TIỂU
LUẬN TÀI
CHÍNH
QUỐC TẾ
Đề tài: “Chính
sách tỷ giá Trung
Quốc giai đoạn 2011 – 2016 và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam”
Lớp: TCNH 23A
Số thứ tự
14
24
25
18
31
Họ và tên
Nguyễn Khánh Hà
Trần Thị Diệu Huyền
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lê Thị Hiền
Đỗ Trang Linh
Mã số HV
1606030023
1606030036
1606030037
1606030027
1606030046
Hà Nội, tháng 5/2017
LỜI MỞ ĐẦU
Là một trong những cường quốc lớn của kinh tế thế giới, có thể thấy mỗi động thái
của kinh tế Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng ít nhiều đến kinh tế các nước trong khu vực nói
riêng, và kinh tế thế giới nói chung. Đồng Nhân dân tệ hiện cũng đã được đưa vào rổ
những đồng tiền dự trữ của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, điều này càng nhấn mạnh hơn tầm
ảnh hưởng của quốc gia sở hữu đồng Nhân dân tệ trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc gây
ra rất nhiều tranh cãi, nổi bật nhất là vấn đề phá giá đồng nội tệ nhằm hỗ trợ kinh tế trong
nước và tăng trưởng thặng dư thương mại.
Vậy để làm rõ chính sách tỷ giá của Trung Quốc đã thay đổi như thế nào, biện pháp
thay đổi chính sách là gì, mục đích của việc thay đổi chính sách và tác động đến các nền
kinh tế ra sao, Nhóm chúng em thực hiện tiểu luận nghiên cứu về “Chính sách tỷ giá
Trung Quốc giai đoạn 2011 – 2016 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”. Nhóm trình
bày bài tiểu luận với kết cấu 3 phần:
1. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc giai đoạn 2011-2013
2. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc giai đoạn 2014-2016
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trước hết, cùng lược qua lịch sử chính sách tỷ giá của quốc gia này giai đoạn trước
năm 2011
1. Trước năm 1978
Từ 1955 – 1972, quốc gia này chỉ áp dụng một tỷ giá. Vào thời kỳ này, đồng Nhân dân
tệ được định giá quá cao so với giá trị thực (CNY1.5/USD) dẫn đến những yếu kém trong
xuất khẩu.
2. Năm 1979 – 1980
Tỷ giá được giữ cố định CNY2/USD
3. Giai đoạn 1981 – 1985
Trung Quốc bước đầu thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ. Đồng Nhân dân tệ bắt
đầu hạ giá từ CNY2/USD lên tới CNY3/USD.
4. Giai đoạn 1986 – 1990
Tiếp tục với chính sách thả nổi đồng Nhân dân tệ, CNY tiếp tục được phá giá cao, từ
CNY3/USD lên tới xấp xỉ CNY4/USD.
5. Giai đoạn 1991 – 1993
Chính sách thả nổi bắt đầu mang lại hiệu quả nhất định, đồng Nhân dân tệ tiếp tục
được hạ giá với biên độ rộng, từ CNY4/USD lên tới xấp xỉ CNY6/USD.
6. Giai đoạn 1994 – 1997
Đây là giai đoạn Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá phá giá mạnh đồng Nhân dân
tệ, đồng Nhân dân tệ phá giá với biên độ mạnh từ CNY5.8/USD lên tới CNY8.7/USD.
7. Giai đoạn 1998 – 2004
Giai đoạn này, chính sách tỷ giá duy trì ổn định nhẹ đồng Nhân dân tệ tiếp tục phát
huy tác dụng. Tỷ giá luôn được giữ ở mức CNY8.5/USD với biên độ giao động nhỏ. Nhờ
đó mà những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á 1997 đến nền
kinh tế Trung Quốc ít nghiêm trọng hơn.
8. Năm 2005
Tháng 7/2005, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng giá đồng
Nhân dân tệ. Sau đó, NHTW tiến hành cải cách tỷ giá, cho phép thả nổi với biên độ 0.3%
so với tỷ giá chính thức của NHTW. Đồng Nhân dân tệ đã lên giá 3.12% kể từ khi thực
hiện chính sách này. Trong cả năm 2005, tỷ giá luôn ở trên mức CNY8/USD.
9. Giai đoạn 2006 – 2009
Với cam kết điều chỉnh tăng tỷ giá, Trung Quốc tiếp tục tăng giá đồng Nhân dân tệ. Tỷ
giá CNY/USD bước đầu tăng giá, từ CNY8.27/USD xuống còn CNY6.8/USD vào năm
2009.
10. Năm 2010
Ngày 22/6/2010, do sức ép tại Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển
và đang phát triển G20, Trung Quốc đã thực hiện bước đi đầu tiên trong cam kết linh hoạt
giá đồng Nhân dân tệ. Theo đó, NHTW Trung Quốc đã xác lập tỷ giá hối đoái tới mức
CNY6.798/USD, tăng 0.43% so với mức CNY6.78275/USD ngày 21/6/2010. Đây là
mức cao nhất kể từ khi Trung Quốc định giá lại đồng Nhân dân tệ vào tháng 7 năm 2005.
1. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc Giai đoạn 2011-2013
1.1 Toàn cảnh kinh tế của Trung Quốc 2011 - 2013
Nguồn: Investing.com
Theo biểu đồ Shanghai Composite Index của Trung Quốc giai đoạn 2011-2013 có
thể thấy nền kinh tế của Trung Quốc đã tăng trưởng chậm lại.
Năm 2011, GDP của Trung Quốc tăng trưởng 9.2%, tốc độ tăng trưởng theo quý
liên tục giảm, quý I là 9.7%; quý II là 9.5%; quý III là 9.1% và quý IV là 8.9%, những
động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm sút. Đầu tư cho cơ sở hạ
tầng, tốc độ tiêu thụ ôtô và nhà ở thương mại đều giảm. Năm 2011 là một năm khó khăn
chung của kinh tế thế giới, các đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc là EU, Mỹ và
Nhật Bản hồi phục rất chậm, đặc biệt là EU lâm vào khủng hoảng nợ cơng trầm trọng…
tình hình này làm ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của Trung Quốc. Trong 2011, thặng dư
thương mại của Trung Quốc có xu hướng thu hẹp, chỉ chiếm 2% GDP và chưa đến 4.3%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Cả năm 2011, tỷ lệ đóng góp trong tăng trưởng GDP của xuất
khẩu ròng còn âm (-5.8%). Về lạm phát, theo số liệu của Cục Thống kê nhà nước Trung
Quốc tính chung cả năm CPI tăng 5.4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với
mục tiêu đề ra là 4%.
Trong năm 2012, GDP của Trung Quốc tăng 7.8% và đạt 51,932.2 tỷ Nhân Dân tệ
(NDT). Đây là mức thấp so với những năm qua, nhưng cũng là một năm khá thành công
của nước này. Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng CPI tăng 2.6%, trong đó, giá thực phẩm tăng
4.8%. Dự trữ ngoại tệ vào cuối năm 2012 là 3,311.6 tỷ USD, tăng 130.4 tỷ USD so với
cuối năm 2011. Cùng với diễn biến của tình hình kinh tế thế giới, quan điểm chính
sách của Trung Quốc chuyển từ “Duy trì kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh”
(2010), “Ổn định kinh tế, điều chỉnh kết cấu, khống chế lạm phát” (2011) sang “Ổn định
cầu tiến” (2012).
Năm 2013, GDP đạt 56,884.5 tỉ NDT, tăng trưởng 7.7%. Đây là mức tăng trưởng
thấp nhất trong 14 năm qua kể từ năm 1999 (tăng trưởng 7.6%). Như vậy, kể từ quý IV2010 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đã liên tục xuất hiện xu thế suy giảm. Trước tình
hình này, việc giữ ổn định tăng trưởng rất được chú trọng, bởi lẽ nếu tăng trưởng khơng
ổn định thì việc làm khơng ổn định, xã hội cũng vì thế mà có thể trở nên khơng ổn định,
vì vậy Chính phủ Trung Quốc luôn đặt "ổn định tăng trưởng" lên hàng đầu trong phương
hướng điều tiết vĩ mô năm 2013, thậm chí nhấn mạnh “đưa ổn định tăng trưởng lên vị trí
quan trọng hơn nữa”.
Ngay từ quý I/2013, nhà nước Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các biện pháp
chính sách "ổn định tăng trưởng, điều chỉnh kết cấu, thúc đẩy cải cách". Kể từ tháng
7, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đưa ra các “gói kích thích mini” (theo cách gọi của Bank
of America) trên 3 phương diện: (1) Tạm miễn thuế GTGT và thuế thu nhâp doanh
nghiêp cho khoảng 6 triệu doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có doanh thu hàng tháng không
quá 20.000 NDT kể từ 1/8. Cũng từ ngày 1/8, Trung Quốc mở rộng phạm vi thí điểm
trưng thu thuế giá trị gia tăng thay cho thuế thu nhập doanh nghiệp, cả năm sẽ giảm
thuế khoảng 120 tỉ NDT; (2) Nghiên cứu quyết định các biện pháp xúc tiến thương mại
thúc đẩy sự phát triển ổn định của xuất nhập khẩu; (3) Triển khai cải cách thể chế đầu tư,
tài chính vào đường sắt, mở cửa toàn diện thị trường xây dựng đường sắt, mở rộng quyền
sở hữu và quyền kinh doanh trong xây dựng đường sắt, đẩy nhanh xây dựng đường sắt ở
miền Trung, miền Tây và khu vực nghèo đói. Nhờ vậy mà kinh tế đã phục hồi nhẹ trở lại
vào quý III, nhưng quý IV lại giảm và mức tăng trưởng 7,7% cả năm 2013 vẫn là mức
tăng trưởng thấp nhất trong 14 năm qua. Kể từ năm 2010 đến nay GDP của Trung
Quốc đã liên tục suy giảm trong 4 năm liền.
1.2. Biến động tỷ giá và chính sách tỷ giá của Trung Quốc 2011- 2013
Nguồn: Investing.com
Tỷ giá CNY/USD từ giữa 2010 bắt đầu có xu hướng giảm dù trước đó được giữ ổn
định. Hiệu ứng này là do, ngày 22/6/2010, Trung Quốc đã thực hiện bước đi đầu tiên của
mình trong cam kết linh hoạt giá đồng nhân dân tệ. Theo đó, Ngân hàng Trung Ương
Trung Quốc đã xác lập tỷ giá hối đoái mới ở mức 1USD =6.7980 NDT, tăng 0.43% so
với mức 6.8275 của ngày 21/6/2010. Đây là mức cao nhất kể từ khi Bắc Kinh định giá lại
đồng NDT vào tháng 7/2005. Động thái trên được cho là nhằm mục đích giảm bớt bầu
khơng khí căng thẳng tại Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và đang
phát triển (G20) khi đó đang nhóm họp tại Canada. Đến năm 2011, đồng NDT tiếp tục
tăng giá nhưng ở biên độ hẹp khoảng 0.5-1%. Năm 2012, đồng NDT tiếp tục tăng giá và
xu hướng này tiếp tục cho đến đầu năm 2014.
Trước 2010, đã có rất nhiều phản ứng gay gắt từ các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là các quốc gia lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU… cho rằng Trung Quốc theo đuổi chính
sách tỷ giá thấp đồng NDT nhằm mục đích cạnh tranh thương mại giá rẻ. Tuy vậy, đáp lại
những phản ứng mạnh mẽ của các nước khác thì Chính phủ Trung Quốc vẫn cho rằng
đồng NDT đang được định giá đúng với giá trị thực của nó và có khi cịn cao hơn so với
một số đồng tiền khác. Trung Quốc vẫn khẳng định họ không hề chủ ý định giá thấp đồng
NDT và cũng không cạnh tranh thương mại thiếu công bằng.
Mỹ là quốc gia phản ứng mạnh mẽ nhất về việc Trung Quốc định giá thấp đồng
NDT. Với vị thế là nền kinh tế số 1 thế giới, Mỹ luôn thúc ép và gia tăng áp lực lên Chính
phủ Trung Quốc thơng qua các chuyến công du giữa các lãnh đạo của hai nước và trong
các cuộc hội nghị kinh tế quốc tế. Sự căng thẳng và mức độ phức tạp của vấn đề định giá
thấp đồng NDT được đẩy lên đỉnh điểm khi mà thâm hụt thương mại của Mỹ ngày càng
trầm trọng, trái ngược hoàn toàn so với Trung Quốc. Mỹ đã thực hiện một chuỗi các biện
pháp đáp trả nhằm phản đối chính sách tỷ giá của Trung Quốc.
- Ngày 30/3/2010, 130 nghị sĩ Quốc hội Mỹ đã cùng ký tên và đệ trình lên Quốc
hội một đề án nhằm phản đối Trung Quốc thao túng tiền tệ.
- Tháng 3/2010, Mỹ ban hành “Quốc sách xuất khẩu”. Mỹ sẽ hạn chế nhập khẩu
đặc biệt với Trung Quốc và đẩy bộ máy công quyền vào hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu
nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Chính phủ đã lập lên một loạt các hàng
rào bảo hộ hàng hóa trong nước, ngồi việc đánh thuế chống bán phá giá thì bằng các
cơng cụ phi thuế quan như hạn ngạch, các hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật khắt khe đối với
các mặt hàng công nghệ cao, nông sản, thủy hải sản của Trung Quốc… cũng được Mỹ sử
dụng liên tục nhằm hạn chế tối đa không cho hàng hóa Trung Quốc thâm nhập thị trường
Hoa kỳ trong suốt thời gian qua.
- Ngày 9/4/2010, Bộ Thương mại Mỹ đã quyết định đánh thuế chống bán phá giá
từ 30-99% đối với ống thép nhập khẩu từ Trung Quốc thường được sử dụng trong ngành
dầu khí.
- Ngày 15/4/2010, Bộ Tài chính Mỹ dự định đưa Trung Quốc vào danh sách đất
nước “Thao túng tiền tệ”. Ngày 17/11/2010, Tiểu ban tư vấn Quốc hội Mỹ phát hành báo
cáo hàng năm đốc thúc Quốc hội Mỹ đưa Trung Quốc vào danh sách các nước thao túng
tiền tệ và khiếu nại lên WTO chính sách cơng nghiệp bóp méo thương mại của Trung
Quốc.
- Ngày 11/9/2010, Chính phủ Mỹ quyết định đánh thuế mới đối với các mặt hàng
lốp xe cỡ nhỏ và xe tải hạng nhẹ nhập khẩu từ Trung Quốc. Theo đó, mức thuế sẽ được
nâng lên 35% thay cho 4% trước đó. Mức thuế 35% sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày
26/9/2010 và sẽ được áp dụng cho hai năm tiếp theo lần lượt là 30%, 25%.
- Ngày 29/9/2011, Hạ viện Mỹ thông qua dự luật thúc ép Trung Quốc tăng giá trị
nhân dân tệ lên nhanh hơn với tỷ lệ 348 phiếu thuận/79 phiếu chống. Ngày 11/10/2011,
Thượng viện Mỹ thông qua dự luật gây sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng NDT. Thượng
viện Mỹ gọi dự luật này là “Giám sát cải cách tỷ giá hối đoái đồng tiền năm 2011”. Thực
chất dự luật này là nhắm tới đồng NDT với mục đích chính là tác động đến quan điểm
của các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhằm thay đổi chính sách tỷ giá NDT linh hoạt và phù
hợp hơn.
- Ngày 13/3/2012, Tổng thống Obama đã ký thành luật một dự thảo cho phép Bộ
Thương mại áp thuế chống bán phá giá lên các nền kinh tế phi thị trường như Trung
Quốc do trợ cấp cho các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu. Trong đó, có 23 mặt hàng nhập
từ Trung Quốc như: thép, nhôm, giấy, dược phẩm… và được phép áp thuế trợ cấp đối với
tất cả các mặt hàng trong nước cùng loại với hàng hóa từ Trung Quốc nếu hàng hóa
Trung Quốc có dấu hiệu phá giá.
Chuỗi biện pháp phản đối Trung Quốc mạnh mẽ nhất từ phía Mỹ trong nhiều năm
đã cho thấy vấn đề đã không chỉ là các tranh cãi thương mại đơn thuần mà độ ảnh hưởng
của nó đang ngày được nâng lên và làm cho nền kinh tế số 1 thế giới lao đao và có nguy
cơ khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, mặt khác lại cho thấy rằng Mỹ thúc ép Trung
Quốc tăng giá đồng NDT còn mang thêm hơi hướng động cơ chính trị chứ khơng chỉ đơn
thuần là việc thâm hụt thương mại.
Trước những áp lực từ các nước, đặc biệt là Mỹ trong vấn đề tỷ giá, Trung Quốc
đã có những động thái tích cực. Riêng năm 2011, đồng Nhân dân tệ đã tăng giá khoảng
5% so với USD. Ngày 10/2/2012, đồng NDT tăng giá đạt mức cao kỷ lục 1 USD =
6.2937 NDT. Tuy nhiên, ngoài lý do xuất phát từ áp lực của các nước nhằm tránh không
bị cô lập và tẩy chay trong các hoạt động thương mại thì việc Trung Quốc tăng tỷ giá cịn
xuất phát từ chính lợi ích bên trong của Trung Quốc. Thứ nhất, Trung Quốc nắm giữ
khoảng 3000 tỷ USD trái phiếu Mỹ và các giấy tờ có giá khác của nước ngoài nên việc
tăng giá NDT sẽ giúp cho Trung Quốc giảm bớt các rủi ro đối với tài sản mà họ đang nắm
giữ trong bối cảnh lạm phát cao ở Mỹ, EU và sự mất giá của đồng USD với các đồng tiền
khác. Thứ hai, việc tăng giá đồng NDT sẽ giúp cho Trung Quốc kiềm chế được lạm phát
trong nước. Trong năm 2011, nhờ việc tăng giá đồng NDT mà Trung Quốc đã kìm hãm
được lạm phát ở mức một con số.
Sau khi Trung Quốc tăng giá đồng NDT vào tháng 6/2010, vào tháng 03/2011,
Trung Quốc lần đầu có thâm hụt thương mại sau gần 6 năm. Về phía Mỹ, theo cơng bố
của Bộ thương mại Mỹ, tháng 4/2012 thâm hụt thương mại của Mỹ là 46.03 tỷ USD giảm
12.4% so với tháng 3/2012. Đây là mức thâm hụt thấp nhất trong vòng 3 năm kể từ 2009
của Mỹ.
Tuy nhiên, nếu xét về dài hạn thì có thể thấy việc điều chỉnh chính sách đồng NDT
của Trung Quốc là một trong các bước nhằm mục tiêu đưa đồng NDT thành đồng tiền dự
trữ toàn cầu, đồng thời giữ cho nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng trong bối cảnh các
quốc gia khác đang tăng trưởng chậm lại hoặc suy thối. Có thể thấy rõ tham vọng của
chính phủ Trung Quốc đang từng bước đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế số 1 thế
giới với một chiến lược và tầm nhìn dài hạn.
2. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc Giai đoạn 2014-2016
2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội Trung Quốc giai đoạn 2014-2016
Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế Trung Quốc giai đoạn 2014-2016
Năm 2014 kinh tế Trung Quốc tăng trưởng ổn định, GDP cả năm đạt 63,646.3 tỉ
NDT, tăng trưởng 7.4% so với năm 2013. Biên độ tăng giá tương đối thấp. Giá tiêu dùng
dân cư cả năm tăng 2.0% so với năm trước đó. Thu nhập tài chính tăng trưởng ổn định.
Thu nhập tài chính cơng thơng thường cả nước trong cả năm là 14,035 tỉ NDT, tăng thêm
1,114 tỉ NDT, tăng trưởng 8.6%; trong đó thu nhập từ thu thuế là 11,915.8 tỉ NDT, tăng
thêm 862.7 tỉ NDT, tăng trưởng 7.8%. Dự trữ ngoại tệ có tăng, dự trữ ngoại tệ Trung
Quốc tính đến cuối năm 2014 là 3,843 tỉ USD, tăng 21.7 tỉ USD so với cuối năm ngối.
Năm 2014, tỷ giá hối đối đồng NDT bình quân cả năm là 1 USD đổi được 6.1428 NDT,
tăng 0.8% giá trị so với năm trước.
Năm 2015, nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng chậm lại. Trong 6 tháng đầu
năm 2015, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ 7%/năm, mức thấp nhất trong vòng
6 năm qua. Trong tháng 7/2015, dự trữ ngoại hối đã giảm trong tháng thứ ba liên tiếp 43
tỷ USD so với tháng 6, xuống 3.65 nghìn tỷ USD. Dự trữ ở thấp hơn mức kỷ lục được ghi
nhận vào tháng 6/2014 - 343 tỷ USD, mặc dù vẫn ở mức cao nhất trên thế giới. Quý
II/2015 là quý thứ tư liên tiếp Trung Quốc ghi nhận sự suy giảm dự trữ ngoại hối kể từ
mức đỉnh vào năm 2014. Ngoài ra, Trung Quốc đã và đang nỗ lực để đưa đồng NDT vào
rổ tiền tệ SDR do IMF quản lý (IMF xem xét rổ SDR 5 năm một lần và dự kiến biểu
quyết có cho NDT vào rổ này hay khơng vào thời điểm cuối năm 2015). Nếu không
thành công vào 2015, Trung Quốc sẽ phải chờ thêm 5 năm nữa. Một trong những tiêu chí
để được đưa vào rổ SDR là đồng tiền “có thể sử dụng tự do”, và các quan chức IMF đã
kêu gọi Trung Quốc để đồng NDT được điều chỉnh bởi các lực lượng của thị trường.
Động thái của Trung Quốc năm 2015 có thể coi là một bước quan trọng tiến tới cho phép
đồng NDT tự do giao dịch, và tăng khả năng đồng tiền này sẽ được đưa vào rổ SDR.
Năm 2016, dữ liệu chính thức công bố cho thấy nền kinh tế lớn thứ hai trên thế
giới tăng trưởng 6.7% trong năm 2016 nhờ hàng loạt các biện pháp kích thích của Chính
phủ Trung Quốc. Con số này thấp hơn so với mức 6.9% trong năm 2015 nhưng vẫn nằm
trong phạm vi mục tiêu của Bắc Kinh và cao hơn so với các dự báo hồi đầu năm 2016 khi
nỗi lo sợ về đà sụt giảm đột ngột của tốc độ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc bao trùm cả
thị trường toàn cầu. Trong quý IV/2016, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 6.8%, cao
hơn dự báo tăng 6.7% từ các nhà phân tích tham gia cuộc thăm dị của CNNMoney.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các biện pháp kích thích để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong năm 2016. Cụ thể, Chính phủ Trung Quốc gia tăng chi tiêu vào cơ sở
hạ tầng và hoạt động cho vay của ngân hàng cũng nhảy vọt bất chấp các lời cảnh báo về
mức độ nợ doanh nghiệp cao ngất ngưỡng. Các chuyên gia kinh tế cho rằng đất nước này
không thể sử dụng mãi phương pháp này. Họ dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ
giảm xuống 6.5% trong năm 2017.
Như vậy tổng kết lại giai đoạn 2014-2016, nền kinh tế Trung Quốc ghi nhận một
số đặc điểm có ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tỷ giá giai đoạn này như: Xuất
khẩu suy yếu, dự trữ ngoại hối giảm, và mục tiêu đưa NDT vào quyền rút vốn đặc biệt
(SDR) của IMF.
2.2. Mục tiêu chính sách
Giai đoạn 2014-2016, mục tiêu chính sách tỷ giá Trung Quốc là thúc đẩy nền kinh
tế, duy trì tăng trưởng và việc làm, nâng cao quyền lực cho đồng NDT, giúp nước này dễ
dàng thực hiện các mục tiêu ngoại giao và củng cố vai trị trung tâm của họ trên nền kinh
tế tồn cầu
(i) Giai đoạn 2014-2016, nền kinh tế Trung Quốc đang trong thời kỳ khó khăn.
Tăng trưởng đã giảm từ hai chữ số vài năm trước, xuống chỉ còn khoảng 7% năm . Mơ
hình phát triển dựa chủ yếu vào đầu tư và xuất khẩu cũng đã mất tác dụng. Thời điểm
này, đồng nội tệ của các nước đối thủ xuất khẩu của Trung Quốc như đồng Yên của Nhật
Bản và Won của Hàn Quốc mất giá so với đồng USD trong khi đồng NDT tương đối ổn
định, đồng nội tệ Trung Quốc là đồng tiền diễn biến tốt thứ hai tại các thị trường mới nổi
so với USD (Đô la Hồng Kơng được ghi nhận có diễn biến tốt nhất). Đồng nội tệ suy yếu
tương đối sẽ đem lại cho các đối thủ thương mại của Trung Quốc lợi thế trên thị trường
xuất khẩu. Bằng việc cho phép đồng NDT hạ giá, Trung Quốc có thể hỗ trợ các doanh
nghiệp xuất khẩu của mình nâng cao vị thế cạnh tranh. Theo số liệu của Ngân hàng Thế
giới, xuất khẩu chiếm 22% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc trong năm
2014. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu được cải thiện có thể gây tác động lớn tới GDP của
nước này.
(ii) Tăng Dự trữ ngoại hối quốc gia
Phá giá đồng NDT sẽ cho phép Trung Quốc tăng lượng ngoại tệ dự trữ quốc gia.
Trong tháng Bảy năm 2015, dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã giảm trong tháng thứ ba liên
tiếp 43 tỷ USD so với tháng Sáu, xuống 3.65 nghìn tỷ USD. Dự trữ hiện nay ở, thấp hơn
mức kỷ lục được ghi nhận vào tháng Sáu năm 2014 là 343 tỷ USD, mặc dù vẫn ở mức
cao nhất trên thế giới. Quý II/2015 là quý thứ tư liên tiếp ghi nhận sự suy giảm dự trữ
ngoại hối kể từ mức đỉnh vào năm ngối. Ba yếu tố góp phần gây nên tình trạng này bao
gồm: (1) khi đồng USD mạnh lên, Trung Quốc sử dụng dự trữ ngoại hối để duy trì giá trị
của NDT. (2) Dịng vốn ngoại rời khỏi nước này trong thời gian gần đây do chính sách
kiểm sốt vốn được nới lỏng. (3) PBoC đã dùng dự trữ ngoại hối để hỗ trợ thị trường
chứng khoán đang suy giảm. PBoC đã buộc phải bán ngoại tệ dự trữ và mua NDT để giữ
cho đồng tiền này ổn định so với đồng USD.
(iii) Nỗ lực đưa NDT vào quyền rút vốn đặc biệt (SDR) của IMF
Trung Quốc đã nỗ lực để đưa đồng NDT vào rổ tiền tệ SDR do Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) quản lý. Trung Quốc muốn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế tồn
cầu, muốn NDT có vai trị quan trọng trong tài chính và thương mại tồn cầu, đặc biệt là
tại châu Á. Tuy nhiên, NDT không thể trở thành tiền tệ dự trữ toàn cầu khi Trung Quốc
vẫn duy trì cơ chế kiểm sốt mà họ cho là cần thiết để quản lý kinh tế trong nước. Một
trong những tiêu chí để được đưa vào rổ SDR là đồng tiền "có thể sử dụng tự do", và các
quan chức IMF đã kêu gọi Trung Quốc để đồng NCY được điều chỉnh bởi các lực lượng
của thị trường. Tháng 08/2015, khi phá giá CNY 2%, ngân hàng Trung ương Trung Quốc
(PBoC) đã giải thích rằng họ đang phản ánh tỷ giá CNY/ USD sát hơn với diễn biến trên
thị trường. Đây cũng là một động thái của Trung Quốc để chứng minh tiền tệ của mình
“được sử dụng tự do hơn” theo yêu cầu của IMF trước khi NDT được bổ sung vào rổ tiền
tệ dự trữ trong Quyền rút vốn đặc biệt (SDR). Động thái của Trung Quốc có thể coi là
một bước quan trọng tiến tới cho phép đồng nhân dân tệ tự do giao dịch, và tăng khả
năng đồng tiền này sẽ được đưa vào rổ SDR.
2.3. Thực tế điều hành tỷ giá
Diễn biến tỷ giá CNY/USD giai đoạn 2014-2016
Giai đoạn 2014-2016 ghi nhận sự giảm giá liên tục của đồng CNY với một số
điểm nhấn như sau.
Năm 2014:
Năm 2014, Trung Quốc thuộc nhóm quốc gia neo tỷ giá có điều chỉnh (Crawling
peg). Sau khi kết thúc hai kỳ họp của Quốc hội và Chính hiệp, Trung Quốc đưa ra sự bố
trí cải cách quan trọng về tỷ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ. Ngày 15/3/2014, Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc quyết định mở rộng biên độ thả nổi tỷ giá hối đoái giữa đồng
Nhân dân tệ và đồng đô la Mỹ, kể từ ngày 17/3 biên độ thả nổi tỷ giá hối đoái giữa đồng
Nhân dân tệ và đồng đô la Mỹ giao dịch liên ngân hàng sẽ từ 1% mở rộng đến 2%.
Các nhà phân tích thị trường cho rằng, việc mở rộng biên độ thả nổi tỷ giá hối đoái
của đồng Nhân dân tệ là một biện pháp cải cách quan trọng về tỷ giá hối đối của Trung
Quốc, sẽ góp phần tăng thêm tính linh hoạt về tỷ giá hối đối đồng của Nhân dân tệ, thị
trường ngoại hối trong thời gian tới sẽ tiếp tục diễn biến theo hướng thả nổi hai chiều.
Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Tài chính quốc tế Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc Tông Lương cho rằng: "Đây là sự thay đổi chính sách quan trọng, nhịp bước cải
cách thị trường hoá tỷ giá hối đoái của Trung Quốc sẽ tăng tốc thúc đẩy”. "Cơ chế hình
thành tỷ giá hối đoái sẽ càng sát với quan hệ cung cầu trên thị trường sau khi mở rộng
biên độ thả nổi tỷ giá hối đoái giữa đồng Nhân dân tệ và đồng đô la Mỹ."
Về tác động đối với thị trường sau khi mở rộng biên độ thả nổi tỷ giá hối đoái của
đồng Nhân dân tệ, các chuyên gia đã cho rằng, thị trường ngoại hối có thể sẽ chấm dứt
tình trạng tăng giá liên tục, sự mở rộng biên độ hai chiều sẽ trở thành bình thường.
Năm 2015:
Trung Quốc điều chỉnh cơ chế tỷ giá của đồng Nhân dân tệ. Ngày
11/8/2015, chính phủ Trung Quốc bất ngờ tuyên bố điều chỉnh cơ chế tỷ giá của
đồng Nhân dân tệ. Theo đó, tỷ giá tham chiếu của đồng tiền này sẽ được Ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc (PBoC) ban hành vào đầu mỗi phiên dựa trên kết quả giao dịch
của phiên hôm trước và cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá giao dịch trên thị trường
tự do vẫn sẽ xoay quanh mốc tỷ giá tham chiếu với tỷ lệ 2%.
Ngày 11/8/2015, tỷ giá CNY giảm tới 1.9%. Đây là đợt giảm sâu nhất trong 20
năm trở lại đây, ở mức 6.2298 NDT/USD, giảm 1.86% so mức 6.1162 NDT/USD của
ngày 10/8/2015. Tiếp đó, ngày 12/8, NDT tiếp tục mất giá 1.6% khiến giá trị đồng tiền
này rơi xuống mức thấp nhất trong 4 năm qua. Ngày 13/8, đồng NDT ngày thứ ba liên
tiếp mất giá mạnh, với mức 6.4010 NDT/USD. Sang ngày 14/8, sau ba ngày liên tiếp
giảm, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã điều chỉnh tăng tỷ giá đồng NDT so với
đồng USD lên 0.05%, lên 6.3975 NDT/USD.
Với động thái phá giá đồng nội tệ lên đến 4.6% chỉ trong tháng 8/2015, Trung
Quốc đã gây rúng động thị trường tiền tệ nhiều nước trên thế giới. Theo nhận định của
giới phân tích tài chính, tác động của phá giá đồng nhân dân tệ (NDT) còn lớn hơn cả
khủng hoảng ở Hy Lạp hay khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất, bởi sự phá
giá này bị cộng hưởng với đà sụt giảm giá hàng hóa và các đồng tiền mới nổi đã và đang
tạo ra những lo ngại trên thị trường tài chính tồn cầu.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết, việc điều chỉnh tỷ giá đồng NDT
không xuất phát từ những áp lực kinh tế mà do lợi thế về thặng dư tài khoản tiền gửi và
nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ, điều này cho phép can thiệp sâu hơn vào việc xác định
tỷ giá hối đoái. Mặt khác, tỷ giá của đồng NDT giảm mạnh là do cách tính tốn mới dựa
trên giá chốt phiên ngày hôm trước, yếu tố cung cầu cũng như biến động tỷ giá đồng tiền
của các nền kinh tế lớn khác. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng nhấn mạnh đây là
một phần của những cải cách cơ chế tỷ giá nhằm cho phép thị trường có vai trị lớn hơn.
Tuy nhiên, phân tích của giới chuyên gia chỉ ra rằng, nguyên nhân thực sự đằng
sau động thái phá giá đồng nội tệ này là do việc công bố số liệu xuất khẩu của Trung
Quốc và việc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) từ chối đưa đồng NDT vào giỏ tiền dự trữ quốc
tế. Quyết định hạ giá đồng NDT được Trung Quốc đưa ra chỉ ít ngày sau thơng báo xuất
khẩu trong tháng 7/2015 của nước này sụt giảm 8.3% so với cùng kỳ năm 2014, tương
đương 195.10 tỷ USD. Bên cạnh đó, các chỉ số kinh tế quan trọng như: Chỉ số mua hàng
công nghiệp (PMI) và nhất là chỉ số giá thành sản xuất (PPI) đều giảm rất mạnh (PPI
giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối 2009, PMI xuống mức thấp nhất trong vịng 2 năm
qua). Trong khi đó, thị trường chứng khoán (TTCK) Trung Quốc cũng trên đà suy thoái
kể từ hồi tháng 6 vừa qua, buộc Trung Quốc phải áp dụng các biện pháp mạnh tay. Mặt
khác, đồng NDT hiện có giá trị quá cao đã và đang tác động tiêu cực tới ngành xuất khẩu
khi đẩy giá hàng hóa của Trung Quốc ở thị trường nước ngồi lên cao.
Năm 2016:
Năm 2016 ghi nhận sự tiếp tục giảm giá của Nhân dân tệ. Trừ giai đoạn 5 tháng
đầu năm 2016, từ tháng 06/2016 đồng CNY giảm giá liên tục, đặc biệt từ tháng 10/2016
và đạt kỷ lục giá thấp mới vào cuối năm 2016, với mức giảm gần 7% trong năm, đây là
mức giảm mạnh nhất so với đồng USD kể từ năm 1994 .
Một điểm đáng chú ý khác là năm 2016 đánh dấu mốc quan trọng với Trung Quốc
khi nhân dân tệ chính thức gia nhập rổ SDR của IMF. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày
30/11 thông báo đưa đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc vào giỏ tiền tệ dự trữ quốc tế
được biết đến với tên gọi Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) của tổ chức này, quyết đinh này
có hiệu lực từ ngày 01/10/2016. Với tỷ trọng trong giỏ SDR là 11%, Nhân dân tệ sẽ trở
thành đồng tiền dự trữ quốc tế thứ 5 bên cạnh đồng USD, EUR, JPY và bảng Anh. Tỷ
trọng của các đồng tiền còn lại trong rổ lần lượt sẽ là: đồng USD (41.73%), đồng EUR
(30.93%), đồng JPY (8.33%) và đồng bảng Anh (8.09%). Hiện đồng USD chiếm tỷ trọng
41.9% trong giỏ SDR, đồng EUR chiếm 37.4%, đồng bảng Anh 11.3% và đồng JPY
9.4%.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có nhiều nét tương đồng về văn
hóa cũng như thể chế chính trị, cả hai nước đều có những lợi thế trong việc sản xuất các
mặt hàng về nông nghiệp, dệt may, thủ công mỹ nghệ… Trung Quốc là đối tác thương
mại lớn nhất của Việt nam với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng cao trong
nhiều năm qua. Tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều tăng nhanh. Sự thay đổi của chính
sách tỷ giá của Trung Quốc ảnh hưởng đáng kể đến tình hình xuất nhập khẩu của Việt
Nam. Nhờ lợi thế về nhân công và nguyên vật liệu, cùng việc đồng NDT định giá thấp
khiến hàng hóa Trung Quốc ln rẻ hơn so với hàng hòa cùng loại được sản xuất ở Việt
Nam, điều đó làm cho việc xuất khẩu hàng hóa của ta trong một thời gian dài vừa qua, đã
phải cạnh tranh khá gay gắt với hàng hóa Trung Quốc. Lợi thế thương mại của Trung
Quốc luôn cao hơn so với phía Việt Nam, hàng hóa của họ rất dễ dàng thâm nhập vào thị
trường Việt, khiến hàng hóa sản xuất trong nước không bán được, các doanh nghiệp bị
làm ăn thua lỗ. Sự nghịch lý này đã buộc các nhà hoạch định chính sách tỷ giá trong nước
phải thay đổi lại suy nghĩ và có những hành động mang tính tích cực hơn nữa, hiệu quả
hơn nữa để hàng hóa Việt Nam có thể cạnh tranh tốt với hàng hóa nước bạn.
Nhìn nhận một cách đầy đủ và khách quan về cả thất bại cũng như thành cơng của
chính sách tỷ giá NDT đối với nền kinh tế Trung Quốc trong quá khứ và hiện tại. Việt
Nam cần rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm trong việc hoạch định các chính
sách tài khóa, cơng cụ tài chính nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước
ngoài…
Một số kinh nghiệm của Trung Quốc là gợi ý quan trọng giúp Việt Nam có giải
pháp hữu ích trong việc thực thi chính sách tỷ giá nhằm cải thiện Cán Cân Thương Mại
(CCTM).
Thứ nhất, muốn đạt được mục tiêu thặng dư CCTM bên cạnh việc nâng cao chất
lượng, mẫu mã các sản phẩm xuất khẩu thì cần có sự giảm giá đồng tiền một cách đáng
kể để đem lại lợi thế thương mại quốc tế trên phương diện giá cả. Điều chỉnh tỷ giá có
ảnh hưởng đến giá cả ở trong nước và quốc tế, do vậy, việc điều chỉnh tỷ giá phải phù
hợp với từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế.
Thứ hai, cần duy trì một chính sách tỷ giá hối đối phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế của trong từng giai đoạn. Để làm được điều này cần quan tâm đến các vấn đề
sau:
- Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong việc phá giá
tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Đối với các
nước đang phát triển thì tốc độ tăng trưởng cao thường đi kèm với một tỷ lệ làm phát
tương đối lớn so với nhóm nước có nền kinh tế phát triển, điều này ảnh hưởng xấu đến
lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu trên phương diện giá cả, do vậy phá giá
tiền tệ có thể giải quyết được vấn đề này.
Trung Quốc là một nước thực hiện rất thành cơng chính sách phá giá và thành cơng
này một phần do lựa chọn thời điểm phá giá hợp lý. Khi đó, các nước trong khu vực đang
phát triển lành mạnh và duy trì chế độ tỷ giá cố định và đang say sưa với dịng vốn nước
ngồi đổ vào trong khi đó đồng USD thì xuống giá rất nhanh. Vào thời điểm đó, Trung
Quốc có mức tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, nền kinh tế cũng
khơng có những biến động xấu do tác dụng trung hịa của những đồng ngoại tệ rẻ và có
sẵn cả ở trong nước và ngoài nước. Do vậy, cú đột phá đó ít nước quan tâm tới. Việc phá
giá mạnh đồng NDT đã giúp Trung Quốc gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ, đem lại nguồn dự
trữ ngoại hối dồi dào.
- Chính sách tỷ giá hối đối phải ln hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính
sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng
tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
- Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ gồm những ngoại tệ
mạnh để tránh được cú sốc trong nền kinh tế khi một đồng tiền nào đó biến động. Hiện
nay, ngoài 4 ngoại tệ mạnh nằm trong rổ ngoại tệ của IMF là USD, đồng Bảng Anh, đồng
Euro, đồng Yên Nhật thì đồng NDT của Trung Quốc đang được nhiều nước dự trữ với
khối lượng lớn.
Thứ ba, để các chính sách điều tiết tỷ giá và kiểm soát lạm phát, ngân hàng trung
ương cần được đảm bảo sự độc lập nhất định với Chính phủ trong việc ra quyết định và
điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương phải có hệ thống theo
dõi, giám sát chặt chẽ các điều kiện kinh tế trong nước, các nền kinh tế lớn và các nước
trong khu vực, kịp thời đánh giá các rủi ro, nguy cơ mất ổn định để đưa ra những chính
sách phù hợp.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, các rào cản thuế quan
và hạn ngạch hàng hóa nhằm bảo hộ thương mại buộc phải dỡ bỏ dần. Chính vì vậy,
chính sách tỷ giá có thể là một trong những công cụ hợp lý để giúp Việt Nam hỗ trợ xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân thương mại.
Phá giá đồng tiền cũng là một cách làm mang lại hiệu quả ngắn hạn, nhưng nếu xét
dài hạn thì có thể đây là một “con dao hai lưỡi”, mà phần mất nhiều hơn phần được. Có
thể lý giải cho nhận định trên bằng các lí do sau:
+ Ở Việt Nam, hệ số co giãn đối với nhu cầu hàng xuất nhập khẩu là nhỏ. Bởi vì,
nhu cầu nhập khẩu chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng cầu các hàng hoá trung gian và tư
liệu sản xuất cần thiết trong sản xuất chiếm 85 -90% trong tổng kinh ngạch nhập khẩu mà
cung trong nước thiếu, khả năng thay thế rất hạn chế giữa hàng nhập và sản xuất trong
nước, trong khi phần lớn hàng xuất khẩu là nông sản gần 75% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu, mà các sản phẩm này cần thời gian sản xuất rất dài và có nhu cầu trong nước rất
hạn chế.
+ Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu của nước ta chất lượng chưa cao, kém khả năng
cạnh tranh tại một số thị trường, công nghệ chưa phát triển... nên chưa thể tập trung hết
vào chiếm lược xuất khẩu. Mà hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ
chiếm lược thay thế nhập khẩu sang chiếm lược xuất khẩu.
+ Biện pháp phá giá có thể làm cho khoản nợ nước ngoài tăng khá lớn,đẩy các
doanh nghiệp tư nhân có khoản nợ nước ngồi vào tình hình tài chính khó khăn. Và chính
phủ sẽ là người đảm nhận trách nhiệm cuối cùng về các khoản nợ này, thanh toán chúng
để tránh các cuộc phá sản và tình trạng thất nghiệp. Đương nhiên tình hình như vậy có
thể làm tăng thâm hụt ngân sách, tăng nguy cơ phát hành tiền gây lạm phát. Đặc biệt, đối
với nước ta, khi mà dự trữ ngoại hối còn thiếu, ngân hàng trung ương chưa kiểm soát
được cung cầu về tiền tệ.
+ Bản thân biện pháp phá giá dẫn đến nguy cơ lạm phát gia tăng. Bởi lẽ,ở nước ta
nhu cầu vật tư cần thiết, các đầu vào khác cho sản xuất, thiết bị và hàng tiêu dùng một
phần đều nhập khẩu. Giảm giá đồng tiền trong nước làm cho giá hàng nhập khẩu tính
băng đồng nội tệ tăng lên, tạo ra sức ép đối với mức giá trong nước. Nguy cơ khác là phá
giá tiền tệ có thể dẫn đến cuộc suy thối đi kèm lạm phát. Đó là việc tăng giá trong giai
đoạn đầu sẽ làm giảm bớt sức mua, trong khi đó làm tăng chi phí trong nước.
KẾT LUẬN
Trong thập niên gần đây, Trung Quốc đã trỗi dậy một cách mạnh mẽ và trở thành
một siêu cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới trong cả lĩnh vực kinh tế thực và trong
lĩnh vực tài chính. Đối với nền kinh tế thực, Trung Quốc đã trở thành nước hàng đầu
trong các lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, sản xuất cơng nghiệp chế biến và tiêu thụ năng
lượng và là nền kinh tế lớn thứ hai thể giới (sau Hoa Kỳ) và tiếp nhận vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Vị thế hàng đầu của Trung Quốc được dẫn dắt và củng cố chủ yếu nhờ
mức tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và GDP rất cao trong suốt thời gian dài. Những
thành tựu này một phần chính sách tỷ giá phù hợp với tình hình và mục tiêu kinh tế xã
hội của quốc gia, cụ thể là can thiệp tỷ giá để giảm giá đồng NDT, kìm giữ mức lãi suất
thấp, qua đó giúp giảm chi phí đầu vào sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất
khẩu, nhưng vẫn có biện pháp quản lý phù hợp giúp tăng quyền lực đồng CNY trên thị
trường tiền tệ thế giới. Là nước láng giềng của Trung Quốc với khá nhiều điểm tương
đồng về kinh tế, việc nghiên cứu chính sách tỷ giá Trung Quốc là rất cần thiết để rút ra
những bài học kinh nghiệm cho việc điều hành chính sách tỷ giá hối đối Việt Nam.