Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hoạt động bang giao thời chúa Nguyễn (1558-1777)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.65 KB, 8 trang )

HOẠT ĐỘNG BANG GIAO THỜI CHÚA NGUYỄN
(1558-1777)
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Từ giữa thế kỷ XVI, cùng với quá trình xác lập quyền lực ở vùng đất phía
nam dãy “Hồng Sơn”, chính quyền chúa Nguyễn đã thực thi chính sách đối ngoại rộng
mở với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh việc duy trì quan hệ bang
giao truyền thống với Trung Quốc và các nước Đơng Nam Á láng giềng, chính quyền Đàng
Trong cũng mở rộng quan hệ bang giao trên cả hai khía cạnh thương mại và truyền giáo đối
với các quốc gia phương Tây. Do đó, trong phạm vi của bài nghiên cứu, chúng tơi tập trung
phân tích những nhận thức và hành động của chúa Nguyễn trong việc bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia cũng như xác lập quyền lực thống trị của dòng họ ở Đàng
Trong trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều biến động sâu sắc. Bài viết đặc biệt tập
trung vào nghiên cứu phản ứng của chính quyền Đàng Trong trong quan hệ bang giao với
Trung Quốc, các nước Đông Nam Á (chủ yếu là Xiêm, Vạn Tượng và Chân Lạp) và các
quốc gia phương Tây cho đến nửa cuối thế kỷ XVIII. Để thực hiện mục tiêu trên, bài nghiên
cứu sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, logic kết hợp với phương pháp hệ thống cấu trúc
dựa trên các nguồn tài liệu liên quan.
Từ khóa: Đàng Trong, nhà Thanh, Chân Lạp, Xiêm, chúa Nguyễn.
1. Mở đầu
Ở châu Âu, thời kỳ cận đại mở ra với sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản và quá trình
bành trướng quyền lực, tìm kiếm thuộc địa của các cường quốc thực dân. Trước những biến
chuyển mạnh mẽ của tình hình thế giới, lựa chọn “đóng cửa” hay “mở cửa” đã trở thành vấn
đề chung và là vấn đề sống còn, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của các quốc gia ở
châu Á lúc bấy giờ. Tuy nhiên, phần lớn các vương triều phong kiến ở châu Á vẫn bảo lưu
kiểu thức quan hệ đối ngoại truyền thống và chọn lựa đường lối thiếu tính chủ động khi đối
diện với nguy cơ xâm nhập của thực dân phương Tây. Cũng như hầu hết quốc gia Đông
Nam Á khác, Việt Nam vừa phải duy trì mối quan hệ bang giao truyền thống với Trung
Quốc và Đông Nam Á, vừa phải đứng trước sự lựa chọn đầy nghiệp ngã: “đóng cửa” hay
“mở cửa” khi tiếp xúc với các cường quốc phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh,
Pháp.... Những gì diễn ra của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đầy biến động ấy đã cho hậu
thế câu trả lời về tính hợp lý trong hoạt động bang giao quốc tế dưới thời chúa Nguyễn.


2. Nội dung
2.1. Hoạt động bang giao của chính quyền chúa Nguyễn với Trung Quốc
Thuật ngữ “bang giao” được bắt đầu sử dụng lần đầu tiên vào thời Tây Sơn, đến triều
Nguyễn thì hồn tồn thơng dụng. Bang giao chỉ có nghĩa là quan hệ ngoại giao thuần túy
giữa nước này và nước khác, không tồn tại quan niệm trên dưới. Khơng chỉ đối với quan hệ
của mình với nhà Thanh, nhà Nguyễn cũng nhìn quan hệ giữa các triều đại Việt Nam trước
đây với Trung Quốc là “bang giao” [7; tr.13] và nó được xem là quan hệ ngoại giao quan
trọng nhất trong lịch sử tồn tại của các triều đại phong kiến Việt Nam.
1. TS., Khoa Kinh tế - Du lịch, Trường Đại học Quảng Nam

66


NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, trong các năm 1701 - 1702 đã cử sứ thần Hoàng
Thần và Hưng Triệt mang quốc thư và cống phẩm sang nhà Thanh xin chính thức giao hảo.
Tuy nhiên, việc ấy khơng thành do đình thần nhà Thanh lo sợ sự lớn mạnh của Đàng Trong
sẽ dẫn đến những hiểm họa lớn cho nhà Thanh ở phía Nam. Mặc dù quan hệ bang giao chính
thức khơng được xác lập nhưng chính quyền Đàng Trong vẫn thể hiện thiện chí trong quan
hệ với nhà Thanh. Năm 1756, chúa Nguyễn đã bắt giữ và đưa một nhóm Hoa kiều khoảng
300 người do Lý Văn Quang, Hà Huy, Tạ Tú cầm đầu nổi loạn ở dinh Trấn Biên về Trung
Quốc. Cũng nhân sự kiện này chúa Nguyễn đã gửi cho Tổng đốc Quảng Đông một bức công
văn đề cập chi tiết đến sự kiện trên cũng như lượng vật phẩm biếu cho chính quyền Trung
Quốc. [2; tr.170-172]. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Kim dựa trên tư liệu
từ Đại Nam thực lục tiền biên thì năm 1709, Nguyễn Phúc Chu (cq: 1691-1725) đã cho đúc
một ấn riêng khắc “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo”. Đến năm Vĩnh Thịnh
thứ mười (1714), Minh Vương Phúc Chu đã cho sửa sang và mở rộng thêm chùa Thiên Mụ
rồi “tự làm bài minh khắc chng, tự xưng là Đại Việt quốc vương”. Như vậy có thể nhận
định, trong quan hệ với Trung Hoa, các chúa Nguyễn đã tự khẳng định quyền lực thực tế
của mình ở Đàng Trong như một thực thể kinh tế - xã hội và chính trị độc lập. Điều quan

trọng là, quyền lực thực tế đó đã được các quốc gia có quan hệ với Đàng Trong xác nhận và
tôn trọng. [8]
2.2. Hoạt động bang giao của chính quyền chúa Nguyễn với các quốc gia Đơng
Nam Á
Cùng với q trình trấn thủ Thuận Hóa, chúa Tiên Nguyễn Hồng (1525 - 1613) đã
đặt cơ sở cho quá trình mở rộng lãnh thổ về phương Nam một cách mạnh mẽ và lâu dài
nhất2. Với sự liên đới về mặt biên giới phía Nam, Vạn Tượng, Chân Lạp và Xiêm đóng vai
trị chi phối quan hệ bang giao quốc tế của các chúa Nguyễn thời kỳ này.
Các sử liệu cho thấy quan hệ khá hòa hảo và bình đẳng giữa chính quyền Đàng Trong
với các nước láng giềng phía Nam. Với đường lối đối ngoại cởi mở nhưng đầy tham vọng,
các chúa Nguyễn đã không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để mở rộng quyền lực của mình ở đồng
bằng sơng Cửu Long. Nhận thấy sự suy yếu của Chân Lạp do quá trình bành trướng của
Xiêm, chúa Nguyễn cũng dần từng bước xác lập ảnh hưởng ở Nam Bộ thông qua những
bước đi hết sức linh hoạt nhưng có hiệu quả cao. Sự kiện đánh dấu sự gắn kết mật thiết giữa
Chân Lạp và chính quyền Đàng Trong là việc chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563 - 1635)
gả con gái là công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chey Chetta II (1573 - 1628). Cuộc hơn
nhân chính trị này đã tạo nhiều cơ hội cho cư dân phía Bắc đi về phía Nam khai thác những
vùng đất còn hoang vu để sinh cơ lập nghiệp. Tận dụng điều kiện thuận lợi đó, trong chuyến
đi của đoàn sứ bộ đến Chân Lạp vào năm 1623, “chúa Nguyễn cũng đã đề nghị vua Chân
Lạp cho lập một đồn thuế ở Prei Kor (tức vùng Sài Gịn) và lập một dinh điền ở Mơ Xồi
(khu vực Bà Rịa ngày nay) [13]. Nhờ sự vận động của Hoàng hậu Ngọc Vạn, nên cả hai
đề nghị của chúa Nguyễn đều được vua Chân Lạp chấp thuận. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc duy trì mối quan hệ với triều đình Chân Lạp trong việc mở rộng và tạo điều
2. Trong hai thế kỷ XVII-XVIII, các chúa Nguyễn từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến chúa
Võ Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), cương vực của nước ta đã được mở rộng từ Quảng Nam đến Châu
Đốc - Hà Tiên. Các triều đại trước chúa Nguyễn phải mất sáu thế kỷ để mở rộng 42.229 km2 từ Nghệ
Tĩnh đến Quảng Nam, trong khi các chúa Nguyễn mất không đầy 2 thế kỷ để mở được 136.131 km2 [6].

67



HOẠT ĐỘNG BANG GIAO THỜI CHÚA NGUYỄN (1558-1777)
kiện thuận lợi cho quá trình định cư của người Việt ở Nam Bộ, chúa Nguyễn đã không do
dự trong việc cạnh tranh ảnh hưởng với Xiêm. Bằng tiềm lực quân sự và kinh tế, lực lượng
chúa Nguyễn đã giành phần lớn thắng lợi trong các cuộc can thiệp loại trừ ảnh hưởng của
các thế lực thân Xiêm trong triều đình Chân Lạp. Đặc biệt, từ sau sự kiện giúp hồng thân Sơ
lên ngôi vua Chân Lạp với tước hiệu BatomReachea (1660 - 1672), thì quan hệ triều cống
được chính thức xác lập giữa vương triều này với chính quyền Đàng Trong. Để đẩy nhanh
q trình khai phá đồng bằng sơng Cửu Long, chúa Nguyễn đã tận dụng sự thuần phục của
các nhóm di thần nhà Minh, cho phép họ định cư, buôn bán tại khu vực này3. Đến năm 1698,
chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở
đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy, bằng quan hệ bang giao kết hợp
với việc nắm bắt chính xác tình hình nội trị của Chân Lạp, các chúa Nguyễn khơng những
đã xác lập ảnh hưởng của mình ở Chân Lạp mà còn mở rộng lãnh thổ cương vực quốc gia
ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với Vạn Tượng thì quan hệ khá yên bình theo thể chế triều cống khi chúa Nguyễn
cho đặt dinh Ai Lao ở Cam Lộ (Quảng Trị).
Trong khi đó, quan hệ giữa chính quyền chúa Nguyễn với Xiêm không những bắt
đầu khá muộn4 mà chủ yếu còn là mâu thuẫn trong việc tranh giành bá quyền ở Chân Lạp.
Nhận thức rõ âm mưu bành trướng của Xiêm đối với phần lãnh thổ Nam Bộ, trong các văn
thư ngoại giao, chúa Nguyễn vừa tỏ ra mềm dẻo trong việc gợi lại truyền thống quan hệ hữu
nghị giữa hai nước, vừa kiên quyết chống lại hành vi xâm phạm chủ quyền và thái độ ngạo
mạn của chính quyền Ayutthaya [8].
2.3. Hoạt động bang giao của chính quyền chúa Nguyễn với với các quốc gia
phương Tây
Xét riêng về khía cạnh nhận thức và hành động chiến lược của các vương triều phong
kiến Việt Nam trong quan hệ với phương Tây thì giai đoạn chúa Nguyễn và triều Nguyễn có
sự khác biệt rất lớn về mặt bản chất.
Là một vương triều được tạo dựng nên trên vùng đất chứa đựng nhiều lớp trầm tích
văn hóa lịch sử, cũng là địa bàn sinh thành, phát triển và là thánh địa của các vương quốc

(mandala) Champa với “những trung tâm văn hố có q khứ huy hồng”. Trên vùng đất
ấy đã từng diễn ra nhiều biến động chính trị, nhiều cuộc giao tranh giữa các thế lực khu vực
đồng thời là nơi hợp tụ của nhiều lớp người, nhiều thành phần xã hội phức tạp [8]. Vậy nên
từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho đến các vị chúa sau này đã duy trì một đường lối đối ngoại
cởi mở, khác biệt rõ nét với chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc nâng cao sức mạnh kinh tế, làm địn bẩy ổn định tình hình nội trị và củng
cố sức mạnh quân sự, chúa Nguyễn đã thực thi chính sách mở cửa, kêu gọi thương nhân
từ khắp nơi đến buôn bán và đặc biệt tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các thương nhân
phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh….Mặc dù quan hệ lúc này không phải mang
3.Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn,
quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sơng Tiền Giang (Mỹ
Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở
mang vùng Biên Hòa - Đồng Nai. [5]
4. Năm 1750, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát sai sứ mang thư sang trách cứ triều đình Xiêm can thiệp
vấn đề nội bộ Chân Lạp là sự kiện bang giao chính thức đầu tiên giữa hai nước.

68


NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
tính chính thống giữa một quốc gia này với một quốc gia khác nhưng về thực chất nó thể
hiện tầm nhìn và việc thực hành đường lối đối ngoại rộng mở của chúa Nguyễn với tư cách
là một phần lãnh thổ độc lập có chính quyền, thể chế và đặc trưng kinh tế riêng biệt. Có thể
thấy, “ngoại thương cùng nền chính trị trong nước đã kết hợp để tạo nên sức mạnh cho một
thương cảng ở vùng biên viễn mà người Việt mới đến định cư đồng thời tạo nên thế ổn định
cho vương quốc vừa được thiết lập ở vùng “biên giới” phương Nam hãy còn chưa thực phát
triển” [8]. Trong số những quốc gia phương Tây đến Việt Nam, Bồ Đào Nha là thế lực đến
Đàng Trong sớm nhất và cũng nhận được sự ưu ái nhiều nhất của chúa Nguyễn vì các chúa
muốn tận dụng ưu thế về vũ khí (đặc biệt là đại bác) của người Bồ để phục vụ cho cuộc chiến
tranh với chúa Trịnh. Năm 1613, thương nhân Bồ Đào Nha Ferdinand Costa đến yết kiến

chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) ở Dinh Cát (Quảng Trị). Chúa Sãi mong muốn thông qua
Costa vận động người Bồ Đào Nha đến buôn bán tại phủ Chúa [12; tr.39]. Với sự cho phép
của chúa Nguyễn, năm 1615, các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha bắt đầu đến Hội An với
mục đích: “chăm sóc đời sống của tín đồ Nhật Bản, những người hàng năm đều từ Nhật Bản
đến Cochin-china để buôn bán, và nhiều người trong số họ sẽ trú đông ở đây trong một hay
nhiều năm để thiết lập quan hệ giao thương tốt hơn với người Cochin-china” [11]. Trong hai
thập niên đầu thế kỷ XVII, quan hệ thương mại giữa chính quyền chúa Nguyễn và thương
nhân Bồ Đào Nha đã được xác lập nhưng không thường xuyên. Năm 1622, người Bồ Đào
Nha mang “đến Đàng Trong tiền để mua lại hàng hóa, người Bồ đã khơng mua hàng, nhưng
mà đổi lại đồng bạc (d’argent), được sử dụngnhư chính nó là một loại hàng hóa có giá trị,
đơi khi nhiều hơn, đơi khi ít hơn, tạo nên sự phong phú tuyệt vời có khi hơn cả hàng hóa
bằng lụa” [4; tr.237]. Mặc dù, mối quan hệ này không được xác lập một cách chính thức
giữa chính quyền Estado da India5 với Đàng Trong nhưng nó lại có tác động quan trọng đến
tình hình chính trị - xã hội của Việt Nam ở các thế kỷ sau bởi sự xuất hiện của Thiên Chúa
giáo. Do những khác biệt về nền tảng chính trị - xã hội cũng như ý thức hệ nên mặc dù chúa
Nguyễn có cho phép các linh mục Bồ Đào Nha được tự do truyền đạo nhưng vẫn kiếm soát
một cách chặt chẽ và đã nhiều lần ra các sắc lệnh trục xuất giáo sĩ khỏi Đàng Trong6.
Ngay sau khi Bồ Đào Nha đến Đàng Trong (Cochinchina), Hà Lan cũng nhanh chóng
xâm nhập vào vùng đất này. Cùng với sức mạnh của hệ thống tàu biển, sự ra đời của cơng ty
Đơng Ấn (VOC) đã tạo cho Hà Lan có một vị thế mới trên thương trường và chính trường
thế giới. Trong thực tế, cuộc tiếp xúc Hà Lan - Việt đầu tiên đã diễn ra từ trước khi thành
lập VOC7. Năm 1601, trên đường từ Macao về Đông Nam Á, một đoàn thương thuyền Hà
Lan gồm 6 chiếc dưới sự chỉ huy của đô đốc Jacob Van Neck đã buông neo nghỉ ngơi tại
5.Thuật ngữ Estado da India - Liên bang Ấn Độ được dùng để chỉ tất cả các thành phố, pháo đài và các
vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha đã kiểm soát được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên, đôi khi thuật
ngữ Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả các vùng ven biển và các
đảo thuộc phía Đơng mũi Hảo Vọng giới hạn từ cực đông nam châu Phi đến vùng đất thấp ở cửa sơng
Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực không nằm trong phạm vi quản lý của cơ quan này
(ví dụ như Macao - Trung Quốc).
6.Dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1615 - 1635) đã ban hành sắc lệnh trục xuất các giáo sĩ

vào các năm1617, 1625 (ban bố tại Quảng Nam năm 1629), 1629, 1630, 1635. Dưới thời Hiền vương
Nguyễn Phúc Tần (1648 -1687) đã tiến hành cấm đạo trong các năm 1558, 1661, 1664, 1665. Dưới thời
Ngãi vương Nguyễn Phúc Trần (1687 - 1691) kiên quyết cấm đạo thông qua sắc lệnh năm 1690.
7. Tên viết tắt của Công ty Đông Ấn Hà Lan (Vereenigde Oostindische Compagnie) được thành lập vào
năm 1602

69


HOẠT ĐỘNG BANG GIAO THỜI CHÚA NGUYỄN (1558-1777)
một vịnh nhỏ thuộc thuộc vùng duyên hải Trung bộ để tìm nước ngọt. Sợ hãi trước sự xuất
hiện của những người phương Tây. Cư dân địa phương bỏ chạy sâu vào đất liền. Không
lâu sau sự kiện trên, hai tàu Hà Lan khác là Leiden và Haarlem - trên đường từ Đông Nam
Á đến Trung Quốc - lại dừng chân ở một vùng biển khác thuộc Nam Trung bộ nước ta. Tại
đây 23 người Hà Lan đổ bộ lên bờ đã bị người địa phương sát hại [14; tr.24]. Thiệt hại này
không làm giảm quyết tâm buôn bán với Đàng Trong của người Hà Lan. Hai thương nhân
Jeronimus Wonderaer và Albert Cornelis Ryull tiếp tục được phái đến Hội An thương lượng
việc đặt quan hệ buôn bán. Họ được chúa Nguyễn tiếp đón thân thiện tại một dinh thự ở
Sinoa8- phía bắc Hội An [9; tr.20]. Tuy nhiên, chuyến viếng thăm không thu được kết quả gì
nhiều ngoại trừ những thỏa mãn tị mị về tín ngưỡng và phong tục tập qn, chẳng hạn như
chuyện ăn bằng đũa. Suốt 5 tháng ròng, họ đã cố gắng để thu mua được lụa và hạt tiêu nhưng
thành cơng là khá ít ỏi. Quan hệ giữa thương nhân Hà Lan và chính quyền của Nguyễn gặp
phải khá nhiều khó khăn do thái độ cứng nhắc và hiếu chiến của người Hà Lan. Năm 1617,
công ty Đơng Ấn Hà Lan có cơ hội để phá vỡ rào cản trong quan hệ với Hội An. Trong năm
này, thương điếm Hà Lan ở Patani (Malaysia) và Ayutthaya (Thailand) nhận được thư của
quan lại cao cấp Đàng Trong thay mặt chúa Nguyễn mời người Hà Lan đến Hội An buôn
bán. Hội đồng thương điếm Patani chấp nhận thư mời và cử hai tàu sang Hội An. Tuy nhiên
cả hai tàu trên đã phớt lờ chỉ thị của thương điếm Patani để đi thẳng đến Hirado (Nhật Bản)
mà không dừng lại tại Hội An. Một vài năm sau, hai tàu khác lại được chỉ thị sang buôn bán
ở Hội An. Lo ngại những rủi ro có thể xảy ra ở xứ Đàng Trong, các thủy thủ Hà Lan lại tìm

cách lãng tránh Hội An. Thêm một lần nữa cơ hội để công ty Đông Ấn Hà Lan thiết lập quan
hệ với Hội An bị bỏ lỡ. Trong thập niên 20 của thế kỷ XVII, công ty không thực hiện nỗ lực
đáng kể nào để thâm nhập vào Hội An. Nguyên do chủ yếu là công ty đang bận rộn với việc
gây sức ép buộc Minh triều mở cửa để công ty vào buôn bán ở Trung Quốc đại lục. Điều này
cho thấy, nếu so sánh với Bồ Đào Nha, quá trình xác lập quan hệ giữa cơng ty VOC Hà Lan
với Hội An diễn ra vơ cùng khó khăn, tồn tại nhiều mâu thuẫn và hiểu lầm9.
Từ đầu thế kỷ XVII, theo bước chân người Hà Lan, sau khi lập Công ty Đông Ấn
Anh (EIC)10, người Anh mong muốn thiết lập một thương điếm ở bán đảo Đông Dương để
làm trung gian kết nối tuyến thương mại nội Á. Nỗ lực đầu tiên của người Anh trong việc
thiết lập quan hệ thương mại với Đàng Trong diễn ra vào năm 1613. Tempest Peacock và
Walter Cawarden là hai thương gia được Richard Cocks - người cầm đầu đại lý của công
ty Đông Ấn Anh tại Hirado (Nhật Bản) - phái tới Đàng Trong. Hai thương gia này đến Hội
8. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng địa điểm này là Dinh trấn Thanh Chiêm – hiện tọa lạc tại xã Điện
Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
9.Vào ngày 7/7/1643, trong khi hạm đội Hà Lan do Pieter Baeck chỉ huy đi ngang qua vùng biển Cù Lao
Chàm, họ đã đụng độ với lực lượng thủy binh chúa Nguyễn do Nguyễn Phúc Tần chỉ huy. Có thể nói,
cuộc chiến giữa thủy quân chúa Nguyễn với tàu chiến Hà Lan trong năm 1643 là cuộc đụng độ đầu tiên
của quân Đại Việt với tàu thuyền đến từ phương Tây cũng là cuộc đụng độ đánh dấu sự kết thúc hoàn
toàn quan hệ giữa Hà Lan với chính quyền chúa Nguyễn Đàng Trong.
10. EIC là tên viết tắt của English East India Company. Ngày 31/12/1600, Nữ hoàng Elizabeth I của Anh
đã cấp một bản điều lệ chính thức cho các thương nhân London giao dịch ở Đông Ấn với hy vọng phá vỡ
sự độc quyền của Hà Lan trong buôn bán gia vị tại khu vực mà ngày nay là Indonesia. Từ năm 1600 đến
năm 1873, Cơng ty Đơng Ấn trở thành tập đồn hùng mạnh nhất mà thế giới từng biết đến, họ củng cố sức
mạnh bằng quân đội riêng, lãnh thổ riêng và gần như nắm giữ tồn bộ con đường thơng thương của một
sản phẩm hiện được coi là tinh túy của Anh.

70


NGUYỄN THỊ VĨNH LINH

An (Faifo) trong một chuyến mạo hiểm thương mại trên một chiếc thuyền của người Nhật.
Họ mang theo một bức thư của vua James I (1566-1625) và lễ vật trình lên chúa Nguyễn
xin đặt quan hệ giao thương [10; tr.111-112]. Phái đồn của Peacock được đón tiếp tử tế
nhưng bị giới thương nhân tại Hội An cạnh tranh, hành hung,… nên người Anh không dám
đưa thuyền đến buôn bán với Hội An. Năm 1617, Richard Cocks lại cử Edmond Sayer và
William Adam đến Faifo. Tuy nhiên, chuyến đi của cả hai thương nhân người Anh này đều
không thu được kết quả.
Đối với các thế lực thương nhân này chúa Nguyễn thực thi chính sách cân bằng quyền
lực, tạo điều kiện cho mọi thế lực thương nhân. “Phương châm của người Đàng Trong là
không bao giờ tỏ ra sợ hãi một nước nào trên thế giới. Thật là hồn tồn trái ngược với
vua Trung Hoa. Ơng này sợ tất cả, đóng cửa khơng cho người ngoại quốc vào và không
cho phép buôn bán trong nước”[3, tr. 92-93]. Với chính sách thương mại rộng mở, các chúa
Nguyễn quy định cho tất cả các thuyền bn nước ngồi muốn đến Đàng Trong đều phải
vào Hội An làm thủ tục với cơ quan ngoại thương đóng ở đây. Để kiểm tra, đánh thuế thuyền
buôn ngoại quốc, Chúa Nguyễn đặt cơ quan gọi là Tàu ti ở Hội An. Chính sự ràng buộc này
khiến Hội An thu hút khách buôn trội nhất. Chúa Nguyễn cịn tổ chức tình báo nhân dân để
đảm bảo trật tự cho thương trường Hội An. “Nhà Nguyễn đặt các xã Minh Hương, Hội An,
Lao Chiêm, làng Câu giữ việc thám báo” [1; tr.81]. Các tàu vào cảng, phải có lễ báo tin do
thuyền trưởng đệ lên chúa Nguyễn và các cơ quan cao cấp trong triều. Lúc tàu ra về, theo
thể lệ nhiều hay ít, chủ tàu được chúa Nguyễn cấp phát bạc, lụa, gạo, tiền có định chuẩn.
Đối với thương nhân Hà Lan, Anh, họ sử dụng thương điếm tại Hội An làm nơi thu
mua và chứa hàng hóa trong mùa mưa; và đến mùa mậu dịch, họ sẽ đến để chuyên chở
chúng về châu Âu hoặc phân phối đến Trung Quốc, Nhật Bản. Đối với thương nhân Bồ
Đào Nha, do không lập thương điếm nên họ tiến hành buôn bán ngay trên khoang thuyền
hoặc thuê một “khách sạn” để cư trú tạm thời trong mùa mậu dịch. Đôi khi, họ để lại Hội An
các viên “thư ký” tàu buôn để làm việc với tầng lớp mại biện người Trung Hoa (10 người),
người Nhật nhằm chuẩn bị cho việc thu mua hàng hóa trong mùa mậu dịch sau. Cùng với
việc sử dụng mại biện, thương nhân nước ngoài cũng phải đặt tiền ứng trước (khoảng 1/3
đến ½ tổng giá trị hàng hóa) để lấy lịng tin. Việc đặt hàng ứng trước này thường được thực
hiện đối với chúa hoặc quan lại và cả với người sản xuất tơ, đường mía với những mẫu hàng,

giá hàng theo quy định được thỏa thuận trước với người mua. Tuy nhiên, do việc buôn gian,
bán lận (mua hàng thật, bán hàng giả; dùng cân sai, nói dối...) khá thường xuyên nên một số
thương nhân Hà Lan cũng đã lấy vợ Việt nhằm khắc phục “khâu trung gian” trong việc làm
ăn lâu dài tại Hội An.
Thế nhưng, chúa Nguyễn cũng thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ vị thế thống trị của
vương triều mình trong việc giải quyết các mâu thuẫn với thế lực phương Tây. Trận hải
chiến với thủy quân Hà Lan (1641-1642) không chỉ chứng minh sức mạnh binh lực của
chúa Nguyễn mà còn là câu trả lời cho những thế lực bên ngồi có ý muốn xâm phạm chủ
quyền dân tộc.
Điều này cho thấy: “Nhờ việc giải quyết thành công mối quan hệ với các quốc gia khu
vực, xử lý hài hồ vấn đề lợi ích giai cấp và quyền lợi dân tộc, các chúa Nguyễn không chỉ
mở rộng ảnh hưởng ở phương Nam mà còn xác lập được quyền quản lý thực tế, bảo vệ được
71


HOẠT ĐỘNG BANG GIAO THỜI CHÚA NGUYỄN (1558-1777)
chủ quyền trên các vùng đất mới với một ý thức dân tộc mạnh mẽ” [8].
Trong số các thế lực phương Tây, Pháp là một trong những quốc gia đến thiết lập quan
hệ thương mại với chúa Nguyễn muộn nhất (thế kỷ XVIII) vào thời Võ vương Nguyễn Phúc
Khoát (1714 - 1765). Duy trì đường lối đối ngoại rộng mở, Võ vương đã chấp nhận đề nghị
buôn bán của Pháp và cấp sắc văn cho người Pháp. Tuy nhiên, mối quan hệ ban đầu đầy
thuận lợi này khơng được tiếp tục duy trì do những toan tính của Pháp trong sự cạnh tranh
quyền lực với Anh tại châu Á. Vì thế, cho đến cuối thế kỷ XVIII, quan hệ bang giao chính
thức giữa triều đình Pháp và các vương triều phong kiến ở Việt Nam vẫn chưa được xác lập.
3. Kết luận
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng trong quan hệ bang giao với Trung Quốc,
các vương triều phong kiến Việt Nam (trong đó có chính quyền Đàng Trong) ln thể hiện
thái độ “thần phục” theo thể chế sách phong, triều cống trên cơ sở bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia. Vì thế, một quan hệ tương đối ổn định, hịa bình
đã được duy trì giữa hai vương triều trong một thời kỳ khá lâu dài.

Đối với các nước láng giềng như Vạn Tượng, Chân Lạp và Xiêm, từ thời chúa Nguyễn
đến thời nhà Nguyễn đều duy trì đường lối ngoại giao linh hoạt, duy trì tầm ảnh hưởng để
bảo vệ biên giới phía Nam.
Trong mối quan hệ bang giao với phương Tây nói chung, chính quyền chúa Nguyễn
thực hiện chính sách “mở cửa”, tạo điều kiện cho các thương nhân và các nhà truyền giáo
đến Đàng Trong buôn bán, truyền đạo. Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó đã đưa
Đàng Trong tái hợp với mơ hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đơng Nam Á và
nhanh chóng trở thành một vương quốc cường thịnh, một trung tâm thương mại lớn ở Đông
Nam Á trong thế kỷ XVII, XVIII.
TÀI KIỆU THAM KHẢO
[1]. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế kỷ
XVII-XVIII, NXB Thuận Hóa, Huế.
[2]. Nguyễn Lương Bích (1996), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
[3]. Cristophoro Borri (1998, Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch và chú
thích), Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB tp Hồ Chí Minh.
[4]. Hồng Thị Anh Đào (2017), Hoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và
Pháp ở Việt Nam (thế kỷ XVI - XIX), Luận án tiến sĩ Lịch sử, trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế, Huế.
[5]. Vũ Minh Giang (2015), Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam bộ, truy
cập từ: ngày 27/11/2019.
[6]. Vũ Dương Huân (2010), Góp phần đánh giá chính sách đối ngoại và ngoại giao thời
Nguyễn, truy cập từ: />ngày 25/10/2019.
72


NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
[7]. Yu Insun (2008, Lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XIX - Thể chế triều cống,
Thực và Hư, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3: Hội nhập và phát triển.
[8]. Nguyễn Văn Kim (2006), Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác quyền

lực khu vực, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (362), trang 16-25, truy cập từ: https://
hoianheritage.net/vi/trao-doi-chuyen-nganh/chuyen-de-nghien-cuu-trao-doi/ung-doicua-chinh-quyen-dang-trong-voi-cac-the-luc-phuong-tay-460.html, 25/10/2019.
[9]. John Kleinen, Bert van der Zwan, Phan Huy Lê, Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Quang
Ngọc, Hoàng Anh Tuân, Jody Leewes và Ton van Zeeland (2008), Sư tử và rồng - Bốn
thế kỷ quan hệ Hà Lan - Việt Nam, NXB Thế giới, tp. Hồ Chí Minh.
[10]. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18,
NXB Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
[11]. Mark Caprio &Matsuda Koichiro (2017), Japan and the Pacific, 1540-1920: Threat
and Opportunity, Routledge, London and New York.
[12]. Trần Nam Tiến (2012), “Quan hệ giữa chúa Nguyễn với Bồ Đào Nha ở Đàng Trong
(từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7.
[13]. Trần Nam Tiến (2013), Vai trò của chúa Nguyễn đối với công cuộc khai phá và bảo vệ
xứ Mơ Xồi thế kỷ XVII, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 2 (174).
[14]. Hoàng Anh Tuấn (2011), “Mạng lưới thương mại Nội Á và bang giao Hà Lan - Đại
Việt (1601-1638)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.
DIPLOMATIC ACTIVITIES UNDER THE NGUYEN LORDS (1558-1777)
NGUYEN THI VINH LINH
Quang Nam University
Abstract: From the middle of the 16th century, along with the process of establishing
power in the southern region of the “Hoang Son” mountain range, the Nguyen Lords’
government implemented an open foreign policy with the countries in the region and around
the world. Besides maintaining traditional diplomatic relations with China and neighboring
Southeast Asian countries, the government of Cochinchina also expanded diplomatic
relations in both commercial and missionary aspects with Western countries. Therefore,
within the scope of this research, we focus on analyzing the perceptions and actions of the
Nguyen Lords in protecting the sovereignty and territorial integrity of the country as well as
establishing the dominant power of the Nguyen Lords in Cochinchina under the context of
profound regional and international changes. The article especially focuses on studying the
reaction of the Cochinchina government in its diplomatic relations with China, Southeast
Asian countries (mainly Siam, Laos and Cambodia) and Western countries until the second

half of the 18th century. To accomplish the above goal, the study mainly uses historical
and logical methods combined with a structural system method based on related document
sources.
Keywords: Dang Trong (Cochinchina), Qing Dynasty, Cambodia (Chan Lap), Siam
(Xiem), Nguyen Lords.
73



×