TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------***------------
BÀI TẬP LỚN:
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Sinh viên thực hiện
:
Mã sinh viên
:
Lớp học phần
: Triết học Mác - Lênin(220)__24
Hà Nội, 2021
1
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Nội dung
1 Cơ sở lý luận
1.1. Lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
1.2. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2 Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3 Giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị
2
3
3
3
6
10
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và trách nhiệm
17
của sinh viên
3.1. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ
tạo điệu kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển thuận lợi
17
18
3.3. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị
trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
19
3.4. Trách nhiệm của sinh viên Kinh tế Quốc dân trong việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
20
Nam
Kết luận
21
22
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
1
Việt Nam đang trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Việc xây dựng
và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có ý nghĩa quan trọng, là nhiệm vụ
chiến lược, và là một trong khâu đột phá; qua đó, tạo động lực phát triển nhanh
và bền vững, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa Việt Nam thốt ra khỏi
nhóm nước thu nhập trung bình thấp, để bước vào nhóm nước có thu nhập trung
bình cao.
Xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cần phải có cách tiếp cận từ thực tiễn: Thực tiễn sự phát triển kinh tế thị trường
trên thế giới và thực tiễn sự phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam trong mối
quan hệ biện chứng; hơn nữa mối quan hệ đó là - kinh tế thị trường của Việt
Nam là một bộ phận (nhỏ) của kinh tế thị trường thế giới chứ không phải ngược
lại. Không thể xem xét và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng chủ
nghĩa xã hội từ tư duy lý luận tư biện, xa rời thực tiễn.
Mỗi cá nhân, công dân Việt Nam đều có trách nhiệm trong việc phát triển nền
kinh tế nước nhà, đặc biệt trong đó là các thế hệ sinh viên nói chung và sinh
viên Kinh tế Quốc dân nói riêng.
2
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục
tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo
cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh
tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt
Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền
tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mơ hình kinh tế này
khá tương đồng với mơ hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist
market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mơ hình
kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với quan điểm của Mác cổ điển về phát triển kinh tế và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi
điều kiện vật chất đã được phát triển đến khi đủ để các mối quan hệ xã hội
chủ nghĩa phát triển. Mơ hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
coi là một bước quan trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh
tế cần thiết trong khi cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và
hưởng lợi từ thương mại toàn cầu. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng
3
định cam kết của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
với những cải cách của thời kỳ Đổi Mới.
Mơ hình kinh tế này được bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, trong đó
tuyên bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện sau khi phát
triển nền tảng chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế thị
trường và kinh tế trao đổi hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau
khi giai đoạn này hồn thành vai trị lịch sử của nó, và sẽ biến đổi theo xu
hướng dần tự chuyển hóa. Những người ủng hộ mơ hình này cho rằng hệ
thống kinh tế của Liên Xô và các quốc gia vệ tinh đã cố gắng đi từ nền kinh
tế tự nhiên sang nền kinh tế kế hoạch bằng các mệnh lệnh hành chính mà
khơng trải qua giai đoạn cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường.
Song song với việc phát triển hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước
phương Tây; mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ra đời nhằm khắc phục
những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội phát triển hơn,
công bằng hơn, tốt đẹp hơn; và thực tế trong thời gian tồn tại khoảng gần 70
năm, nền kinh tế chủ nghĩa xã hội được phát triển theo mơ hình kế hoạch
hố tập trung đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên do quá nóng
vội trong cách thực hiện, quá nóng vội trong việc loại bỏ kinh tế hàng hoá
và áp dụng vội vàng nền kinh tế phi thị trường, bình quân chủ nghĩa, không
năng động, kịp thời thay đổi khi cần thiết đã làm cho mơ hình với nhiều ý
tường tốt đẹp đã khơng thành cơng. Như vậy có nghĩa là nếu chúng ta áp
dụng đơn thuần mơ hình kinh tế thị trường như ở các nước tư bản chủ nghĩa
hoặc xa rời thực tiễn khi áp dụng mơ hình kế hoạch hố, tập trung, quan liêu
thì có thể đất nước lại đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc lại
đi theo vết xe đổ của mơ hình kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
và Tây Âu đã gặp phải. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại
hội VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước nhằm
4
thực hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội
đưa ra những quan điểm mới về con đường và phương pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt trong đó thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù
hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội. Đến
Đại hội VIII của Đảng đưa ra một kết luận mới hết sức quan trọng, đó là:
“Sản xuất hàng hố khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát
triển của văn minh nhân loại; nó tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhưng lúc đó mới nói đến kinh tế hàng hố, cơ
chế thị trường, chứ chưa dùng đến khái niệm “kinh tế thị trường”. Phát huy
những kết quả đổi mới đã đạt được, qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tịi, tổng
kết lý luận và thực tiễn; Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã chính thức đưa ra
khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định
chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối chiến lược nhất quán. Tuy nhiên, muốn
thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, cần có sự thống
nhất về nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương giải pháp giữa
các cấp các ngành, đặc biệt là phải làm cho nhân dân nhận thức được sự
đúng đắn trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn như
vậy cần đi sâu nghiên cứu, tìm tịi và đưa các vấn đề lý luận gần gũi và phục
tốt cho thực tiễn hơn. Như vậy có thể thấy rằng, trong q trình đổi mới
kinh tế đất nước, có một xu hướng tổng quát nhất đó là chuyển sang cơ chế
thị trường và phát triển kinh tế thị trường, và điều này được thực khẳng định
trên cả lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua.
5
1.2.
Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế
thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, phù hợp với
điều kiận và đặc điểm cụ thể của Việt Nam; là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của xã hội chủ nghĩa, nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; động
lực chung để phát triển đất nước là đại đồn kết dân tộc; đồng thời coi trọng
khuyến khích cả vật chất và tinh thần, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những yếu tố, phương tiện và công cụ
của kinh tế thị trường được sử dụng, phát triển để xây dựng chủ nghĩa xã
hội; tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế ngày càng được hình thành rõ
nét hơn trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khái quát lại như
sau:
Thứ nhất, đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, vai trò làm chủ xã hội của nhân dân và sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây
dựng; là sự nắm bắt và tự giác vận dụng sáng tạo xu thế vận động khách
quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp thu có chọn lọc
thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai trị
tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật của
tính tự phát trong kinh tế thị trường, nhằm thực hiện có kết quả mục tiêu
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để Việt Nam có thể hội nhập với thế
giới, rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, sớm trở thành một
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
6
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ
sản xuất không ngừng được đổi mới và hồn thiện, phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng triệt để và thúc
đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất, cải thiện nhanh đời sống của nhân
dân, tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội, tạo động lực thu hút
mạnh mọi nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển, và giữ vững
ổn định chính trị - xã hội; lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để
khơng ngừng hồn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất. Thực hiện xố bỏ mọi
sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển lâu dài; trong đó, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và
điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa, là một động lực phát triển kinh tế - xã
hội; nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài được thu hút mạnh; kinh tế cổ
phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc
đẩy xã hội hoá sản xuất và đầu tư.
Thứ ba, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông
qua phúc lợi xã hội; thực hiện công bằng trong phân phối để tạo động lực
mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự nghiệp của tồn dân, tồn xã hội; trong đó việc hình thành và
phát triển một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh
7
cao, có uy tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược. Mọi cơng dân có quyền tự do
đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật
khơng cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu hợp pháp; có
quyền bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, trong
cung cấp và tiếp nhận thông tin. Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tơn trọng
các nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở
hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và sự hình thành, phát triển của các thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính
(vốn và tiền tệ), bất động sản, sức lao động, khoa học và công nghệ…, Nhà
nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn
lực cho phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh
bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, cơng khai và minh bạch, có trật tự, kỷ
cương, các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh
tế thị trường; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội quan trọng; đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân
đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật; tác động đến
thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các cơng cụ kinh tế, sử
dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường trong nước khi cần thiết, không
trái với các cam kết khi hội nhập. Nhà nước thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ
phát triển khơng phân biệt hình thức sở hữu, đối với một số ngành, lĩnh vực,
sản phẩm, đối với một số mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói,
giảm nghèo, khắc phục những rủi ro), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc
tế của nước ta. Nhà nước quan tâm bồi dưỡng, đào tạo và biểu dương các
doanh nhân có tài, có đức và thành đạt. Nhà nước định hướng, tạo môi
trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường,
8
hình thành một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức
cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, chủ lực là một số tập đồn kinh tế lớn
dựa trên chế độ cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước không ngừng được đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả; chủ yếu dưới hình thức cơng ty cổ
phần nhiều chủ sở hữu; phát huy vai trò nòng cốt, tập trung vào một số lĩnh
vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền
kinh tế, một số lĩnh vực cơng ích; làm nịng cốt trong các tập đồn kinh tế
lớn có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Các loại hình kinh tế tập thể, nhất là các
hợp tác xã được đổi mới và phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân được khuyến
khích và phát triển mạnh khơng hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh
vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà
pháp luật không cấm. Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước
ngoài vào các ngành nghề, các lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới thành nguồn lực
tổng hợp để cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát triển đất nước nhanh và bền
vững; trong đó nội lực là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, các nguồn
lực bên ngồi có vai trị rất quan trọng giúp cho phát huy nội lực mạnh hơn.
Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính
sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có sức cạnh tranh trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập và hợp tác quốc tế dựa trên các nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc trong
hội nhập kinh tế quốc tế, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm lợi ích cao nhất và
là nguyên tắc chủ đạo, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để chuyển dịch mạnh
9
cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, đổi mới cơng nghệ và
trình độ quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và
dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới.
2. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Đảng và Nhà nước ln quan tâm tìm hiểu những vấn đề hiện đang cản trở
sự phát triển của đất nước. Hầu hết tất cả các chính sách kinh tế, xã hội,
chính trị đều đã được nghiên cứu kỹ càng để tìm ra những hướng giải quyết
hiệu quả. Và kết quả là chúng ta đã đạt được những thành công ngoạn mục
trong việc phát triển đất nước, kinh tế có tốc độ phát triển cao, đời sống của
nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình chính trị khá ổn định. Tuy nhiên bên
cạnh đó cũng cịn nhiều vấn đề thực hiện một cách dở dang, kém hiệu quả.
Kết quả phát triển thu được nhiều nhưng tổn thất cũng rất lớn; chất lượng
tăng trưởng và phát triển thấp, ví dụ như nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao nhưng đi liền với nó là lạm phát năm 2007 ở mức 12%. Năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế còn yếu kém và chậm
được cải thiện;… Có thể thấy đây là hậu quả của cách làm nửa vời, ra thật
nhiều quyết định, muốn đồng thời đạt được thật nhiều mục tiêu, trong khi
thiếu điều kiện thực thi bởi cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay còn yếu kém
so với sự phát triển như vũ bão của thế giới, khơng tính kỹ đến điều kiện bảo
đảm thực thi, nhất là điều kiện về chất lương bộ máy quản lý và con người
khi ra quyết định và chọn mục tiêu. Vốn ít nhưng bày ra nhiều cơng trình,
mỗi cơng trình lại rất tốn vốn. Kết cục là dở dang hầu như ở tất cả những
việc đặt ra để làm và hậu quả để lại rất lớn. Khơng biết bao nhiêu cơng trình,
các tồ nhà, các dự án được xây dựng xong phần khung rồi lại để đó chờ vốn
cấp xuống. Đầu tư nhiều nhưng dàn trải và không hiệu quả. Như vậy rõ ràng
nền kinh tế thị trường không vận hành tốt, hiệu quả thấp nên định hướng xã
hội chủ nghĩa cũng là một điều vơ cùng khó thực hiện. Ngun nhân vì đâu
10
dẫn đến tình trạng trên. Đó là do chưa hiểu được bản chất của việc phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngay trong các
cấp lãnh đạo, những người nắm quyền quản lý đất nước, những người đưa ra
những quyết định mang tính định hướng cho sự phát triển của đất nước vẫn
còn có những người chưa thực sự hiểu được bản chất mối quan hệ giữa nền
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế sau hơn 20 năm
đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa thể
khẳng định nền kinh tế nước ta đã là nền kinh tế thị trường hoàn tồn, mà nó
mới chỉ là giai đoạn đầu, giai đoạn sơ khai của kinh tế thị trường, ở đó các
yếu tố để kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả cịn yếu như cơ sở hạ tầng
cịn yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao…tất cả những điều đó là
ngun nhân kìm hãm sự phát triển của kinh tế đất nước. Về vấn đề xây
dựng hệ thống thể chế thị trường, Đại hội IX của Đảng đề ra mục tiêu hình
thành và phát triển đồng bộ hệ thống thể chế thị trường với tư cách là sự đột
phá chiến lược. Đây là một định hướng chiến lược đúng, đáp ứng đòi hỏi
đang ngày càng gay gắt của thực tế. Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ sáu
Ban chấp hành Trung Ương Đảng khố X, Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh nói:
"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mơ hình hồn tồn
mới, chưa có tiền lệ. Chúng ta phải vừa làm, vừa đúc kết thực tiễn. Vấn đề
đặt ra là phải tạo được sự thống nhất nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các
chủ trương, giải pháp để đi đến sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn, từng
bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc
tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ðại hội XIII của Ðảng nâng lên tầm cao mới về chủ trương, quan điểm hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo chính trị được
11
Ðại hội XIII của Ðảng thơng qua có 15 mục lớn, thì mục lớn thứ 4 là: "IV Hồn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa" với ba nội dung quan trọng:
Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Ðại hội XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng
XHCN là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, có ba điểm nổi bật: Một là,
xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao
chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi
trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển
đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của
những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy
định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Ðẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa
12
các cấp, các ngành. Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ,
đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ
chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản.
Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết
định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực. Phát triển thị trường
hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện
đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của
các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo
hiểm... trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương
thức giao dịch hiện đại. Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ðẩy nhanh việc xử lý
nợ, thối vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi
mới, nâng cao trình độ cơng nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp
hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt
động của doanh nghiệp, khơng để thất thốt, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mơ hình kinh tế
hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong
nơng nghiệp. Hồn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khuyến
khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ cơng nghệ, phát triển
nguồn nhân lực, mở rộng thị trường…
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế, Ðại hội XIII chỉ rõ: "Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác
định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển
doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước;
giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Ða phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả
năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động
13
của bên ngồi; chủ động hồn thiện hệ thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế,
doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực
hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù
hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về
luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong
mơi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh
tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế" (2).
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đầu tiên là: "Tập trung
hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội".
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng
bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu
quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm
minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các
thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ... Nhà nước thực hiện tốt
chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo
vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp
đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Phát huy vai
trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp
và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp
luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính một cách
quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh
doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Xây dựng nhanh nền hành
14
chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có tính chun
nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị,
phục vụ người dân, doanh nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý
nhà nước chủ yếu bằng điều tiết gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm đến
mức thấp nhất rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh
nghiệp. Ðẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong
đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập
trung, thông suốt. Ðổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và
nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Củng cố, hồn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, địa phương…
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay có thể nhận thấy rằng bước tiến theo
hướng này thực sự cịn chậm. Hệ thống thể chế thị trường hình thành và phát
triển lệch pha và lệch nhịp nhau. Bằng chứng: thị trường bậc cao nhất (thị
trường chứng khoán) ra đời trong khi thị trường các yếu tố đầu vào cơ bản
nhất (thị trường đất đai, thị trường lao động) hãy cịn chưa được thừa nhận
chính thức;… Kết cục là thị trường vận hành chưa đạt được hiệu quả cao,
thiếu ổn định. Nguyên nhân tạo nên sự phát triển chưa hoàn thiện, chưa đồng
bộ trong thể chế kinh tế thị trường tựu chung ở hai nguyên nhân lớn là: Chưa
nhận thức đúng và đầy đủ bản chất, nguyên tắc và cơ chế vận hành của nền
kinh tế thị trường, do vậy, chưa hiểu rõ thực chất và vai trò của tính đồng bộ
hệ thống và trật tự bước đi của quá trình hình thành các thể chế kinh tế thị
trường. Bên cạnh đó là thái độ hồi nghi thị trường vẫn còn nặng, cách tiếp
cận đến kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn bị chi phối quá mạnh bởi
thiên kiến tư tưởng. Không vượt qua được những điểm yếu căn bản đó trong
tư duy, trong nhận thức thì q trình chuyển sang thị trường và phát triển
15
kinh tế thị trường chắc chắn còn gặp nhiều ách tắc. Về vấn đề sở hữu, vấn đề
mấu chốt của một chế độ kinh tế. Việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành
phần rõ ràng là một bước tiến căn bản. Song không đủ và đang ngày càng trở
nên rất khơng đủ để có thể giải thích đúng thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện
nay và tạo thành cơ sở lý luận cho sự phát triển của nền kinh tế hiện thực.
Nếu chỉ thừa nhận thôi không đủ, vấn đề quan trọng là thực hiện sự bình
đẳng, dân chủ đối với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội. Sự kỳ
thị thực tiễn đối với các thành phần cịn rất nặng, thể hiện ở mơi trường kinh
doanh, ở điều kiện tiếp cận đến các nguồn lực và điều kiện phát triển. Mặc
dù đã có những chính sách hết sức cởi mở để thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngồi, khích lệ các cá nhân tham gia vào thị trường nhưng có thể rất dễ
dàng nhận thấy vẫn còn tồn tại sự phân biệt giữa các doanh nghiệp có hình
thức sở hữu khác nhau. Dành đặc ân, đặc quyền cho các tổng cơng ty, các tập
đồn của Nhà nước. Cơ chế cạnh tranh bình đẳng đó là nguyên lý tối cao của
kinh tế thị trường, nhưng thực tế chưa thực sự được tôn trọng và phát triển
trong nền kinh tế nước ta. Mong muốn phát triển nền kinh tế thị trường - chế
độ sở hữu tư nhân giữ vai trò then chốt - nhưng đề cao vai trò then chốt của
kinh tế Nhà nước một cách quá mức. Mong muốn xây dựng một nền kinh tế
thị trường phát triển nhưng cũng muốn có được hệ thống sở hữu chuẩn xã
hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác là quá đề cao sự điều tiết kinh tế của Nhà
nước dựa trên nền tảng sở hữu Nhà nước mà xem nhẹ vai trò cơ chế thị
trường. Mâu thuẫn này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Chừng
nào vấn đề này chưa được giải quyết tốt, chừng đó việc phát huy được hết
tiềm lực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước cịn gặp khó khăn.
Thực tế hiện nay cho thấy, khu vực kinh tế chủ đạo – kinh tế nhà nước - chỉ
đảm bảo việc làm cho 2 triệu trong tổng số 40 triệu người lao động. Tỷ trọng
của các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp
cũng không phải là lớn; bên cạnh đó xu hướng cổ phần hố doanh nghiệp
đang diễn ra mạnh mẽ, liệu chăng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang
16
ngày càng bị thu hẹp cả về phạm vi và mức độ ảnh hưởng, cần giải thích rõ
được vấn đề này mới có thể tạo được niềm tin vào định hướng phát triển của
đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện trong những năm qua.
Về nguyên tắc, chức năng nhà nước - thị trường, Nhà nước - doanh nghiệp.
Sự phân định đó đang diễn ra theo kiểu cái gì Nhà nước khơng làm được thì
thị trường và doanh nghiệp mới được làm. Cũng không phải theo cách Nhà
nước cố gắng làm mọi thứ tối đa có thể, phần cịn lại mới là của thị trường,
của doanh nghiệp. Hiện nay Nhà nước ta đang tham gia quá sâu, quá rộng
vào các chức năng của thị trường và doanh nghiệp trong khi nhiều lĩnh vực
thuộc chức năng của mình lại chưa được hồn thành tốt. Đó là tình trạng
“nắm những cái khơng cần nắm; bng những cái khơng được bng”. Nhìn
chung cách xử lý vấn đề hiện nay chưa đặt trên lợi ích phát triển nền kinh tế
thị trường như một tổng thể. Nó đang bị chi phối bởi tầm nhìn và lợi ích cục
bộ của các bộ, ngành. Đó là cách làm phi thị trường nó sẽ có cản trở, thậm
chí phá hoại định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước
ta.
3. Giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và trách nhiệm của sinh viên
3.1. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
Từ thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, một trong những bài học lớn Đại hội X
của Đảng đã rút ra là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới khơng phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà
là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng
có hiệu quả hơn”.
17
Trong Ðại hội XIII của Ðảng, trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới đất nước,
nhất là từ Ðại hội IX (2001) đến nay; 10 năm (2011 - 2020) thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và hơn ba năm thực hiện Nghị quyết số 11 NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, đã bổ sung, nâng
tầm chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất
lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy
đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập… Ðể những chủ trương, quan điểm, nhiệm
vụ, giải pháp này đi vào cuộc sống, trên cơ sở quán triệt sâu sắc, nắm chắc
nội dung, thống nhất nhận thức và hành động trong tồn Ðảng, tồn dân,
tồn qn, cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm chính trị cao, quyết
liệt, Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
và giám sát việc thực hiện; Ban cán sự Ðảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và
tổ chức thực hiện thắng lợi chương trình hành động, các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững, đạt được mục tiêu Ðại hội
XIII đề ra; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện
Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng.
3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ tạo
điệu kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển thuận lợi
Do nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở
vật chất kỹ thuật và quan hệ sản xuất chủ yếu cịn nhiều yếu kém, vì thế nó
kìm hãm sự phát triển của kinh tế thị trường và làm chậm quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chỉ có đầu tư mạnh mẽ cho khoa học công nghệ,
giáo dục đảo tạo để nâng cao trình độ kỹ thuật, trình độ nguồn nhân lực và từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản
xuất, tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến hành thực hiện cơng nghiệp hố 18
hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, làm điểm tựa cho việc phát triển đất
nước. Khắc phục vấn đề làm việc thiếu định hướng, cần xác định rõ ràng các
dự án trọng tâm cần đầu tư phát triển, tránh tình trạng đầu tư nhiều nhưng
dàn trải và kém hiệu quả. Khi mà kinh tế đất nước đang còn nhiều khó khăn,
cần có định hướng rõ ràng trong việc sử dụng vốn để làm sao đạt được hiệu
quả cao nhất. Định hướng phát triển kinh tế phù hợp với từng khu vực, từng
vùng, từng tỉnh, để có thể phát huy hết lợi thế của các vùng miền trên cả
nước. Tránh tình trạng phát triển dạng phong trào, làm nửa chừng rồi bỏ; gây
ra sự lãng phí trong đầu tư.
3.3. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị
trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước
độc quyền kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ
chế kiểm soát giá cả. Phát triển mạnh thương mại trong nước ở tất cả các
vùng và tăng nhanh giá trị xuất khẩu. Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù
hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh và
toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp, có hàm lượng trí
tuệ cao, giá trị gia tăng lớn. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng của khu vực
dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng hoạt động du lịch, đa dạng hóa các loại hình du lịch. Phát triển nhanh
hơn các dịch vụ vận tải, viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ tư
vấn... Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hồn thiện thị
trường tiền tệ; lành mạnh hóa các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua
bán các giấy tờ có giá trên thị trường. Phát triển mạnh thị trường vốn, thúc
đẩy mạnh hơn hoạt động của thị trường chứng khoán gắn với tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi,
phát triển hình thức cổ phần và huy động các nguồn vốn trong xã hội cho
đầu tư phát triển. Củng cố ngân hàng nhà nước, lành mạnh hóa, cơ cấu lại hệ
19
thống ngân hàng thương mại, các cơng ty tài chính, cơng ty mua bán nợ,
cơng ty đầu tư chứng khốn... Phát triển thị trường bất động sản (bao gồm thị
trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất): bảo đảm quyền
sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận lợi; làm cho đất đai thật
sự trở thành nguồn vốn cho phát triển; từng bước làm cho thị trường bất
động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp
dẫn các nhà đầu tư. Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp
lý, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất bằng
quan hệ cung - cầu về đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên
quan đến đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất động sản vừa là
nhà đầu tư bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh
doanh bất động sản...
3.4. Trách nhiệm của sinh viên Kinh tế Quốc dân trong việc hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
Sinh viên Kinh tế Quốc dân - ngôi trường đào tạo kinh tế hàng đầu Việt Nam
có trách nhiệm khơng nhỏ trong việc hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, phải tập trung, nghiêm túc học tập, nắm vững các kiến thức được
thầy cô truyền đạt, giảng dạy, tiếp thu một cách có hiệu quả.
20
Thứ hai, năng động và sáng tạo, luôn biết thay đổi tích cực và học hỏi những
kiến thức cũng như khiêm tốn, không phô trương thái quá tài năng của mình
vì kiến thức là đại dương bao la, chúng ta không thể nào biết tuốt mọi thứ.
Thứ ba, hãy luôn đặt mục tiêu cho bản than, là những nhà Kinh tế học tương
lai, hãy tin tưởng và đặt mục tiêu cho bản than và cố gắng đạt được nó.
KẾT LUẬN
Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
phải theo hướng hiện đại và quốc tế, làm cho nền kinh tế thị trường Việt Nam có
khả năng cạnh tranh tồn cầu, làm cho dân giàu, nước mạnh. Muốn vậy thể chế
kinh tế Việt Nam phải được hồn thiện theo các tiêu chí hiện đại, tiến bộ nhất và
đó cũng là điều kiện để Việt Nam có thể hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và toàn cầu.
Trong định hướng chung về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta nêu rõ phải xây dựng và hoàn thiện thể
chế - cơ chế phát triển không chỉ về lĩnh vực kinh tế, mà cả đối với các lĩnh vực
xã hội (dịch vụ) tiếp cận với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế phù hợp với
đặc điểm của từng lĩnh vực. Đối với các lĩnh vực dịch vụ, một mặt phải quán
triệt những nguyên tắc chung, định hướng chung, đồng thời cần phải thấu suốt
những đặc điểm riêng của từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ …) để xây dựng cơ chế phù hợp góp phần đảm bảo phát triển các
lĩnh vực này theo đúng định hướng, mục tiêu và hiệu quả. Nhưng trên thực tế,
về nhận thức và việc xây dựng thể chế - cơ chế phát triển các lĩnh vực này còn
rất nhiều bất cập và yếu kém, chậm hơn so với lĩnh vực kinh tế.
21
Vì vậy, có thể nói rằng tính định hướng XHCN phải được thực hiện thông qua
đồng bộ thể chế phát triển ở tất cả các lĩnh vực và quy tụ ở mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Đó
cũng là ngọn cờ Đại đoàn kết Dân tộc để xây dựng - bảo vệ - và phát triển Đất
nước theo định hướng XHCN. Và các sinh viên Kinh tế Quốc dân nói riêng và
sinh viên Việt Nam nói chung, đóng vai trị quan trọng trong việc góp phần
hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập II, Nxb CTQG ST, H.,2021. tr 337-338.
2. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb CTQG ST, H.,2021. tr 135 - 136.
22