Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.76 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

TÊN ĐỀ TÀI
Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM:
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN, TÍN NGƯỠNG
THỜ THÀNH HỒNG, TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Mã phách:………………………………….

Hà Nội – 2021

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………….…..…….…4
2. Kết cấu bài tập lớn……………………………………………………….....5
NỘI DUNG
Phần 1. Cơ sở lý luận về tín ngưỡng dân gian Việt Nam …………………….6
1.1. Một số khái niệm cơ bản…..............................................................6
1.1.1. Tín ngưỡng…………………………………………….….6
1.1.2. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam…………………………..6
1.2. Một số tín ngưỡng dân gian tiêu biểu tại Việt Nam.........................6
1.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên………………………………6
1.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng…………………………….7
1.2.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu………………………………….…..7
Phần 2. Nguồn gốc và những biểu hiện của các tín ngưỡng dân gian Việt


Nam……………………………………………………………………...……8
2.1. Nguồn gốc của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam…………….…8
2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên……………………………....8
2.1.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng…………………………….9
2.1.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu…………………………………….11
2.2. Những biểu hiện của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam……..…12
2.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên……………………………..12
2.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng…………………………...13
2.2.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu………………………………….…15
2.3. Những biến đổi của tín ngưỡng dân gian Việt Nam trong đời sống
hiện nay……………………………………………………………………...16
2.3.1. Biến đổi tích cực………………………………………...16
2.3.2. Biến đổi tiêu cực………………………………………...17
2


Phần 3. Ý nghĩa của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam…………………….18
3.1. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong giáo dục đạo đức……….18
3.2. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong việc phạt huy tính dân chủ,
đồn kết……………………...………………………………………………19
3.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong việc bảo tồn và giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc…………………………………………………………..19
Phần 4. Một số biện pháp nhằm giữ gìn và phát huy nét đẹp của các tín
ngưỡng dân gian Việt Nam………………………………………………….21
4.1. Đối với chính quyền nhà nước………………...…………………21
4.2. Đối với gia đình, dịng họ………………………………………...21
4.3. Đối với mỗi cá nhân……………………………………………...22
KẾT LUẬN………………………………………………………………….23
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………...……………………24


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Quốc gia Việt Nam có 54 dân tộc anh em, cùng nhau chung sống hịa
thuận trên lãnh thỗ này. Mỗi tộc người có một nét riêng, một văn hóa đặc trưng
cho riêng mình. Chính nhờ vào sự đa dân tộc, đa văn hóa đã tạo nên một Việt
Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Tự hào là một nước có lịch sử - văn
hóa lâu đời, trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, truyền thống văn
hóa của dân tộc ta vẫn ln được coi trọng, giữ gìn, phát huy, trở thành dòng
chảy dài liên tục và xuyên suốt. Quá trình hình thành nền văn hóa Việt Nam là
một q trình đan xen, giao lưu, biến đổi của nhiều luồng văn hóa khác nhau
trên cái nền văn hóa bản địa, do vậy, đất nước ta có nhiều mặt các hình thái tín
ngưỡng đặc sắc.
Nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao sự đổi thay mạnh mẽ trong quá trình
giao lưu và tiếp nhận các nền văn hóa, tơn giáo, tín ngưỡng từ bên ngồi. Nhưng
trong q trình “nội sinh hóa các yếu tố ngoại sinh” ấy, dân tộc Việt Nam vẫn
giữ được nét văn hóa độc đáo, mà tiêu biểu trong đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, tín ngưỡng thờ Thành hồng, tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong xã hội văn minh
hiện đại, những tín ngưỡng ấy vẫn ln được các thế hệ người Việt Nam trân
trọng, giữ gìn, kế thừa và phát huy. Nó là sợi dây vơ hình gắn kết người Việt
Nam ở mọi phương trời, bởi nó phản ánh khát vọng sống chân chính, nét đẹp
của đạo lý cổ nhân và chiều sâu của tâm hồn Việt, đã vượt qua khoảng cách về
không gian, thời gian trở thành nét văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
Trong quá khứ cũng như hiện tại, tín ngưỡng dân gian luôn là đời sống
tinh thần phong phú của dân tộc Việt Nam. Sự phong phú, đa dạng của tín
ngưỡng, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, cho đến nay vẫn đang còn là vấn
đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu. Theo chiều hướng đó, đề tài
4



này góp phần nêu lên một số nguồn gốc, biểu hiện của các tín ngưỡng dân gian,
làm rõ ý nghĩa của các tín ngưỡng đó nhằm đưa ra một số giải pháp để giữ gìn
và phát huy nét đẹp của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đặc biệt là tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hồng, tín ngưỡng thờ Mẫu.
2. Kết cấu bài tập lớn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bài tập lớn gồm 4 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Phần 2: Nguồn gốc và những biểu hiện của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Phần 3: Ý nghĩa của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Phần 4: Một số biện pháp nhằm giữ gìn và phát huy nét đẹp của các tín ngưỡng
dân gian Việt Nam.

5


NỘI DUNG
PHẦN 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống mà con người tin vào để giải
thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và mọi người trong cộng
đồng. Tín ngưỡng dân gian là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu
nhiên, coi vạn vật hữu thần, thần thánh có sức mạnh siêu phàm, thống trị cuộc
sống con người, có liên quan đến tơn giáo ngun thủy nhưng khơng phải là
tơn giáo.
1.1.2. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Tín ngưỡng dân gian là tập hợp những niềm tin hình thành và phản ánh

ước nguyện của một cộng đồng người. Tuy nhiên, những tín ngưỡng này khơng
nhất định thành tổ chức tơn giáo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, cịn gọi là tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam, là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc sống trên
lãnh thổ Việt Nam trải qua nhiều thời đại.
1.2. Một số tín ngưỡng dân gian tiêu biểu tại Việt Nam
1.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt là những người có cùng huyết
thống, đó là cha mẹ, ơng bà, cụ kỵ, những người đã sinh thành ra mình. Tổ tiên
là những người tạo dựng nên cuộc sống của con người [13, tr.10].
Thờ cúng tổ tiên chính là tồn bộ các hình thức lễ nghi, cúng bái nhằm
thể hiện tấm lịng thành kính, đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên, ông
bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho con cháu – những
người thuộc thế hệ đầu tiên của một dịng họ, với ơng bà, cha mẹ đã qua đời.
6


1.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng
Thờ cúng Thành hồng là tín ngưỡng phổ biến ở các làng xã người Việt.
Nếu nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng chính của cộng đồng gia tộc
thì thờ Thành hồng là tín ngưỡng chính của cộng đồng làng xã. Thờ Thành
hồng là một loại hình tín ngưỡng có tự lâu đời, đã và đang ảnh hưởng không
nhỏ trong tâm thức người Việt và đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và phát
huy những nét văn hoá truyền thống. Hoạt động tín ngưỡng Thành hồng khá
phổ biến đối với mỗi làng quê, trong các vùng nông thôn Việt Nam [6, tr.6].
1.2.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu có thể được hiểu là một loại hình tín ngưỡng dân
gian được tích hợp bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nứ thần, thờ Mẫu thần và thờ
Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu, đấng bảo
trợ cho sự tồn tại và sinh thành của con người.
Nữ thần được thờ có thể là nhiên thần như: Thần Sấm, Thần Mây, Thần

Mưa, Thần Chớp (Tứ Pháp), Mẹ Lúa, Mẹ Chim, Mẹ Cá,…; có thể là nhân thần
như: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Âu Cơ, Ỷ Lan, Bà Trưng, Bà Triệu,…[12, tr.27].

7


PHẦN 2.
NGUỒN GỐC VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN
CỦA TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
2.1. Nguồn gốc của tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng trong
đời sống người Việt. Từ xa xưa, con người đã sùng bái tự nhiên. Họ coi những
lực lượng siêu nhiên là các vị thần thánh có sức mạnh siêu phàm mà con người
khơng có. Họ cho rằng những vị thần thành đó có thể quyết định được sự sống
và cái chết của họ. Khi con người bất lực trước tự nhiên và về sau là sự bất lực
của con người về áp bức, bóc lột, giai cấp…, áp lực về thiên tai, nông nghiệp,…
trong cuộc sống ở thực tại và họ muốn tìm đến sự giải thốt trong đời sống tinh
thần. Điều đó đã dẫn con người tìm đến tín ngưỡng, đây chính là cơ sở cho sự
ra đời của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Việt Nam được biết đến là một quốc gia có nền văn hố lâu đời, đặc biệt
là văn hóa tinh thần được thể hiện qua các tín ngưỡng dân gian. Đầu tiên, khơng
thể khơng nói đến tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Dân gian xưa có câu:
“Con người có tổ có tơng,
Như cây có cội, như sơng có nguồn.”
Ngun nhân hình thành nên phong tục thờ cúng tổ tiên này có lẽ do trong thế
giới văn hóa tâm linh của người Việt, họ quan niệm về cuộc sống sau khi chết
“trần sao, âm vậy”. Quan niệm về linh hồn luôn hiện hữu là cơ sở tâm linh cho
sự ra đời của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người Việt quan niệm rằng, con
người ln có phần thể xác và linh hồn. Khi con người chết đi thì thể xác cũng

mất đi nhưng linh hồn thì vẫn cịn hiện hữu ở một nơi nào đó, mà người ta
thường hay gọi là cõi Âm hay Âm ti, Âm phủ. Họ cho rằng người sau khi chết
8


sẽ được xét xử, ai tốt sẽ được lên Thiên đường hay cõi tiên, có kiếp sau sung
sướng, cịn ai xấu sẽ bị trừng phạt, kiếp sau phải chịu khổ. Và linh hồn của tiền
nhân, của tổ tiên luôn bên cạnh con cháu, chứng giám, độ trì cho con cháu. Vì
quan niệm “trần sao, âm vậy” nên mới có những tục lệ như chia của cho người
chết, chôn theo người chết tiền bạc, các đồ dùng, rồi nghi lễ đốt vàng mã cũng
là một cách để “tiếp tế” cho người chết.
Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng,
khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm “linh hồn”,
và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một vài dân tộc
Đơng Nam Á cịn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con
người có 3 hồn, nhưng vía thì nam có 7, cịn nữ có 9. Ba hồn, theo một cách
giải thích thơng thường gồm tinh, khí và thần. Tinh là sự tinh anh trong nhận
thức (nhờ các quan năng, các cía mang lại). Khí là khí lực, là năng lượng làm
cho cơ thể hoạt động. Thần là thần thái, là sự sống nói chung. Vía, với vai trị
trung gian, là cái làm hoạt động các quan năng – những nơi cơ thể tiếp xúc với
môi trường xung quanh. Đàn ơng có 7 vía cai quản 7 “lỗ” trên mặt: hai tai, hai
mắt, hai lỗ mũi và miệng. Phụ nữ thì có thêm hai vía cai quản nơi sinh đẻ và
cho con bú [10, tr.278-279].
2.1.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng
Việc thờ cúng Thành hoàng trước hết bắt nguồn từ việc thờ cúng thần
linh của người Việt. Từ thời hồng hoang của lịch sử, trong quá trình khai phá
đồng bằng, lập làng, lập ấp, người Việt ln cảm thấy mình bé nhỏ trước thiên
nhiên hoang sơ và kỳ vĩ. Trước mắt người nông dân, vạn vật xung quanh cũng
biết suy nghĩ, cũng có linh hồn, có cuộc sống như con người. Họ tồn tại và phát
triển bằng một niềm tin nơi bản thân mình và tin ở sức mạnh ngồi mình. Mỗi

sức mạnh, dù là do thiên nhiên hay con người tạo ra đều là một vị thần. Họ tin
rằng tất cả các vị thần linh đều có ảnh hưởng đối với đời sống, vận mệnh của
9


con người, từ lúc đang là một bào thai cho đến khi nhắm mắt xi tay đi vào
lịng đất.
Hình ảnh khởi đầu của thần linh Việt là các hiện tượng thiên nhiên như
mây, mưa, sấm, chớp, thần cây, thần đá… sau đó là các thần sơng, thần núi,
thần rắn, thần rết...là các lực lượng mà sau này được gọi là các nhiên thần. Các
nhân thần sau này mới xuất hiện. Với quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần”,
chỉ những người khi cịn sống là những người có sức mạnh, những người giàu
có, những người có khả năng chữa bệnh thì sau khi chết mới được thờ làm thần
linh. Việc thờ cúng các vị thần như vậy là một cách biểu lộ lịng biết ơn và sự
tơn thờ sức mạnh cũng như cầu mong sức khoẻ cho người và gia súc của người
dân. Trong các làng xã Việt Nam hầu hết làng nào cũng có vài vị thần được thờ
phụng với cầu mong thần linh phù hộ cho “người an, vật thịnh”. Các vị thần
này lúc đầu được thờ ở các am, miếu, đền, nghè trong làng.
Các vị thần của mỗi làng xã Việt Nam được gọi là thành hoàng làng có
xuất xứ từ thành hồng của Trung Quốc. Đó là cách gọi các vị thần bảo vệ thành
trì, thành thị của Trung Quốc. Việc gọi các vị thần làng là thành hồng là cách
gọi theo mơ thức thành hồng của Trung Quốc và do các quan đô hộ Trung
Quốc gia phong. Sau này các nhà nước phong kiến Việt Nam tiếp tục gia phong
và thờ phụng.
Khi các triều đại phong kiến Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự
chủ, nhà vua đã khai thác và sử dụng tín ngưỡng thờ thần linh của người dân
để phục vụ cho vương quyền của mình. Đó là việc nhà nước tổ chức sắc phong
cho các vị thần linh, và đưa về thờ ở các làng quê. Các vị thần trở thành người
thay mặt triều đình quản lý cõi thiêng của mọi làng quê. Đây là sự kết hợp giữa
người và thần, giữa vương quyền và thần quyền.


10


2.1.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Từ những thế kỷ đầu Cơng ngun, khi các tơn giáo lớn trên thế giới
chưa có điều kiện du nhập vào Việt Nam, dân tộc ta đã có tín ngưỡng đa thần,
đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu.
Những vị nữ thần được nhắc đến đầu tiên là những thần siêu nhiên (nhiên
thần) mang yếu tố của nền nông nghiệp lúa nước. Người ta tôn thờ các yếu tố
có ảnh hưởng đế nơng nghiệp như mây, mưa, sấm sét,… Hình thức thờ Tứ Pháp
(Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) ra đời để đáp ứng cho cuộc sống
lấy nơng nghiệp làm chính. Đó là những nữ thần mà dân gian đặt cho họ các
tên gọi mộc mạc, nôm na: Bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Tướng. “Và vì cái đích
mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực, cho nên nữ thần của ta không
phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các bà Mẹ, các Mẫu”. Tính đa dạng trong các
hình thái thờ Mẫu được tôn vinh như những bà Chúa, và Chúa thì ngự ở phủ,
nên được thể hiện qua tín ngưỡng Tứ Phủ. Chú trọng đến các Mẫu có yếu tố
Trời (Mẫu Thiên, là Thiên phủ), Đất (Mẹ Đất, Diêu Trì Kim Mẫu là Địa phủ),
Nước (Mẫu Thoải là Thủy phủ), Rừng (Mẫu Thượng Ngàn là Nhạc
phủ),…Ngoài những nữ thần là những nhiên thần, còn thờ các nhân thần như
Bà Trưng, Bà Triệu,… Đó là những người đã có cơng lao trong việc bảo vệ Tổ
quốc, đã được trân trọng thờ tự trong các ngôi đền khắp cả nước.
Theo Ngô Đức Thịnh “hệ thống thần linh tứ phủ gồm các thiên thần và
nhân thần là các vị thần linh đã từng là người trần thế hay có nguồn gốc Tiên,
Thánh. Tuy nhiên, xu hướng “trần gian hóa” và “lịch sử hóa” là xu hướng chính
trong q trình “thêu dệt” nên thần tích các vị Thánh này. Vị Thánh Mẫu Liễu
Hạnh ra đời chậm trễ nhất trong số các Vị Thánh Mẫu, nhưng Thần tích của bà
cũng được người đời “trần thế hóa”, “địa phương hóa”, “lịch sử hóa”, một cách
khá trọn vẹn để từ đó bà bước lên ngơi thứ cao nhất trong điện thần Tứ phủ.

Còn biết bao các vị thần khác đều có nguồn gốc xuất thân, lý lịch nhập thế với
11


bao cơng lao kỳ tích gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
tạo cho nó trở thành một biểu tượng của lòng yêu nước mang đầy tính tâm linh.
Cũng chính vì thế họ đều là những phúc thần, có thể xua đuổi tà ma, mang lại
tài lộc, sức khỏe cho con người” [11, tr.147-148].
2.2. Biểu hiện của các tín ngưỡng dân gian Việt Nam
2.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam thể hiện qua việc lập bàn thờ,
thờ di ảnh, bài vị hoặc tro cốt của những người thân có cùng huyết thống đã
mất, những vị anh hùng có cơng với q hương đất nước hay những người đã
sản sinh ra đất nước này rồi hàng ngày lo hương khói, cúng bái hoặc vào những
ngày giỗ, Tết…Ở Việt Nam, hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù
thờ chính hay thờ vọng).
Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất
phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu.
Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…,
trong những ngày lễ Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh Minh, Tết Hàn Thực,
Tết Đoan ngọ…, các ngày Sóc (ngày mồng một), ngày Vọng (ngày rằm) theo
chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kinh cáo mọi chuyện
vui buồn như: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả
chồng,… Con cháu cịn kính mời các vị tổ tiên về hưởng thụ hoa trái đầu mùa,
lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những người sống
thì tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và
để cầu mong tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Về bản chất,
việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là niềm tin người sống cũng như người
chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn
cáo tiền nhân, tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế. Vì vậy, việc cúng giỗ chính

mà thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
12


Có thể nói thờ cúng tổ tiên là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt
tổ chức cộng đồng trong xã hội Việt Nam truyền thống. Tính theo trục dọc phụ
hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà - cha mẹ - con cháu.
Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: Cao - tằng- tổ khảo (kỵ - cụ - ông - bố) và tin tưởng mình sẽ được con cháu bốn đời sau cúng
giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết
dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ, hoặc chồng... Như vậy cả người đang sống và
người chết - gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thuỷ tổ - dòng
họ, việc thờ cúng tổ tiên đã tạo ra sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi
thành viên trong làng xã.
Trong phạm vi đất nước, tín ngưỡng này cịn được thể hiện qua lịng nhớ
kính đến các vị thủy tổ của dân tộc, được nâng lên thành việc lập nhiều đền để
thờ các vua Hùng. Rồi những đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ với huyền thoại
100 trứng, qua đó thể hiện sự kết hợp trong tư duy dân tộc từ thuở lập quốc
hình ảnh cặp đơi của yếu tố âm – dương, với 50 con theo cha (dương) xuống
biển (âm) và 50 con theo mẹ (âm) lên núi (dương) [2, tr.81].
2.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng
Tín ngưỡng thờ Thành hồng làng là một tín ngưỡng khá phổ biến ở làng
xã của người Việt, thờ những người có cơng khai khẩn và có những đóng góp
to lớn cho làng. Hầu hết các Thành hồng được thờ ở đình làng. Đình là nơi
sinh hoạt cộng đồng, như hội họp, đón tiếp quan khách cấp trên, nơi xử kiện và
đặc biệt là nơi tiến hành các nghi lễ thờ cúng Thành hoàng làng. Tuy nhiên do
điều kiện cụ thể của từng làng, cá biệt có những làng khơng thờ Thành hồng
ở đình mà thờ ở miếu như làng Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định. Tại Việt
Nam, khơng làng nào là khơng có đình, đền, miếu thờ thần. Bởi thế, thần Thành
hoàng là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng. Ở mỗi làng, khắp các làng
xưa kia, tín ngưỡng thờ Thành hồng là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng

13


sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh. Các làng ở đồng bằng Bắc
bộ, Thành hoàng làng là vị thần bản mệnh, là chỗ dựa tâm linh cho cả cộng
đồng làng.
Trước đây các thần được thờ ở đền miếu, đình làng chỉ là nơi dừng chân
nghỉ ngơi của khách bộ hành. Đến năm 1231, dưới thời Trần, các đình làng
dựng tượng thờ Phật. Đến năm 1474, đình trở thành nơi thờ Thành hoàng làng.
Và cũng từ thế kỷ XV trở đi do Nho giáo phát triển, tầng lớp Nho sĩ ngày một
đông đảo, các nghi lễ thờ thần được nghi thức hoá theo tinh thần Nho giáo. Đặc
biệt từ thế kỷ XVI, với việc phong sắc cho Thành hoàng làng xã của nhà nước
phong kiến, một lần nữa đã nâng cấp và chính thức hố việc thờ cúng Thành
hồng Việt Nam.
Thơng thường, dân làng tổ chức cúng tế Thành hoàng làng vào các dịp
ngày mồng 1 (lễ Sóc), ngày rằm (lễ Vọng) hàng tháng âm lịch. Ngồi ra, Thành
hồng cịn được cúng tế vào các ngày đầu tháng (ngày Đinh), của tháng 2 là
ngày xuân tế, của tháng tám là ngày thu tế, ngày hạ điền là ngày bắt đầu xuống
ruộng cấy lúa, ngày thượng điền là ngày kết thúc vụ cấy, ngày lễ cơm mới vào
tháng 9, lễ Kỳ yên, rằm tháng giêng, và lễ Trung nguyên rằm tháng 7, lễ Hàn
thực (3/3), lễ Đoan Ngọ (5/5), Trung Thu (15/8). Vào các dịp đặc biệt như khi
dân có tang lễ, đám cưới, khao vọng cũng đều phải có đèn nhang báo cáo Thành
hồng làng. Nhưng ngày lễ quan trọng nhất là ngày lễ nhân dịp sinh nhật, hay
kị nhật của Thành hoàng vào mùa xuân hoặc mùa thu. Đó cịn là ngày Hội làng,
và ngày quan trọng nhất là ngày vào đám. Nghi thức quan trọng nhất là trong
Hội làng là Tế. Lễ là nghi thức thức cúng lễ theo lịch định kỳ hàng năm, còn
Tế chỉ thực hiện vào dịp Hội làng: lễ tế Xuân và lễ tế Thu. Trong lễ tế, quy định
các nghi lễ rất nghiêm ngặt, ví dụ thứ tự cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa
Chủ tế, Bồi tế, Đông Xướng, Tây xướng, các chấp sự… phải được giám sát
chặt chẽ.

14


Trong lễ Tế, trước bàn thờ là 3 chiếc chiếu. Chiếu thứ nhất là chiếu dâng
rượu và đọc lời cầu nguyện. Chiếu thứ hai là chiếu ẩm phúc (uống phúc), chiếu
thứ ba dành cho chủ tế làm lễ. Các bồi tế đứng sau chủ tế. Đông xướng và Tây
xướng đứng hai bên, hướng về phía chủ tế. Các chấp sự chia thành 2 nhóm
đứng hai bên chủ tế. Mọi hành động phải nhất nhất tuân theo lời của Đông
xướng hô to và Tây xướng lặp lại. Lễ lạy trước bàn thờ phải theo đúng 10 lạy,
3 lần dâng rượu, 4 lạy rước thần…
2.2.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng được nhân dân thờ khá phổ biến. Bên
cạnh việc có ban thờ trong chùa theo kiểu “tiền phật, hậu mẫu”, nhiều gia đình
trong làng cịn có điện thờ tại tư gia.
Các vị thánh trong Đạo mẫu là người cai quản các Phủ - các miền như:
Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên Phủ (miền Trời), Mẫu Thoải cai quản Thoải
phủ (Thủy phủ- miền sông nước), Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ (miền
rừng núi) và Mẫu Địa cai quản Địa phủ (miền Đất).
Điều làm nên đặc sắc của Đạo Mẫu là ý nghĩa vũ trụ quan, nhân sinh
quan sâu sắc biểu thị qua hệ thống điện thần, tên gọi các vị thần linh, cũng như
cách bài trí thờ cúng trong đền, điện. Trước hết có thể thấy điện thần tứ phủ
như một mơ hình vũ trụ thu nhỏ với các cặp Thiên - Địa (Trời - Đất), Sơn Thủy (Rừng núi - Sông nước), với Thiên – Địa (dương – âm, đực - cái) và gắn
với quan niệm về tứ phương, ngũ phương, ngũ hành ( Bà Mộc, Bà Kim, Bà
Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ), Mẫu – Mẹ là tính nữ thâu tóm quyền năng sáng tạo,
sinh sơi, nảy nở và bảo trữ. Đó là vũ trụ nhất nguyên (nguyên lý mẫu) nhưng
lưỡng cực (âm dương, nữ tính - nam tính) [11, tr.150].
Trong khung cảnh xã hội Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng
duy nhất đáp ứng mọi nguyện vọng, thỏa mãn mọi khát khao, ham muốn trần

15



thế của con người mà các tôn giáo khác không thỏa mãn được. Đó chính là lý
do mà Đạo Mẫu tồn tại lâu dài và mạnh mẽ ở Việt Nam.
2.3. Những biến đổi của tín ngưỡng dân gian Việt Nam trong đời sống hiện
nay
2.3.1. Biến đổi tích cực
Trong điều kiện hợp tác, phát triển kinh tế, xã hội, sự hòa nhập, pha trộn
văn hóa giữa các quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ. Người Việt Nam cũng vậy,
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có sự biến đổi theo hướng đơn giản hóa. Tuy
nhiên, các tập tục này chỉ biến đổi ở một vài khía cạnh nhỏ về mặt hình thức
nhưng họ vẫn giữ được văn hóa gốc trong quan niệm cũng như lối sống.
Do điều kiện phát triển kinh tế, dân số của làng, sự thay đổi từ làng thành
phường..., đã làm xuất hiện những thay đổi có tính nội sinh. Hiện nay, do dân
số phát triển, đường làng, ngõ xóm hẹp dần, nhà của các hộ gia đình cũng chật
chội hơn, thời gian của mọi ngường cũng hạn chế hơn cho nên, việc thờ cúng,
tín ngưỡng đang dần biến đổi. Dân làng đã cho xây nhà truyền thống khang
trang, rộng rãi kiêm chức năng thờ Thành hoàng. Hằng năm, thay vì thờ tại nhà
các ơng Quan đám nhất và rước từ nhà ơng Quan đám nhất ra đình, thì nay đã
thờ tại nhà truyền thống và rước từ nhà truyền thống ra đình. Đặc biệt, trong
tình hình dịch bệnh COVID-19 cực kỳ phức tạp, việc thờ cúng lại càng gặp khó
khăn hơn cả. Người dân đã thay đổi cách thức tín ngưỡng từ đi cúng lễ trực tiếp
sang thờ vọng, thậm chí cả hình thức online.
Như vậy, có thể thấy, sự tồn tại của các cộng đồng luôn vận động, làm
cho một số tập tục, hoạt động, không gian, điều kiện,… tín ngưỡng dân gian
của cộng đồng khơng còn phù hợp, đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh. Sự điều
chỉnh đó được cộng đồng sáng tạo và chấp nhận như một sự thay đổi tất yếu
theo các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của chính bản thân cộng đồng.

16



2.3.2. Biến đổi tiêu cực
Ngày nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có dấu hiệu bị biến tướng bởi
yếu tố mê tín dị đoan. Có những người đã lợi dụng những việc thờ cúng tổ tiên,
khơng phải tỏ lịng hiếu thảo và tưởng nhớ đến ông bà đã mất mà để phô trương,
trục lợi cho cá nhân khiến phong tục tốt đẹp này bị trở nên “ thương mại hóa”,
mất đi bản chất vốn có của nó.
Những năm gần đây, Nhà nước ta ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo theo tinh thần Hiến Pháp đề ra:
“Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo…” của người dân, do vậy các tơn
giáo, tín ngưỡng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, nhiều chiều và đa dạng hơn.
Một số người đã lợi dụng điều này để kết hợp các hình thức khác nhau tiến
hành tổ chức lễ bái, đi hành hương,… khắp nơi nhằm thu lợi. Họ còn lợi dụng
lòng tin của một số người để dựng lên nhiều huyền thoại, gán cho những vị thần
vốn được thờ tự lâu đời những điều linh ứng mới để thu hút khách thập phương
tị mị, mê tín… Điều này một thời đã làm cho sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo
vốn mang tính đa dạng nay lại càng phức tạp hơn.
Ngồi ra, q trình cơng nghiệp hóa, q trình đơ thị hóa đã kéo theo sự
biến đổi xã hội sâu sắc, đặc biệt phải kể đến sự biến đổi văn hóa ở các làng quê.
Đáng kể nhất là những nét văn hóa cổ truyền đang ngày càng mai một dần,
trong đó có tín ngưỡng thờ Thành hồng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu. Khơng
ít những nơi thờ tự đã bị dỡ bỏ, lấn chiếm để dành chỗ cho các dự án, các cơng
trình xây dựng nhà máy công nghiệp, chung cư,…

17


PHẦN 3.
Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM

3.1. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong giáo dục đạo đức
Đối với người dân Việt Nam, tín ngưỡng dân gian được đặt vào vị trí
quan trọng nhất, giữ vai trò trung tâm trong đời sống tinh thần của người dân.
Họ khơng chỉ thờ cúng những người có cơng sinh thành, dưỡng dục đã khuất,
mà còn thờ cúng cả những người có cơng với cộng đồng, làng xã, đất nước.
Điều đó góp phần gắn kết giữa gia đình, làng xóm với đất nước; góp phần củng
cố, duy trì, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của quê hương (như
lịng hiếu thảo, lịng nhân ái, tính cộng đồng, cộng cảm, đức tính cần cù, sáng
tạo, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lịng u nước…).
Niềm tin về các vị thần (ra tay trừng phạt những kẻ không biết quy phục,
tuân thủ phép nước lệ làng, hoặc những kẻ có thái độ bỡn cợt, báng bổ thánh
thần…) làm khơng ít người phải tự chế ngự hành vi của mình sao cho đúng
đắn, phù hợp… Những lời hứa hẹn trước tổ tiên, thần thánh (không làm điều
gian dối, nếu không sẽ bị “trời đánh, thánh phạt”, bị “quả báo”, “phải tội”…)
cũng có tác dụng phịng ngừa, ngăn chặn những hành vi xấu có thể diễn ra. Từ
những điều đó, tâm lý sợ hãi các thế lực siêu nhiên khiến mọi người phải chế
ngự bản thân, giúp điều chỉnh nhận thức và hành vi của con người, hướng con
người đến hoàn thiện nhân cách theo chuẩn mực chung của xã hội. Cứ thế, với
một sức mạnh kì diệu, việc thờ cúng một vị thần thành hoàng bảo trợ cho làng,
một vị thánh Mẫu linh thiêng hay ông bà tổ tiên đã khuất đều giúp con người
tự hoàn thiện đạo đức của mình cho phù hợp hơn với các giá trị chuẩn mực và
quy ước chung của cộng đồng.

18


3.2. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong việc phạt huy tính dân chủ,
đồn kết
Tín ngưỡng dân gian có vai trò phát huy dân chủ, định hướng mọi người
biết nắm vững và tôn trọng phép tắc, quy ước chung của cộng đồng. Đời sống

tâm linh chính là một phần quan trọng trong đời sống hiện thực. Trong những
dịp sinh hoạt thực hành tín ngưỡng dân gian, những nghi thức thờ cúng (không
phân biệt già trẻ, gái trai, đẳng cấp, tơn giáo,…) giúp mọi người cùng xích lại
gần nhau, cùng nhau thực hiện nghi lễ, cùng nhau vui hội. Đó là thể hiện sự dân
chủ, đoàn kết.
Thờ cúng tổ tiên là một dạng tín ngưỡng mà có ý kiến cho rằng đó chính
là “yếu tố vững chắc nhất gắn bó các thành viên của đại gia tộc”, và trong những
dịp lễ giỗ, các thành viên này có dịp gặp gỡ nhau. “Chính trong những buổi họp
khép kín này, nhưng được dịng máu truyền cho sinh khí, những tình cảm
thương mến tự nhiên được hồi phục hay được tăng cường”. Thông qua hoạt
động thờ cúng tổ tiên giúp cho việc củng cố gia phong, gia tục, gìn giữ nếp nhà
rồi rộng ra là củng cố tình đồn kết cộng đồng từ dịng họ ra làng xã.
Ngồi ra, tín ngưỡng dân gian là một chất keo gắn kết con người với
nhau một cách bền chặt. Khi mọi người cùng chung niềm tin vào một vị thánh
hoặc thần khi xem tế lễ, cùng reo hò mừng vui hoặc lo lắng khi thưởng thức
những trị diễn. Tín ngưỡng đưa mọi người ở mọi tầng lớp, mọi thế hệ gần lại
với nhau. Tín ngưỡng dân gian nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn, xoá bỏ
mọi khúc mắc, bất hoà, đoàn tụ và gần gũi nhau hơn.
3.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong việc bảo tồn và giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc
Trong mỗi loại hình tín ngưỡng dân gian, các huyền thoại, truyền thuyết,
thần tích… đều có tính nghệ thuật rất cao. Nhiều loại hình tín ngưỡng gắn liền

19


với âm nhạc và nhảy múa để kể chuyện, mô phỏng, diễn tả đời sống, cơng trạng
và thành tích của các thần linh.
Các loại hình tín ngưỡng dân gian đã làm phong phú thêm văn hoá truyền
thống của người Việt trên cả hai lĩnh vực: văn hoá vật thể và văn hố phi vật

thể. Những cơng trình kiến trúc, điêu khắc cịn ẩn chứa và ghi dấu ấn đời sống
tín ngưỡng của ông cha qua nhiều thế hệ. Sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra trong
các lễ hội truyền thống hàng năm chính là cách lưu giữ các giá trị văn hố. Các
điệu múa dân gian (như múa Ơng Đùng, Bà Đà, múa đánh bện đuổi hổ, múa
ếch vồ, múa giáo cờ giáo quạt, múa lân…), các trò chơi dân gian (như thi thổi
cơm, chơi đu, thi kéo co, đua thuyền, bơi chải, thi bắt chạch trong chum, chọi
gà, đấu vật, bắt vịt, gieo ống, rước nước…) đều phản ánh những nét văn hoá
độc đáo của mỗi miền quê.
Người dân đến với lễ hội không chỉ đơn thuần để thực hiện các sinh hoạt
tín ngưỡng mà cịn để chiêm ngưỡng những cảnh quan văn hố, sự sáng tạo kì
diệu bởi bàn tay, khối óc của ơng cha. Việc duy trì các tín ngưỡng dân gian,
một mặt đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, mặt khác, nó khơi dậy lịng
tự hào của các thế hệ về truyền thống văn hoá của địa phương mình. Đó cũng
chính là cách giáo dục tốt đối với thế hệ trẻ trong việc giữ gìn, bảo tồn các giá
trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

20


PHẦN 4.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY NÉT ĐẸP
CỦA CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
4.1. Đối với chính quyền nhà nước
Hiện nay, việc giữ gìn, xây dựng và phát huy các tín ngưỡng dân gian
Việt Nam, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương, đất nước
là một vấn đề rất quan trọng. Bên cạnh những điều tốt đẹp trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của dân tộc có nhiều thay đổi. Vì
vậy để lưu giữ và phát huy những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình, Đảng và
Nhà nước cần có nhiều chính sách quan tâm và giúp đỡ người dân nhận thức
đúng đắn về văn hóa dân tộc và đưa ra những phương pháp để bảo tồn văn hóa

của họ. Các cấp chính quyền cần tích cực giáo dục nâng cao dân trí cho người
dân, giúp người dân hiểu được giá trị, ý nghĩa của tín ngưỡng văn hóa dân gian,
việc thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu.
Đảng và nhà nước cần ban hành nhiều chính sách, quy định nhằm đẩy
mạnh cơng tác quản lý duy trì và phát triển tín ngưỡng văn hóa dân gian, cần
chủ động đề ra các kế hoạch nghiên cứu đầu tư các hoạt động văn hóa lễ hội
dân gian nhằm giữ gìn bản sắc dân tộc, làm nổi bật các di sản phi vật thể và tín
ngưỡng cổ truyền của dân tộc Việt. Ngồi ra, có thể kết hợp giữa sinh hoạt tín
ngưỡng, tâm linh và phát triển du lịch. Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tâm linh
thì hoạt động du lịch tâm linh, du lịch lễ hội đang trở thành thế mạnh và phát
huy những hiệu quả tích cực.
4.2. Đối với mỗi gia đình, dịng họ
Với thực tế hiện nay, có nhiều quan niệm về truyền thống gia đình ít
nhiều cũng đã thay đổi, vậy nên việc giúp cho con cháu hiểu một cách sâu sắc
về ý nghĩa của ban thờ gia tiên trong gia đình là một điều hết sức cần thiết. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên khơng chỉ là nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc
21


mà nó cịn là bài học đạo đức vơ giá trong tiềm thức của mỗi người. Nó răn dạy
con người về đức hiếu thảo, hiếu sinh và hướng về cội nguồn…
Những năm gần đây, ở các vùng nông thôn Việt Nam xuất hiện hiện
tượng các làng xây dựng, khôi phục lại đình, chùa, đền miếu, nhà thờ họ, mộ
tổ...Nhiều dịng họ tiến hành viết lại gia phả, chắp nối các mối quan hệ thân tộc,
tổ chức các hội đồng hương (những người cùng làng xã- đã sinh sống ở địa
phương khác). Quan hệ thân tộc không chỉ chi phối các mặt hoạt động của nội
bộ dòng họ mà vươn ra chi phối một số mặt hoạt động của làng xã.
4.3. Đối với mỗi cá nhân
Việc giữ gìn và phát huy nét đẹp của tín ngưỡng dân gian khơng chỉ là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội mà còn là trách nhiệm của mỗi một cá

nhân người Việt. Người dân cần nghiêm túc chấp hành các quy định của nhà
nước về tín ngưỡng, tơn giáo. Ngồi ra cần tự nâng cao nhận thức, dân trí, tự
tìm hiểu về những giá trị cốt lõi của tín ngưỡng dân gian, tránh hành vi mê tín
dị đoan liên quan đến thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hồng, thờ Mẫu. Mỗi cá nhân
cần có ý thức bảo vệ tài sản cơ sở thờ tự quê hương, có ý thức coi trọng bảo
tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, những nét đẹp của
tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

22


KẾT LUẬN
Tín ngưỡng dân gian ra đời, tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, là một phần khơng thể thiếu
trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân lao động. Tín ngưỡng dân gian
là nhu cầu tinh thần của đại đa số các thành phần cư dân ở nước ta. Đề tài đã
đưa ra cơ sở lý luận, nguồn gốc và những biểu hiện của tín ngưỡng dân gian
Việt Nam, từ đó làm rõ những ý nghĩa của các tín ngưỡng dân gian đó nhằm
nêu lên một số biện pháp giữ gìn và phát huy nét đẹp của các tín ngưỡng dân
gian Việt Nam. Ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian Việt Nam được thể hiện trong
việc giáo dục đạo đức, tín ngưỡng dân gian phát huy dân chủ, đồn kết và giữ
gìn bản sắc văn hoá của người Việt Nam. Song, bất kỳ giá trị văn hố tín ngưỡng
nào, nét đẹp tâm linh nào cũng đều chứa đựng trong nó hai mặt đối lập, nếu
phát triển mạnh mẽ sẽ trở thành mê tín dị đoan, khiến ngưỡng tôn giáo càng trở
nên phức tạp hơn bao giờ hết. Đánh giá đúng ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian
để có cái nhìn tồn diện về đời sống văn hoá tinh thần của người dân Việt Nam
hiện nay, thấy được những giá trị của nó trong đời sống xã hội của con người,
đồng thời để từ đó bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng nói chung, tín ngưỡng dân gian nói riêng, phát huy mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực trong sinh hoạt tín ngưỡng, tăng cường củng cố khối đại đoàn

kết toàn dân.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Kế Bính (2001), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thơng tin.
2. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu tính đa dạng trong tín ngưỡng,
tơn giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 2, (Tập 2),
tr.79-90.
3. Minh Mẫn (2016), Tín ngưỡng tơn giáo và tín ngưỡng tâm linh, Tạp chí
nghiên cứu Phật học, Cơ quan ngôn luận của Trung ương Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam, (Tập 140, số 05), tr.37-40.
4. Phạm Thị Kim Oanh (2015), Tín ngưỡng thờ thần của các làng ven sơng Tơ
Lịch, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Dân tộc học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Trần Mai Phương (2011), Tìm hiểu phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình
Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Ngành Quản lý văn hóa, Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Phương Thanh (2013), Biến đổi tín ngưỡng thờ thành hồng
làng tại xã Đơng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phịng, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp trường, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
7. Nhất Thanh (1970), Đất lề quê thói, Nxb Văn học.
8. Tạ Thị Thảo (2012), Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt, Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Triết học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
10. Trần Ngọc Thêm (1989), Tìm về bản sác văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
11. Ngơ Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội.


24


12. Nguyễn Hữu Thụ (2009), Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu qua truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương và Thánh Mẫu Liễu
Hạnh, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, (Số 04), tr.27-29.
13. Nguyễn Thị Thương (2015), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống cư
dân Mường Động – Kim Bơi – Hịa Bình, Khóa luận tốt nghiệp, Ngành Việt
Nam học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
14. Phan Như Ý (2019), Tục thờ cúng tổ tiên của người Khmer xã Mỹ Hòa,
huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, Khóa luận tốt nghiệp, Chuyên ngành Văn hóa
Khmer Nam Bộ, Trường Đại học Trà Vinh.
15. Trần Quốc Vượng (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxh Giáo dục.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×