã được xác định rõ trong
Quyết định 254/QĐ-Ttg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ qua đề án 254
“Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” đã góp phần giữ
ổn định hệ thống, từng bước lành mạnh hóa tình trạng tài chính, xử lý nợ xấu,
đảm bảo khả năng thanh toán, xử lý tình trạng sở hữu chéo, minh bạch hóa hoạt
động tín dụng.
Bảng 1. Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2010-2015
2010

2011

2012

2013

2015

NHTM Nhà nước

5

5

5

5

4

Ngân hàng chính sách


1

1

1

1

1

37

37

34

33

33

5

5

5

5

6


Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

48

53

49

53

53

Ngân hàng 100% vốn nước ngoài

5

5

5

5

6

101

100

99


102

109

NHTM cổ phần
NHTM liên doanh

Tổng số ngân hàng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Riêng năm 2015, Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào diện kiểm soát đặc biệt
và thực hiện mua lại bắt buộc với giá 0 đồng 3 NHTM (NHTM cổ phần Xây
dựng Việt Nam, NHTM Đại Dương, NHTM cổ phần Dầu khí Tồn cầu) không
thể tự tái cơ cấu. Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém đang được xem xét
đánh giá để tiếp tục xử lý. Tuy nhiên vấn đề nợ xấu vẫn còn tồn tại sẽ tiếp tục đe

555


dọa khả năng phục hồi và phát triển bền vững của hệ thống và cản trở những sự
chuẩn bị cần thiết để đương đầu với cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Do các bên tham gia TPP đồng ý đơn
giản hóa thủ tục hải quan và thủ tục tại biên giới, xoá bỏ và cắt giảm thuế quan và
các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa cơng nghiệp, xóa bỏ hoặc cắt giảm
thuế quan và các chính sách hạn chế khác về hàng hố nơng nghiệp dẫn đến các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, giầy da, thủy sản… sang
các nước thành viên TPP sẽ tăng rất mạnh. Việt Nam sẽ tiếp cận được một thị
trường - không gian kinh tế mới rộng lớn, riêng Mỹ đã là 15.000 tỷ USD, mà

không bị các rào cản như trước đây vì bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Đặc
biệt, khơng chỉ hàng hố - sản phẩm mà cả nền kinh tế VN có được giấy chứng
nhận mới bậc cao, được coi là visa (thị thực) để vào các thị trường khó tính. Tuy
nhiên các mặt hàng khác được nhập khẩu về Việt Nam có chất lượng cao, mẫu
mã đa dạng với mức giả rẻ hơn so với hiện nay sẽ thu hút khách hàng Việt và tạo
áp lực cạnh tranh rất mạnh đến nền sản xuất nội địa cịn nhiều yếu kém khi khơng
cịn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước.
Đối với lĩnh vực đầu tư. Các nước tham gia hiệp định TPP phải ban hành
các chính sách đầu tư và các biện pháp bảo hộ trên cơ sở không phân biệt đối xử,
đảm bảo nguyên tắc cơ bản trong việc bảo vệ pháp luật. Hiệp định TPP quy định
các nguyên tắc bảo hộ đầu tư cơ bản tương tự như các nguyên tắc trong các hiệp
định liên quan đến đầu tư khác, bao gồm nguyên tắc đối xử quốc gia; đối xử tối
huệ quốc; chuẩn mực ứng xử tối thiểu trong đầu tư phù hợp với các nguyên tắc
luật pháp quốc tế. Do nguồn vốn đầu tư nước ngồi FDI đóng vai trị rất quan
trọng trong phát triển đất nước, vì vậy trong giai đoạn vừa qua chính phủ Việt
Nam đã nỗ lực rất lớn để cải thiện môi trường đầu tư, từ nâng cấp cơ sở hạ tầng,
cải cách hành chính và cải thiện khuôn khổ pháp lý nhằm đơn giản hóa q trình
đầu tư, giảm thiểu sự mù mờ, và tạo ra mơi trường bình đẳng hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài so với các nhà đầu tư trong nước. Vì vậy nguồn vốn FDI đổ vào
Việt Nam chắc chắn sẽ tăng trưởng nhanh trong thời gian tới.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị độc quyền. Các nước TPP
thỏa thuận sẽ đảm bảo các doanh nghiệp nhà nước hoặc những đơn vị độc quyền
của mình không phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ
của các nước cịn lại. Các nước TPP đồng ý sẽ không tạo ra những ảnh hưởng tiêu
cực đối với lợi ích của các nước TPP khác khi cung cấp hỗ trợ phi thương mại
cho các DNNN, hay làm tổn hại đến ngành công nghiệp trong nước của thành

556



viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho DNNN sản xuất
và bán hàng hóa trên lãnh thổ nước đó. Vì vậy, TPP đã cung cấp cho Việt Nam
một động lực quan trọng để đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt
là việc cổ phần hố các doanh nghiệp này. Đồng thời Chính phủ đã thực hiện
nhiều giải pháp mở cửa cho cạnh tranh trong một số ngành trước nay được độc
quyền bởi các doanh nghiệp nhà nước (ví dụ như phân phối than, điện, và xăng
dầu); nới rộng room sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp cổ
phần hóa; và kỷ luật những cán bộ quản lý khơng đáp ứng tiến độ cổ phần hóa
được đặt ra.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Hiệp định TPP cũng góp
phần thúc đẩy sự tham gia của các DNNVV trong thương mại nhằm đảm bảo
rằng các DNNVV chia sẻ những lợi ích của TPP. DNNVV sẽ dễ dàng tiếp cận thị
trường hơn, giảm công việc giấy tờ, truy cập Internet, thuận lợi thương mại,
chuyển phát nhanh,…, nắm được các quy định của TPP có liên quan đến
DNNVV; các quy định và thủ tục liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quy định
đầu tư nước ngồi; thủ tục đăng ký kinh doanh; quy định việc làm; và thông tin
thuế. DNNVV được hỗ trợ, tư vấn xuất khẩu, và các chương trình đào tạo cho
DNNVV; chia sẻ thơng tin; tài trợ thương mại và các hoạt động khác.
Đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Hiệp định TPP thiết lập những chuẩn mực cho
các bằng sáng chế dựa trên Hiệp định WTO về các khía cạnh liên quan tới thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ và những thơng lệ quốc tế tốt nhất. Về thương hiệu,
nó giúp bảo vệ các nhãn hiệu và những biểu tượng đặc thù khác mà các doanh
nghiệp và cá nhân sử dụng cho hàng hóa của mình trên thị trường. TPP địi hỏi sự
minh bạch nhất định và các quy trình bảo vệ phù hợp liên quan đến việc bảo vệ
những chỉ dẫn địa lý mới kể cả những chỉ dẫn địa lý được công nhận hoặc được
bảo vệ thông qua các điều ước quốc tế. Việc bảo vệ này bao gồm cả việc phân
định rõ mối quan hệ giữa thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, cũng như việc bảo vệ
việc sử dụng những thuật ngữ thường dùng.
TPP cịn có những điều khoản liên quan đến dược phẩm thúc đẩy sự phát
triển các loại thuốc cứu sinh mới, cam kết liên quan đến việc bảo vệ kết quả thử

nghiệm và những dữ liệu khác đã được đệ trình để xin cấp phép lưu hành một sản
phẩm dược hoặc hóa chất nơng nghiệp mới. Vì vậy Việt Nam sẽ chịu nhiều tác
động lớn trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, chi phí cho hoạt động khám chữa bệnh
sẽ tăng mạnh.
Hiện nay vấn đề vi phạm bản quyền, xâm phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

557


còn phổ biến, hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm còn nhẹ dẫn đến các cá nhân, tổ
chức vi phạm ngày càng nhiều. Tuy nhiên khi Việt Nam tham gia TPP thì sẽ phải
có hệ thống chế tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện
pháp tạm thời, các biện phảp quản lý biên giới, các thủ tục và chế tài hình sự đối
với tội giả mạo thương hiệu mang tính thương mại và vi phạm bản quyền hoặc
các quyền liên quan, ngăn ngừa việc lạm dụng các bí mật thương mại, xây dựng
các thủ tục và xử phạt hình sự đối với tội phạm trộm cắp bí mật thương mại, bao
gồm cả trộm cắp qua mạng hoặc quay phim. Việc thực thi các quy định như vậy
sẽ làm tăng gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nơi mà việc sử dụng các phần mềm vi phạm bản quyền vẫn
còn phổ biến. Trong dài hạn công tác xử lý những vi phạm sở hữu trí tuệ sẽ giúp
các doanh nghiệp có động lực mạnh mẽ hơn để đầu tư vào các ngành công nghiệp
sáng tạo mà Việt Nam đang tìm cách phát triển.
Đối với vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Khi tham gia TPP thì
Việt Nam cần chú trọng đến cơng tác bảo vệ và bảo tồn môi trường nhiều hơn
nữa, bao gồm hợp tác trong việc giải quyết các thách thức về môi trường như ô
nhiễm môi trường, buôn bán trái phép động vật hoang dã, khai thác gỗ bất hợp
pháp và trong việc bảo vệ môi trường biển, không đi ngược lại với hệ thống pháp
luật về môi trường để khuyến khích thương mại và đầu tư.
Đối với mơi trường kinh doanh và cạnh tranh. Việt Nam là nước kém phát
triển nhất trong số các quốc gia ký kết TPP vì vậy có thể phải đối mặt với thách

thức trong việc thực hiện Hiệp định và trong việc tận dụng các cơ hội mà Hiệp
định tạo ra. TPP có thể tăng cường khả năng cạnh tranh, bao gồm tăng cường sự
tham gia của doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi cung
ứng khu vực, các doanh nghiệp này sẽ chịu áp lực lớn trong cuộc đua cải cách,
nâng cao năng suất và tính cạnh tranh. Việt Nam cũng cần đảm bảo một khuôn
khổ cạnh tranh công bằng, duy trì các chế độ pháp lý ngăn cấm hành vi kinh
doanh phi cạnh tranh cũng như các hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo làm
tổn hại đến người tiêu dùng.
Đối với vấn đề thể chế, chính sách, luật pháp và phòng chống tham nhũng.
Hiệp định TPP cũng yêu cầu thống nhất về quy định luật pháp sẽ giúp đảm bảo
một môi trường pháp lý mở, công bằng, và có thể dự đốn cho các doanh nghiệp
hoạt động trong thị trường TPP bằng cách khuyến khích sự minh bạch, cơng
bằng, và phối hợp giữa các chính phủ để đạt được một cách tiếp cận quản lý chặt
chẽ. TPP thúc đẩy cơ chế tham vấn liên ngành có hiệu quả và sự phối hợp của các

558


cơ quan, cơng chúng có thể tiếp cận thơng tin về các biện pháp quản lý mới. TPP
cũng khuyến khích các nước cung cấp một thông báo công khai hàng năm về tất
cả các biện pháp quản lý dự kiến sẽ áp dụng. Việt Nam cũng cần minh bạch hơn
trong cơng tác phịng chống tham nhũng nhằm tăng cường quản trị tốt và giải
quyết những tác động tiêu cực của việc hối lộ và tham nhũng có thể gây nên cho
nền kinh tế. Vì vậy Việt Nam phải đảm bảo rằng các luật, quy định và các quyết
định hành chính áp dụng chung đối với bất kỳ vấn đề nào quy định trong TPP
được cơng bố cơng khai. Ngồi ra, cần tăng cường công tác đào tạo công chức,
thiết lập các quy tắc hoặc các tiêu chuẩn về ứng xử của công chức, thực hiện các
bước để ngăn chặn việc tặng quà, khuyến khích việc báo cáo các hành vi tham
nhũng và quy định các biện pháp kỷ luật hoặc các biện pháp khác đối với công
chức tham gia vào các hành vi tham nhũng.

Đối với vấn đề lao động. Việt Nam là thành viên của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) do đó các quy định về lao động của TPP dễ dàng được thơng qua,
đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể, xóa bỏ lao động cưỡng
bức, xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, và
loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp, quy định mức lương tối
thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Vì vậy Việt Nam cần
nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện quyền lợi của người lao động nhằm phù hợp
với các quy định này. Việt Nam sẽ không cịn duy trì lợi thế về lao động giá rẻ
vì nhu cầu về lao động có kỹ năng tăng lên và có sự dịch chuyển lao động giữa
các nước.
Đối với lĩnh vực viễn thông và thương mại điện tử. Các nhà cung cấp dịch
vụ di động sẽ chịu nhiều tác động cạnh tranh mạnh hơn nữa từ các thỏa thuận
trong hiệp định TPP. Các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn ở Việt Nam sẽ
phải cung cấp các dịch vụ kết nối, cho thuê dây dẫn truyền của nhau, cho thuê
chỗ đặt máy chủ và cho phép sử dụng cột phát tín hiệu và các trang thiết bị khác.
Hiệp định TPP cũng yêu cầu các nuớc cam kết bảo đảm luồng thơng tin và
dữ liệu mang tính tồn cầu được lưu hành một cách tự do giúp phát triển nền kinh
tế Internet và kỹ thuật số đáp ứng các mục tiêu chính sách cơng liên quan như
chính sách bảo mật thơng tin cá nhân. Do đó các nội dung “nhạy cảm” theo quy
định pháp luật của Việt Nam cần có những điều chỉnh như thế nào để khơng trái
với những quy định của TPP, tránh bị kiện ra tòa án và phải bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra TPP cũng góp phần bảo vệ người tiêu dùng, các tin nhắn rác, trang web
giả mạo, các gian lận trên mạng internet sẽ bị xử lý mạnh hơn. Thông tin cá nhân,

559


người tiêu dùng tham gia thương mại qua mạng sẽ được bảo vệ, giảm khả năng
mua bán thông tin cá nhân như hiện nay.
Đối với vấn đề phát triển và cơng bằng xã hội. TPP sẽ là một mơ hình cao

cấp cho thương mại và hội nhập kinh tế, và trở nên phồn thịnh hơn với thị trường
mạnh mẽ. Ba lĩnh vực cụ thể được xem xét cho công việc hợp tác một khi TPP có
hiệu lực đối với mỗi nước: (1) tăng trưởng kinh tế trên diện rộng, bao gồm phát
triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ;
(2) phụ nữ và việc tăng trưởng kinh tế, bao gồm cả việc giúp phụ nữ nâng cao
năng lực và kỹ năng, tăng cường tiếp cận của phụ nữ với các thị trường, đạt được
cơng nghệ và tài chính, thiết lập mạng lưới lãnh đạo nữ, và xác định các thông lệ
tốt nhất trong sự linh hoạt tại nơi làm việc; và (3) giáo dục, khoa học và công
nghệ, nghiên cứu và đổi mới.
3. Một số giải pháp đối với ngành ngân hàng Việt Nam nhằm thích
ứng với TPP
Khi hiệp định TPP có hiệu lực thì các thế mạnh hiện có của các ngân hàng
Việt Nam về môi trường pháp lý, am hiểu thị trường, môi trường kinh doanh,
mạng lưới địa bàn sẽ dần thu hẹp và mất đi, trong khi khoảng cách với các ngân
hàng nước ngồi vẫn cịn q lớn ở các lĩnh vực như tiềm lực tài chính, chất
lượng tài sản, danh mục sản phẩm dịch vụ, cơ cấu tổ chức, trình độ quản lý điều
hành, hệ thống cơng nghệ… Do đó, một số giải pháp đối với ngành ngân hàng
Việt Nam nhằm thích ứng với TPP trong giai đoạn tới như sau:
- Xây dựng một môi trường pháp lý ngân hàng trong nước hấp dẫn, ổn định
với các cơ chế chính sách nhất quán để tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ
cho các hoạt động kinh doanh giúp tất cả các ngân hàng (trong nước và nước
ngoài) phát triển. Một khn khổ đảm bảo an tồn, quản trị kinh doanh, giám sát
phù hợp và các chính sách khuyến khích thị trường là yếu tố quan trọng để hoạt
động ngân hàng đạt kết quả tốt trong dài hạn.
- Nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị, năng lực hoạt động của
ngành ngân hàng Việt Nam:
Đối với ngân hàng thương mại Nhà nước và các ngân hàng thương mại có
vốn Nhà nước chi phối:
Tiếp tục mở rộng quy mơ, nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động,
tính chuyên nghiệp, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thông lệ

quốc tế, đảm bảo vai trò chủ đạo đối với thị trường trong nước.
Đi tiên phong trong việc đầu tư phát triển các ngành nghề, lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế như nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ…
560


Đa dạng hóa cổ đơng, giảm dần tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước, sở hữu Nhà
nước chi phối trong các ngân hàng cần được nắm giữ ở mức phù hợp sao cho
không ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, nếu các ngân
hàng có sở hữu Nhà nước chi phối thì các ngân hàng này cần phải có khả năng
hoạt động như một pháp nhân độc lập.
Tích cực mở rộng các nguồn lực tài chính và nâng cao năng lực quản trị
ngân hàng thông qua hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức nước ngoài
theo quy định của pháp luật.
Tiến tới niêm yết cổ phần trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Từng bước vươn ra hoạt động ở thị trường khu vực và thế giới.
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần:
Đẩy mạnh các hoạt động sát nhập, hợp nhất, mua lại ngân hàng, thu hút các
đối tác chiến lược nước ngoài có uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều
hành ngân hàng thương mại Việt Nam.
Phát triển nhanh về quy mơ, hoạt động tài chính và có trình độ quản trị,
công nghệ tiên tiến.
Phát triển theo hướng chuyên môn hóa, lựa chọn phân khúc thị trường để
phát huy thế mạnh riêng của từng ngân hàng.
Một số NHTMCP có hiện diện thương mại tại các thị trường quốc tế, có
quy mơ và năng lực cạnh tranh ở mức trung bình khu vực Đơng Nam Á.
Từng bước minh bạch hóa hoạt động và áp dụng các chuẩn mực, thông lệ
quốc tế.
Kết luận

TPP là một cột mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Hiệp định được kỳ vọng là sẽ giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng
trưởng GDP lớn hơn, mở rộng xuất khẩu, và thu hút nhiều đầu tư nước ngoài hơn,
đồng thời đóng góp một phần quan trọng đối với việc mở rộng thị trường dịch vụ
tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng tại Việt Nam. Tuy nhiên, do là
thành viên kém phát triển nhất của TPP, các ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều
hạn chế về chất lượng dịch vụ, khả năng quản trị, hạn chế về vốn, công nghệ.
Điều này đặt ra nhiều thách thức cần được giải quyết để cải thiện khả năng cạnh
tranh và tối đa hóa lợi ích tiềm năng mà hiệp định TPP mang lại cho nền kinh tế
Việt Nam nói chung cũng như ngành ngân hàng nói riêng.

561


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bloomberg (2015), The Biggest Winner From TPP Trade Deal May Be
Vietnam.
2. Bộ Cơng Thương (2015), Tồn văn Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương.
3. Hồng Văn Châu (2014), Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương-TPP và vấn đề tham gia của Việt Nam, NXB Bách
Khoa, Hà Nội.
4. Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2014), Hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam - kết quả sau 2 năm tái cấu trúc, tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, 3/2014.
5. Nguyễn Quốc Trung, Nguyễn Văn Sang (2013), Các yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tạp
chí Cơng nghệ Ngân hàng số 85 tháng 4/2013.
6. Wall Street Journal (2015), Why You May Soon See More Goods
Labeled ‘Made in Vietnam’.

7. />
562



×