ĐẠI HỌC HUÊ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGƯ
============
NGÔN NGƯ HỌC ĐỐI CHIẾU
ĐỀ TÀI:
ĐỚI CHIẾU BÀI THƠ SĨNG CỦA NHÀ THƠ XN QUỲNH
VỚI BẢN DỊCH TIẾNG ANH
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Ngô Thị Khai Nguyên
Sinh viên thực hiện: Nhóm ZEBRA
1
Bùi Thị Lộc Hà
2
Nguyễn Thúc Phi
3
Hồ Thị Hoàng Phương
4
Lê Phước Hoài Phương
5
Trần Thị Ngọc Tú
6
Trần Quang Vũ
Huế, tháng 12/2017
1|Page
MỤC LỤC
Mục
Trang
A.Đặt vấn đề, giới thiệu
1
B.Nội dung
I. Đối chiếu về hình thức
3
II. Đối chiếu về nội dung và nghệ thuật
1.
2.
3.
Các biện pháp tu từ
Cách dùng từ
Khả năng biểu đạt sắc thái
5
9
13
C.Kết luận
17
D.Tài liệu tham khảo
19
A. Đặt vấn đề, giới thiệu:
Có thể nói, đối với các thi sĩ, tình u mãi luôn là đề tài muôn thuở, khơi dậy
những thi vị đậm chất tình, chất ý. Phải chăng con người sinh ra trên cõi đời luôn
mong được sống trọn hai chữ an yên và một chữ yêu. Đấy là tình yêu gia đình, tình
yêu đất nước, quê hương, tình yêu bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp và tình u lứa đơi?
Như Chris Fox và Rosalind Combley đã nói: “Yêu là trạng thái tình cảm của chủ thể
này đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và được nảy sinh từ sự hấp
dẫn về giới.” Còn theo từ điển tiếng Việt (2010), “u” có nghĩa là tình cảm thắm
thiết dành riêng cho một người khác giới nào đó, muốn chung sống và cùng nhau gắn
bó cuộc đời.
2|Page
2|Page
|
Trong cuộc sống đời thực hay bước vào thơ ca, tình u nói chung và ở phương
diện hẹp hơn là tình u nam nữ, ln là ngọn gió tràn trề sức sống, thổi hồn cho
những tình yêu được thăng hoa và hạnh phúc được chắp cánh. Dẫu rằng tình yêu
cũng như cuộc đời không phải lúc nào cũng là thảm đỏ đầy hoa nâng bước ta mà lắm
lúc cũng là sóng gió, tan vỡ đau thương, cũng là những nốt trầm bổng, có lúc hạnh
phúc, tin yêu đong đầy nhưng cũng lắm khi khổ đau, vương đầy trong tim. Nhưng
dẫu là hạnh phúc hay khổ đau điều quý giá mà ta luôn nhận ra, tin tưởng là ta đã yêu
và đã được yêu để rồi vươn mình đứng dậy sau những giọt nước mắt, khóc cho một
thời an yên, hạnh phúc nay đã xa tầm với.
Chỉ xét trên bình diện ngơn từ khơng thơi cũng cho thấy thơ ca có sức mạnh của
tâm hồn, có thể dời núi, tát cạn biển, lay động lịng người. Ví như những vần thơ của
người mẹ hát ru cho những đứa con bên cánh võng. Những lời thơ như dịng sữa mẹ
dịu ngọt ni dưỡng con yêu lớn lên cả tâm hồn lẫn thể xác, cho con cái cảm giác n
bình đến trong vịng tay ấm áp, chan chứa yêu thương của mẹ. Xa hơn nữa, ngơn từ
trong thơ ca cịn là nguồn tạo dựng sức mạnh cho cả một tập thể, một cộng đồng và
cả toàn nhân loại chúng ta. Thơ ca là nguồn nội lực chống lại lửa đạn kẻ thù, những
cuộc chiến tranh phi lí và đẫm máu như Edward Bulwer Lytton (1839) đã nói: ‘Words
are mightier than swords.” (Cây bút có nhiều sức mạnh hơn thanh kiếm.)
Trong những trang tình thơ viết về tình u đơi lứa, dẫu là những dịng thơ của
tác giat Việt Nam hay nước ngồi, ta cũng có thể cảm nhận được rõ vị yêu thương,
ngọt ngào, nhưng cũng có khi là giọt nước mắt mặn hoen mi sầu qua ngơn từ giàu
hình ảnh, chan chứa cảm xúc của các nhà thơ.
Và bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một trong những tác phẩm thể hiện về tình
u. “Sóng” là một bài thơ tình u rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ
Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. “Sóng” trong tác phẩm cùng tên của nhà thơ mang hình
ảnh ẩn dụ . Nó là sự hóa thân của cái tơi trữ tình đầy mơ mộng của thi nhân....
2|Page
3|Page
|
Vì những lí do trên, nhóm chúng tơi chọn đề tài: “SO SÁNH BÀI THƠ “SÓNG”
GIỮA BẢN GỐC CỦA XUÂN QUỲNH VÀ BẢN DỊCH TIẾNG ANH.”
1. Giới thiệu tác giả
Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi
tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ
tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa... Bà được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng
Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh vì những thành tựu cho nền văn học nước
nhà.
Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La
Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là quận Hà Đông, Hà Nội). Xuất
thân trong một gia đình cơng chức, mẹ mất sớm, bố thường xun cơng tác xa gia
đình, bà được bà nội ni dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.
Tháng 2 năm 1955, Xn Quỳnh được tuyển vào Đồn Văn cơng nhân dân Trung
ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài
và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Viena (Áo).
Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ
(khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong, làm việc tại báo Văn nghệ,
báo Phụ nữ Việt nam. Xuân Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành
Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch,
nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xn Quỳnh kết hơn lần đầu tiên với một nhạc
cơng của Đồn Văn cơng nhân dân Trung ương và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc
mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
2|Page
4|Page
|
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu
Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương, cùng với chồng
Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.
Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký quyết định số 602
chính thức truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cố nhà thơ
Xuân Quỳnh với hai tập thơ là Lời ru mặt đất và Bầu trời trong quả trứng.
2. Hoàn cảnh ra đời về tác phẩm
Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Sóng” là vào năm 1967. Đó là những năm tháng dân
tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi thanh niên
trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi
khát khao của người con gái trong tình u. Sóng được viết trong chuyến đi cơng tác
vùng biển Diêm Điền. Trước khi sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ
vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân
Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
B.Nội dung
I. Đối chiếu về hình thức:
Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ bà là tiếng lịng của một
tâm hồn ln ln khao khát tình u, gắn bó hết mình với cuộc sống hàng ngày, trân
trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc đời thường. Trong các nhà thơ nữ Việt
Nạm, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu. Bà viết nhiều, viết
hay về tình yêu nhưng có lẽ Sóng là bài thơ đặc sắc hơn cả. Bởi nó nói lên được một
2|Page
5|Page
|
tâm hồn khao khát yêu đương, một tình yêu vừa hồn nhiên chân thật, vừa mãnh liệt,
sôi nổi của một trái tim phụ nữ.
Tình u là đề tài mn thuở của thi ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình yêu
với tất cả sự nồng nhiệt của một trái tim tuổi trẻ. Ta bắt gặp một Xuân Diệu nồng nàn,
đắm say và khát khao dâng hiến cho tình u, một Nguyễn Bính mơ màng tìm về tình
u đồng nội, một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái duyên con gái… nhưng chỉ
đến Xuân Quỳnh, cái khát vọng rất đỗi đời thường của con người đó mới được bộc
bạch, mà bộc bạch một cách chân thành như chính cuộc đời nhà thơ vậy: một thứ tình
yêu vừa phong phú, phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo
rực, đang khao khát yêu đương.
Tình yêu thường cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim
đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi
thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả khơng gian. Một nỗi nhớ cịn cào, da diết, khơng thể
nào n, khơng thể nào ngi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền
miên, vơ hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất,
dào dạt, hăm hở, náo nức nhất, mãnh liệt nhất là ở đoan thơ này:
Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được
Bài thơ sóng bản gốc được viết theo thể thơ năm chữ - phù hợp với việc diễn tả cảm
xúc như những con sóng miên man vô hồi vô hạn, lúc trầm tư dịu dàng lúc dạt dào dữ
dội. Cùng với nhịp thơ 2/3, 3/2 dồn dập cùng sự sáng tạo khi mượn hình ảnh sóng để
diễn tả cung bậc cảm xúc cũng như quy luật của tình u, "SĨNG" đã để lại dư âm
vang mãi trong lịng người đọc. Và có thể bài thơ có sức ảnh hưởng lớn đến ngày nay
cũng vì lẽ đó. Trong khi đó, bản dịch được viết theo thể thơ tự do, nhịp thơ 2/2/2/2
2|Page
6|Page
|
(Iambictetrameter) có vẻ dồn dập hơn bản gốc đã đẩy nhanh tốc độ của bài thơ cũng
như những con sóng.
“Dữ dội và dịu êm;
Ồn ào và lặng lẽ.
Sóng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.
Ơi con sóng ngày xưa
“They rage and rave, caress and soothe;
Và ngày sau vẫn thế.
they shout and roar, lie still or hushed.
Nỗi khát vọng tình yêu
The stream can't understand its waves -
Bồi hồi trong ngực trẻ…”
they leave and find their way to sea.
Ta thấy số câu của hai bản này giống
nhau, nhưng số chữ trong một câu và Oh, waves of yesterdays and waves
nhịp điệu lại khác nhau. Ở bản gốc ý thơ of afteryears! They're all alike.
cơ đọng hơn, gợi hình hơn cịn ở bản
The tides of thirst and lust for love
dịch, ý thơ sẽ dàn trải hơn, dễ hiểu hơn.
arouse such turmoil in young breasts…”
II. Đối chiếu về nội dung và nghệ
thuật
1.
Các biện pháp tu từ:
Khi nhắc đến sự thành công trong nghệ thuật của bài thơ “ Sóng”- Xn Quỳnh,
khơng thể nào khơng nhắc đến các biện pháp tu từ. Nó là một trong những yếu tố
quan trọng tạo nên sự thành công của bài thơ. Ở bản gốc, mở đầu bài thơ là sự kết
hợp của nghệ thuật đối. Xuân Quỳnh sử dụng những từ ngữ đối lập nhau : “ dữ dội,
2|Page
7|Page
|
dịu êm” và “ ồn ào, lặng lẽ” đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng. Những lúc
bão tố thì con sóng sẽ vơ cùng “ dữ dội - ồn ào ”, tuy nhiên lúc những cơn bão qua đi
thì nó vơ cùng “ dịu êm - lặng lẽ”. Ở bản dịch sang Tiếng Anh,Huỳnh Sanh Thông
cũng đã sử dụng những cặp từ trái nghĩa nhau như: “ rage and caress” , “ rave and
smoothe” hay “ shout and roar ”, “lie and hushed” để thể hiện được con sóng ở những
trạng thái khác nhau. Bên cạnh những từ ngữ đối lập, nhà thơ còn sử dụng những cặp
từ tương xứng nhau : “ Con sóng dưới lịng sâu” - “ Con sóng trên mặt nước” ; “ Dẫu
xuôi về phương Bắc” – “ Dẫu ngược về phương Nam” ; “ Ơi con sóng ngày xưa” – “
Và ngày sau vẫn thế”. Mặc dù trật từ trong câu có sự thay đổi nhưng bản dịch vẫn
đảm bảo được dụng ý của tác giả bằng cách sử dụng câu có chứa các từ ngữ đối lập:
“Oh, waves of yesterdays and waves” - “of after years! They're all alike ”; “ Waves in
the bowels of the sea” - “Waves on the surface of the sea” ; “I may set off and head
straight North” – “ or face about and move down South”. Nghệ thuật tương xứng ấy
đã tạo ra sự xưng hơ, nhấn nhá, đuổi bắt. Nó gây cho ta cảm giác đến với con sóng
như đang đứng trước đại dương mênh mơng. Trong mỗi đợt sóng có hàng trăm con
sóng nhỏ gối đầu lên nhau, đuổi bắt nhưng lại có chung một mục đích là hướng về
bờ. Xn Quỳnh đã sử dụng một cách hoàn hảo biện pháp ẩn dụ. Chính là tâm trạng
của người con gái khi yêu. Tình u của người phụ nữ khơng chịu n định mà luôn
đầy những khao khát, biến cố. Tác giả mượn hình ảnh con sóng để thể hiện nhịp lịng
của chính mình. Ln u một cách nồng nhiệt, cháy bỏng, sẽ có những lúc vơ cùng
giận dữ với những sự ghen tng vơ cớ tuy nhiên có lúc họ lại thu mình trở về với
chất nữ tính đáng u. Cả bản dịch và bản gốc đều thể hiện rất rõ nét nghệ thuật này.
“The stream can't understand its waves
They leave and find their way to sea.”
2|Page
8|Page
|
Hai câu thơ tiếp trong bản dịch đã thể hiện rất rõ biện pháp nhân hóa để nói đến
hành trình đi tìm tình u của con sóng. Ba hình ảnh “ the stream” , “ Waves “ và “
Sea” như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ
thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mông vô tận. Sóng khơng chịu
một cuộc sống chật hẹp, tù túng nên nó làm một cuộc hành trình ra biển khơi bao la
để thỏa sức vùng vẫy. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát
khao một khơng gian lớn lao. Hnahf trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tang,
bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Tình u của Xuân Quỳnh cũng
vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một không gian nhỏ
hẹp và phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp, tầm thường để được sống với tình
yêu cao cả, bao dung, rộng lớn. Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình u để được
sống với chính mình.
Ở khổ thơ thứ hai, Xuân Quỳnh tiếp tục sử dụng nghệ thuật đối “ ngày xưa- ngày
nay”; “ yesterdays – afteryears” càng làm tơn thêm nét đáng u của con sóng. Sóng
mn đời vẫn thế, vẫn cứ dữ dội và dịu êm như tình u của tuổi trẻ ln khát khao
và ln mơ ước. Tiếp theo, tác giả sử dụng một loại câu hỏi tu từ và những từ để hỏi.
Từ nơi nào sóng lên?
"Sóng bắt đầu từ gió."
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa:
Khi nào ta yêu nhau?
2|Page
9|Page
|
……………
Trăm nghìn con sóng đó:
Con nào chẳng tới bờ
…..……….
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ.
Và bản dịch, cũng đã sử dụng một loạt các câu hỏi và các từ để hỏi tương tự:
Where did those billows all arise?
"It was with winds that waves began."
But where did they begin, the winds?
Neither do I remember now:
When did it all begin, our love?
……………………
Behold them all, those waves and waves:
Which ones will flinch from that broad space
And fail to reach their shore?
2|Page
10 | P a g e
|
……………………
Oh, how to make the heart dissolve
And be a hundred little waves
That borne upon the sea of love
Forever lap against the shore.
Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu và bộc bạch một cách hồn
nhiên, chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi muôn đời ấy trong tình u:
“Em cũng khơng biết nữa - Khi nào ta yêu nhau”. Đây là một cách cắt nghĩa về tình
yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa rất nữ tính, rất trực cảm . Lí giải được ngọn
nguồn của sóng thì dễ bởi “ Sóng bắt đầu từ gió ” nhưng để hiểu “ Gió bắt đầu từ đâu
” thì thi nhân lại ấp úng “ Em cũng khơng biết nữa”. Cũng như tình u của anh và
em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi tình u đến trong đời khơng báo động . Câu
thơ “ Em cũng không biết nữa” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân
vân. Đến câu hỏi “ Khi nào ta yêu nhau” thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng và băn
khoăn. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này mn
đời khơng ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái.
Tình u là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Chính vì khơng thể lí giải rõ ngọn ngành
nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho mn người đi tìm và khám
phá. Tình u khơng có tuổi cũng như xn khơng ngày tháng. Tình u là một ẩn số
giữa hai thế giới tâm hồn chứa đầy bí mật. Những tâm hồn bí mật ấy ln khao khát
giao hịa, khao khát khám phá nhưng lại khơng lý giải nổi tình u. Bởi tình u là
bài tốn chưa có lời giải đáp, tình u như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình yêu
2|Page
11 | P a g e
|
ln đẹp, ln mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu “ Em cũng không biết
nữa/ Khi nào ta yêu nhau”.
Xét về các biện pháp tu từ, bản dịch sang Tiếng Anh vẫn giữ được những nét đặc
trưng của bản gốc. Bản dịch vẫn thể hiện rõ các biện pháp tu từ như nhân hóa, so
sánh, ẩn dụ và nghĩa của bài thơ vẫn có nhiều nét tương đồng.
2.
Cách dùng từ:
Bài thơ Sóng thể hiện rõ ràng nét tài tình, sự đặc biệt trong cách dùng từ của
Xuân Quỳnh qua cách dùng một loạt các từ láy và các từ trái nghĩa. Trong hai câu thơ
mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng
biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thơng thường đứng giữa những cặp tính
từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây nhà
thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng,
cộng thêm, nối tiếp.
Trong bản dịch thơ tiếng Anh, người dịch dùng cặp từ “rage – rave” để diễn tả từ “dữ
dội” và cặp từ “caress – soothe” cho “dịu êm”, tương tự như vậy “shout – roar”: ồn
ào, “lie still – hushed”: lặng lẽ. Người dịch dùng 2 từ đồng nghĩa để bổ sung ý nghĩa
cho nhau, giúp cho bản dịch hoàn thiện và mang đầy đủ nghĩa nhất. Qua đó giúp
người đọc hình dung được trạng thái, đặc điểm của sóng biển, đồng thời thể hiện
được trạng trái, tình cảm của người phụ nữ khi yêu.
Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại
trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa
đựng sự lặng lẽ. Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái
đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ
2|Page
12 | P a g e
|
khơng hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sơi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ,
kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen…
They rage and rave, caress and soothe;
they shout and roar, lie still or hushed.
Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta
thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật
hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”.
Động từ “tìm” được dịch bằng từ “find”, nghĩa của từ lúc này được dịch cực kì sát và
gần nghĩa.
Như vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn
có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để
khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này.
The stream can't understand its waves they leave and find their way to sea.
Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xưa” cho
đến tương lai “ngày sau” con sóng vẫn ln chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn
luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn
thế” một lần nữa biểu đạt một chân lí khơng bao giờ đổi thay.
Phó từ “alike” được dịch là như nhau, chưa thật sự thể hiện được hết ý của tác giả,
trong khi “vẫn thế” thể hiện sự khơng đổi thay, tình u trước sau như một.
Oh, waves of yesterdays and waves
of afteryears! They're all alike.
2|Page
13 | P a g e
|
Từ láy “bồi hồi” là trạng thái tâm hồn bất định, nó đã khắc họa thật rõ ràng những
nét cảm xúc, ở đó có cái nơn nao, xao xuyến; có nỗi khắc khoải,da diết của tình u
mn đời vĩnh hằng trong “ngực trẻ”. “Turmoil” chưa thật sự nói lên được trạng thái
tình yêu của người con gái, người phụ nữ khi yêu.
The tides of thirst and lust for love
arouse such turmoil in young breasts.
Một lần nữa, Xuân Quỳnh cho thấy được cách dùng từ độc đáo của nữ thi sĩ, Xn
Quỳnh dùng chữ “lịng” rất tinh tế, bởi đó là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người,
nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xn Quỳnh nói “lịng em nhớ”
nghĩa là chị đã phơi bày tất cả tấm chân tình của mình để dốc hết yêu thương mà gửi
về người mình yêu. Nỗi nhớ khơng chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn
gắn với tiềm thức - thời gian trong mơ. “Lịng em” dịch là “my heart”, thật khó cho
dịch giả để mà tìm một từ khác gần nghĩa hơn, Việt Nam có thành ngữ “ghi lịng tạc
dạ”, do sự khác nhau trong văn hóa nên dịch giả chọn “my heart” là hợp lí nhất.
My heart just longs for you, my love,
and while it dreams stays wide-awake.
Một loạt từ láy Xuân Quỳnh sử dụng như là dữ dội, ồn ào, lặng lẽ, bồi hồi, các từ láy
đã gợi lên hình ảnh, âm thanh của con sóng trên đại dương đồng thời là sóng vỗ trong
lịng của người con gái khi u.
Các cặp từ trái nghĩa như là dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, xuôi – ngược, ngủ thức, Bắc – Nam thể hiện trạng thái đối nghịch khi yêu, những trắc trở gập ghềnh
trong tình yêu xa cách.
“Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” thật khó cho dịch giả để tìm ra
được từ tiếng Anh tương đương với từ láy. Trước hết từ láy mang trong mình những
2|Page
14 | P a g e
|
đặc trưng có tính chất loại hình của tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ đơn lập khác ở
phương Đông. Đây là một hiện tượng đặc trưng cho loại hình ngơn ngữ đơn lập, phân
tích khơng phải ngơn ngữ nào cũng có. Chính các phương thức láy ở các ngơn ngữ
này đã giúp cho từ láy có sức phát sinh cao và lực cấu tạo mạnh. GS Đỗ Hữu Châu
khẳng định “láy là một phương thức tạo từ đặc sắc của TiếngViệt”.Từ một hình vị
gốc, chúng ta có thể tạo ra nhiều từ có sắc thái ý nghĩa khácnhau.Ví dụ từ hình vị gốc
là “nhỏ” có những từ láy sau nhỏ nhỏ, nhỏ nhen, nhỏ nhặt, nhỏ nhắn. Đây là một
phương thức tạo từ đóng vai trị lớn trong tiếng Việt, góp phần làm phong phú thêm
vốn từ vựng của chúng ta. Tóm lại, bản dịch đã truyền tải được đầy đủ tinh thần, nội
dung của tác phẩm, đem đến cảm nhận gần gũi, chân thật nhất đối với người đọc.
3.
Khả năng biểu đạt sắc thái:
Xuân Quỳnh đã thay lời tất cả những trái tim trẻ bộc lộ nỗi lòng mình bằng
những trạng thái tình cảm khác nhau thơng qua những con sóng. Khi dữ dội mãnh
liệt, khi dịu êm trầm lắng, khi ồn ào nhấp nhơ, có lúc lại âm thầm lặng lẽ, những
tình cảm tưởng chừng như mâu thuẫn, đối lập nhau trong trái tim của người phụ
nữ nhưng lại mang theo tất cả những đặc điểm và trạng thái tâm lí đang khao khát
tình u.
Sóng – là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của nhân vật
“Em”.
Xun suốt bài thơ “Sóng” gồm 9 khổ thơ với tổng số 38 câu thì bài thơ có 1
âm điệu rất đặc biệt. Nó chính là âm thanh của tiếng sóng. Như ta đã biết, mỗi 1
bài thơ hay thường tác động đầu tiên đến với độc giả bạn đọc là nhờ âm điệu. Khi
nội dung ta cịn chưa biết rõ thì âm điệu của bài thơ đã xâm nhập hồn ta tự bao
giờ. “Sóng” của Xuân Quỳnh có 1 âm điệu rất đẹp: khi trầm khi bổng, khi thăng
khi giáng, lúc thì dồn dập khi thì mênh mang. Có được âm điệu đặc biệt này bởi
Xuân Quỳnh sử dụng rất thành công thể thơ ngũ ngơn liên hồn. Đây là 1 thể thơ
2|Page
15 | P a g e
|
giàu nhạc điệu, giàu vần điệu nhưng rất khó sử dụng. Do đó, đây cũng là một bất
lợi cho bản dịch tiếng anh, khi mà đem thể loại thơ này biến tấu hoàn chỉnh và
tương hợp với bản gốc.
Ở khổ thơ thứ nhất, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã nảy nhịp khá linh hoạt. Nếu 2 câu thơ
đầu nảy nhịp theo thể 2 – 3:
“Dữ dội/và dịu êm
Ồn ào/và lặng lẽ”
Ở 2 câu thơ sau, nhịp thơ hoàn toàn thay đổi. Nó có thể là 1 – 4, có thể là 3 – 2:
“Sơng/khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra/tận bể”
Chính cách ngắt nhịp đột ngột này đã tạo nên âm điệu rất đẹp cho bài thơ. Thế là
hình tượng sóng dần dần lộ mình ra, ló mình ra qua âm thanh của tiếng sóng.
Để có được âm điệu này, Xuân Quỳnh đã tỏ chức ngôn ngữ của bài thơ theo nghệ
thuật tương xứng. Ta bắt gặp những vế câu tương xứng với nhau: “Dữ dội” tương
xứng với “dịu êm”, “Ồn ào” tương xứng với “lặng lẽ”. Đó cịn là sự tương xứng
giữa các cặp câu: “Con sóng dưới lịng sâu” tương xứng với “con sóng trên mặt
nước”, “Dẫu xi về phương Bắc” tương xứng với “Dẫu ngược về phương Nam”,
“Ôi con sóng ngày xưa” tương xứng với “Và ngày sau vẫn thế”.
Nghệ thuật tương xứng ấy đã tạo ra sự hô ứng, nhấn nhá, luyến láy, đuổi bắt. Nó
gây cho ta cảm giác đến với “Sóng” như đang đứng trc đại dương mênh mong.
Mỗi 1 khổ thơ là 1 đợt sóng. Trong mỗi đợt sóng có trăm ngàn con sóng nhỏ gối
lên nhau, đuổi bắt nhưng đều có chung 1 khát vọng đó là hướng về bờ anh.
Dẫu xi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh: một phương.
I may set off and head straight north
Or face about and move down south
No matter where I go, my thoughts
All turn in one direction: you
2|Page
16 | P a g e
|
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
Đễ ngàn năm cịn vỗ.
Oh, how to make the heart dissolve
And be a hundred little waves
That borne upon the sea of love
Forever lap against the shore.
Ở hai khổ thơ này, ta có thể thấy được bản dịch khơng thể diễn tả được nỗi
niềm nhung nhớ hay cả sự thơi thúc muốn hồ quyện vào tình u cũng như biển
cả của cả nhân vật “em” và con sóng, trong khi bản gốc lại có thể biến hố đem
đến cho ta cảm giác da diết nhớ thương của một cô gái qua hình ảnh con sóng và
ngược lại. Chữ “ Xuôi” và “ Ngược ” bộc lộ sự tha thiết hướng về nỗi niềm
thương nhớ, mong muốn ở bên người mình yêu, êm đềm nhẹ nhàng thì tốt mà
trắc trở ghập ghềnh cũng không sao. Nhưng ở bản dịch, ta lại không thấy sự tha
thiết này, cái thương nhớ dồn dập này.
Từ “thức” trong câu “Cả trong mơ còn thức” là một sáng tạo độc đáo của
Xuân Quỳnh đế diễn tả sự thao thức, không nguôi của tâm trạng, một trái tim đang
rạo rực, thốn thức và khao khát tình yêu.
Với bản dịch “and while it dreams stays wide-awake” chỉ đơn giản thể hiện sự
nhung nhớ mãi sâu trong tiềm thức, bất kể là ở hiện thực hay là giấc mơ chứ
không thể hiện được sự thao thức hay rạo rực ở bản dịch
Cuộc đời tuy dài thế,
Năm tháng vẫn đi qua.
Như biển kia dẫu rộng,
Mây vẫn bay về xa.
Though life's a long, long haul,
The months and years do pass away.
However vast that sea may be,
2|Page
17 | P a g e
|
The clouds will cross it going home.
Ở khổ thơ trên, ta thấy được sự chấp nhận và vượt qua trắc trở và khoảng cách của
sóng và “em” qua ba từ “ tuy ” “ thế ” và “ dẫu ”, gợi lên được hình ảnh ung dung
tự tại và thướt tha mặc cho gian nan vẫn khơng thể xố bỏ khát khao mãnh liệt tìm
về nơi chốn hạnh phúc của “ em ” và “sóng”. Nhưng ở bản dịch, hầu như ta
không thể thấy được những điều khát khao ấy, ta chỉ thấy được sự đơn sơ mộc
mạc của những câu từ phản ánh ý nghĩa của nó chứ khơng có sự thơi thúc và quyết
liệt ở bản dịch.
Khi đọc bản gốc, âm điệu của những con sóng cũng như hình ảnh của nó khơng
những đong đầy trong tâm trí cịn tạo nên sự du dương hài hồ giữa tình cảm của
nhân vật “em” và con sóng. Cịn ở bản dịch, tuy rằng đã được chuyển dịch rất sát
so với bản gốc nhưng do sự hình thành ngơn ngữ cũng như sự thiếu đa dạng trong
âm tiết và ý nghĩa từ vựng nên bản dịch không mang lại được hiệu quả như bản
gốc.
C.Kết luận:
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của
nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những
cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hồn cảnh ấy ta mới càng thấy
rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình u.
Tóm lại, bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công
của bài thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập… nhất là
thể thơ ngũ ngơn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn. Tất cả
đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình
u. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt
2|Page
18 | P a g e
|
Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân
Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình u lứa đơi, chị đã làm phong phú hơn
cho nền thơ ca nước nhà. Hình tượng sóng cho ta nhiều ấn tượng. Âm điệu, nhịp điệu
của sóng, cũng là giọng điệu tâm tình, nhạc điệu của bài thơ. Thể thơ ngũ ngôn liền
mạch, phong phú về vần điệu, trong sáng trong biểu cảm, lúc bồi hồi tha thiết, lúc day
dứt bồn chồn, lúc mạnh mẽ ồn ào, đã gợi lên trong lòng người đọc sự liên tưởng sóng
trên đại dương cũng là sóng vỗ trong lòng người con gái đang yêu. Cái hay của bài
thơ chính là ở âm điệu nồng nàn ấy.
2|Page
19 | P a g e
|
D.Tài liệu tham khảo:
Thong, H.S. (1996). DỊCH THƠ SANG ANH NGỮ. Retrieved from
/>WAVES
They rage and rave, caress and soothe;
they shout and roar, lie still or hushed.
The stream can't understand its waves they leave and find their way to sea.
Oh, waves of yesterdays and waves
of afteryears! They're all alike.
The tides of thirst and lust for love
arouse such turmoil in young breasts.
Before those waves which stir the sea,
2|Page
20 | P a g e
|
I think of you, think of myself.
I muse upon the boundless sea:
where did those billows all arise?
"It was with winds that waves began."
But where did they begin, the winds?
Neither do I remember now:
when did it all begin, our love?
Waves in the bowels of the sea,
waves on the surface of the sea all waves are homesick for their shore,
so sleep eludes them day and night.
My heart just longs for you, my love,
and while it dreams stays wide-awake.
I may set off and head straight north
or face about and move down south no matter where I go, my thoughts
all turn in one direction: you.
2|Page
21 | P a g e
|
Far, far out there, upon the sea,
behold them all, those waves and waves:
which ones will flinch from that broad space
and fail to reach their shore?
Though life's a long, long haul,
the months and years do pass away.
However vast that sea may be,
the clouds will cross it going home.
Oh, how to make the heart dissolve
and be a hundred little waves
that borne upon the sea of love
forever lap against the shore.
Translated by Huỳnh Sanh Thông
2|Page
22 | P a g e
|
2|Page
23 | P a g e
|