TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT HÌNH SỰ HĨA HÀNH VI
QUẤY RỐI TÌNH DỤC
Mã số: PLHC.ĐTSV.2018.06
Chủ nhiệm đề tài
Lớp
Cán bộ hướng dẫn
: Dương Hải Anh
: 1605LHOA
: TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh
Hà Nội, tháng 03 năm 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT HÌNH SỰ HĨA HÀNH VI
QUẤY RỐI TÌNH DỤC
Mã số: PLHC.ĐTSV.2018.06
Chủ nhiệm đề tài
Thành viên tham gia
Lớp
Cán bộ hướng dẫn
: Dương Hải Anh
: Nguyễn Thị Thái
Hà Thị Thanh Xuân
Trần Văn Quyết
: 1605LHOA
: TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh
Hà Nội, tháng 03 năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Cơ sở khoa học đề xuất hình sự hóa
hành vi Quấy rối tình dục”, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo nhiệt tình
của các thầy cơ giáo, và các cá nhân tham gia hỗ trợ khảo sát.
Trước hết, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến lãnh đạo nhà
Trường, lãnh đạo Khoa, thầy cô trong Khoa đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS.
Nguyễn Thị Ngọc Linh đã tận tình, hướng dẫn chỉ bảo chúng tơi làm đề tài trong
suốt thời gian qua.
Và cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn các bạn sinh viên, các cá nhân đã
giúp đỡ chúng tôi thực hiện tốt khảo sát phục vụ đề tài.
Do là đề tài nghiên cứu của sinh viên nên vẫn còn hạn chế trong lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn, nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu xót. Vì
vậy, chúng tơi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cơ giáo và các
bạn đồng mơn để đề tài được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng chúng tôi dưới
sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong
bài nghiên cứu là chính xác, đảm bảo độ tin cậy. Những kết luận của đề tài là của
riêng chúng tôi.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG ĐỀ TÀI
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6
6. Những đóng góp mới của đề tài .............................................................. 7
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................... 8
8. Kết cấu của đề tài .................................................................................... 9
Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH
DỤC ................................................................................................................ 10
1.1. Khái niệm hành vi quấy rối tình dục ................................................. 10
1.2. Đặc điểm của hành vi quấy rối tình dục ............................................ 14
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
hành vi quấy rối tình dục .......................................................................... 16
1.4. Kinh nghiệm hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục của một số nước
trên thế giới ............................................................................................... 21
TIỂU KẾT CHƯƠNG I ............................................................................ 27
Chương II THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH DỤC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........... 28
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về hành vi quấy rối tình
dục ............................................................................................................. 28
2.1.1. Trong lĩnh vực pháp luật lao động .................................................. 28
2.1.2. Trong lĩnh vực pháp luật hành chính .............................................. 30
2.1.3. Bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc................ 32
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi quấy rối
tình dục...................................................................................................... 35
2.3. Một số nguyên nhân cơ bản ............................................................... 57
2.3.1. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật Việt nam hiện hành............... 57
2.3.2. Ngun nhân do trình độ, năng lực chun mơn, nghiệp vụ của cơ
quan, người có thẩm quyền quy định và việc áp dụng quy định của pháp
luật về hành vi quấy rối tình dục............................................................... 59
2.3.3. Nguyên nhân do nhận thức về quấy rối tình dục chưa đầy đủ ....... 62
TIỂU KẾT CHƯƠNG II........................................................................... 67
Chương III YÊU CẦU PHẢI HÌNH SỰ HĨA HÀNH VI QUẤY RỐI
TÌNH DỤC VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
QUY ĐỊNH NÀY KHI ĐƯỢC HÌNH SỰ HĨA ........................................ 68
3.1. u cầu hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục ................................. 68
3.2 Nội dung và kiến giải lập pháp khi hình sự hóa hành vi quấy rối
tình dục ..................................................................................................... 73
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về hành vi
quấy rối tình dục được hình sự hóa .......................................................... 75
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hành vi quấy rối tình dục. 75
3.3.2. Nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan,
người có thẩm quyền về việc hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục ....... 77
3.3.3. Tăng cường cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao
nhận thức của người dân về hành vi quấy rối tình dục ............................. 77
3.3.4. Nâng cao trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động
và Cơng đồn đối với hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc............. 79
3.3.5. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm hình sự hóa
hành vi quấy rối tình dục .......................................................................... 80
TIỂU KẾT CHƯƠNG III ......................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HP: Hiến pháp
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLLĐ: Bộ luật Lao động
LHS: Luật Hình sự
LXLVPHC: Luật Xử lý vi phạm Hành chính
VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XPTD: Xâm phạm tình dục
QRTD: Quấy rối tình dục
DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG ĐỀ TÀI
Biểu đồ 2.1: Số người từng bị/nhìn/nghe về hành vi QRTD theo nhóm tuổi .. 38
Bảng 2.1: Về nhận thức khái niệm hành vi QRTD ........................................ 38
Bảng 2.2: Về nơi xảy ra hành vi QRTD.......................................................... 39
Bảng 2.3: Về hiệu quả áp dụng Bộ quy tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc
năm 2015 ......................................................................................................... 42
Bảng 2.4: Về mức độ hậu quả của hành vi QRTD gây ra cho nạn nhân ........ 51
Bảng 2.5: Về cách thức xử lý khi bị QRTD.................................................... 51
Bảng 2.6: Nhận thức về việc hình sự hóa hành vi QRTD .............................. 56
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hành vi QRTD nói riêng và hành vi XPTD nói chung đã xuất hiện từ lâu.
Các hành vi này xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền của con người. Quyền
của con người là quyền mỗi người khi sinh ra đều có, quyền con người là quyền
tự nhiên, bất khả xâm phạm. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR)
đã khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và
các quyền”. Trong các quyền con người đã được ghi nhận thì quyền được pháp
luật bảo vệ về thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự là một trong các quyền
quan trọng nhất. Để đảm bảo các quyền trên, pháp luật đã quy định cụ thể về các
tội liên quan đến xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm trong
đó có các tội về XPTD. Hành vi QRTD là hành vi XPTD, nó có thể xảy ra ở bất
cứ đâu. Theo sự tiến bộ của xã hội, rất nhiều nước trên thế giới đã quy định hành
vi QRTD là một tội về tình dục để bảo vệ các quyền của cơng dân, của con
người.
Ở Việt Nam, hành vi QRTD đang ngày càng phổ biến, có xu hướng gia
tăng và trở thành một vấn nạn của xã hội nhận được sự quan tâm của tồn xã hội.
Tuy nhiên, hiệu quả phịng chống và thực tiễn xử lý hành vi QRTD ở Việt Nam
còn tồn tại nhiều vấn đề. Quy định pháp luật thực định của Việt Nam về hành vi
QRTD cịn có những hạn chế nhất định. Vì thế, chúng tơi cho rằng hành vi
QRTD cần phải được hình sự hóa bởi nhiều lý do như sau:
Thứ nhất, mặc dù hành vi QRTD đã được ghi nhận trong pháp luật lao
động, pháp luật hành chính, nhưng vẫn cịn rất nhiều bất cập tồn tại như: Khái
niệm hành vi QRTD chưa được hiểu thống nhất, chưa được pháp luật quy định
rõ ràng; nhận thức về hành vi QRTD chưa đầy đủ, thường gộp chung với tội làm
nhục người khác. Điều này thể hiện hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều
lỗ hổng.
1
Thứ hai, biện pháp xử lý hành vi QRTD chưa nghiêm khắc, tính răn đe và
giáo dục chưa cao, chủ yếu những vụ việc chỉ bị xử lý hành chính với mức phạt
rất nhẹ. Chính điều này khiến nhiều đối tượng lợi dụng để tiếp tục thực hiện các
hành vi QRTD và là tiền đề để chúng tiếp tục thực hiện các hành vi XPTD cao
hơn khi có cơ hội.
Thứ ba, chế tài xử phạt khơng những khơng có tác dụng răn đe lớn mà cịn
khơng tương xứng với hậu quả hành vi QRTD để lại cho nạn nhân. Nạn nhân
phải chịu nhiều hậu quả cả về vật chất lẫn tinh thần, tổn thương tinh thần là tổn
thương rất nguy hiểm, khó chữa trị, dễ dẫn đến những đe dọa về tính mạng và
sức khỏe đối với nạn nhân, đây là dạng tổn thương lâu dài. Tuy nhiên, với chế tài
xử phạt hiện nay, sẽ làm các nạn nhân càng cảm thấy bức xúc hơn, khiến dư luận
hoang mang. Bên cạnh đó, hành vi QRTD khơng chỉ để lại hậu quả cho nạn nhân
mà còn để lại hậu quả cho cả gia đình và xã hội.
Thứ tư, thực tiễn hành vi QRTD đang có chiều hướng gia tăng, vì vậy
càng cần có chế tài xử phạt thích đáng với hành vi QRTD để đảm bảo ổn định xã
hội, đồng thời thực hiện tốt chức năng bảo vệ công dân của pháp luật.
Thứ năm, thực tế hiện nay hành vi QRTD đã được nhiều nước trên thế
giới ghi nhận trong BLHS. Như vậy, có thể thấy có ngày càng nhiều quốc gia
nhận thức rõ sự nguy hiểm đáng kể của hành vi QRTD, và cần phải trừng trị
nghiêm khắc hành vi này để đảm bảo trật tự xã hội và quyền con người.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nhận thấy: Mặc dù đã có rất
nhiều bài viết khoa học liên quan đến hành vi QRTD, tuy nhiên vẫn chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về đề xuất hình sự hóa hành vi QRTD
dưới góc độ một đề tài, đặc biệt là đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên. Vì
vậy chúng tơi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Cơ sở khoa học đề xuất hình sự
hóa hành vi quấy rối tình dục”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quấy rối tình dục đang là vấn đề rất nóng trong xã hội những năm gần
2
đây, vì vậy có rất nhiều những nhà nghiên cứu, những người làm cơng tác có liên
quan nghiên cứu. Mỗi bài nghiên cứu đều đề cập đến một góc độ nhất định và
đều có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao nhận thức và phòng chống hành vi
QRTD đang ngày càng gia tăng trong xã hội. Cụ thể:
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Quấy rối tình dục đang trở thành vấn nạn chung của xã hội, nhận được sự
quan tâm rất lớn từ mọi người trong xã hội, đặc biệt là những nhà nghiên cứu,
cùng với đó bắt đầu có các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến hành vi
QRTD ở Việt Nam, cụ thể:
Luận án Tiến sĩ “Các tội xâm phạm tình dục trong Luật Hình sự Việt
Nam” của TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học,
xác định các đặc điểm, căn cứ quy định các tội XPTD trong LHS Việt Nam. Hệ
thống hóa sự hình thành và phát triển quy định về các tội XPTD trong lịch sử
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời phong kiến cho đến nay và nghiên cứu, so
sánh quy định các tội phạm này trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trên
thế giới với quy định của BLHS Việt Nam, để kế thừa, học tập kinh nghiệm lập
pháp. Đánh giá những điểm mới, tiến bộ và chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong
các quy định về các tội XPTD của BLHS năm 2015. Đề xuất kiến giải lập pháp
về các tội XPTD nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định này
trong BLHS 2015, luận án kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định các tội XPTD trong LHS Việt Nam. Trong luận án có nhắc đến
hành vi QRTD và đưa ra kiến giải lập pháp [7].
Đề tài NCKH “Thực trạng bị quấy rối tình dục trên xe bus của sinh viên
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” (2015) của sinh viên Phạm Thị Mỹ
Hạnh – Sinh viên trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Bài NCKH
đã phân tích một số nguyên nhân và đưa ra cách phòng tránh sinh viên bị QRTD
trên xe bus [6].
Trên trang web của tạp chí tịa án ngày 30 tháng 3 năm 2018 có đăng bài
3
“Cần bổ sung tội quấy rối tình dục vào trong Luật hình sự” của TS. Nguyễn Thị
Ngọc Linh; bài viết này tập trung vào việc phân tích nguyên nhân tại sao cần bổ
sung tội QRTD trong BLHS năm 2015 [15].
Báo VExpress.net đăng bài “Hình phạt về tội quấy rối tình dục ở một số
nước” ra ngày 1/12/2013, bài báo đã đưa chế tài xử lý hình sự ở một số nước về
vấn đề này: Mỹ, Malaysia, Ấn Độ, Pháp, Iceland, Philippines [19].
Baomoi.com ra ngày 05/05/2018 có bài đăng “Quấy rối tình dục bị xử lý
như thế nào?”; bài báo là bài phỏng vấn ơng Hà Đình Bốn, Vụ trưởng Vụ Pháp
chế, Bộ LĐ – TB&XH về khoản 2 Điều 8 BLLĐ năm 2012 là “Quấy rối tình dục
tại nơi làm việc” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm [18].
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nào ở Việt Nam nghiên cứu
chuyên sâu về Cơ sở khoa học đề xuất hình sự hóa hành vi QRTD.
2.2. Tình hình nghiên cứu thế giới
Ở nước ngoài hành vi QRTD từ lâu đã được nghiên cứu, vì vậy có rất
nhiều cơng trình khoa học, sách khoa học, đề tài nghiên cứu về QRTD dưới
nhiều góc độ, chúng tơi xin giới thiệu một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
sau:
Cuốn sách chun khảo: “Sexual harassment Switzerlard” của tác giả
Ariane Reinhart viết năm 1999, NXB.Internation Labour office Geneva. Cơng
trình đã đưa ra quan điểm về QRTD dưới các góc nhìn khác nhau. Đồng thời
khẳng định pháp luật của Thụy Sĩ coi QRTD là một hành vi XPTD nguy hiểm
cần được phòng chống, ngăn ngừa trong cuộc sống. Theo đó, tác giả cho rằng
các hình thức QRTD là vấn đề nhạy cảm và được hiểu là những hoạt động không
được nạn nhân mong muốn và chấp nhận. Hầu hết các cơ quan đã được điều tra,
lấy ý kiến đều khẳng định rằng những hình thái về QRTD đều là những hành
động không được tiếp nhận một cách tự nhiên. Ví dụ, như những lời lẽ bình luận
về tình dục, những hành vi bạo lực về thân thể hay sự va chạm, động chạm vào
những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể [12].
4
Cơng trình nghiên “Sexual harssament” của tác giả Elaine Landa viết năm
1993, NXB.Walker and Company NewYork cùng nghiên cứu về hành vi QRTD
ở Mỹ. Theo đó, tác giả nhận định rằng hành vi QRTD là hành vi XPTD cần phải
bị trừng trị nghiêm khắc. Hành vi này có thể ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng,
xuất hiện ở mọi nơi [14].
Cuốn sách: “Sexual Harassment of Working Women” của Catharine A.
MacKinnon Luật sư – Giáo viên – Nhà văn – Nhà hoạt động chính trị người Mỹ.
Cuốn sách là sản phẩm được tổng hợp những nỗ lực lớn đầu tiên của bà về vấn
đề “quấy rối tình dục” như là một vấn đề xã hội phổ biến và trình bày một lập
luận pháp lý rằng nó là sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính [13].
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chỉ tập trung vào một khía cạnh
của hành vi QRTD, khi chỉ nghiên cứu về hành vi QRTD tại nơi làm việc, hay
chỉ nghiên cứu về hành vi QRTD đối với nữ giới, đặc biệt là lao động nữ,....
Chưa nghiên cứu tổng quan về hành vi QRTD.
Từ những nghiên cứu trong và ngồi nước nói trên, chúng tơi nhận thấy
chưa có một cơng trình nghiên cứu nào chuyên sâu về “Cơ sở khoa học đề xuất
hình sự hóa hành vi Quấy rối tình dục”. Bởi lẽ đó, chúng tơi mạnh dạn lựa chọn
chủ đề trên làm đề tài nghiên cứu. Các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài
nước trên liên quan đến hành vi QRTD được chúng tôi nghiên cứu và vận dụng
hợp lý, hỗ trợ cho cơng trình nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích và xác định được cơ sở khoa
học đề xuất hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiên được mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Hệ thống lại các khái niệm, đặc điểm, lịch sử về hành viQRTD; kinh
5
nghiệm hình sự hóa hành vi QRTD của một số nước trên thế giới.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi QRTD;
thực tiễn áp dụng các quy định đó, nguyên nhân dẫn đến thực trạng này.
- Đề xuất hình sự hóa hành vi QRTD và một số giải pháp để nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất hình sự hóa
hành vi QRTD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu ở Việt Nam.
Tuy nhiên để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và là cơ sở vững chắc cho
việc đề xuất hình sự hóa hành vi QRTD thì chúng tơi có nghiên cứu và tham
khảo những kinh nghiệm hình sự hóa hành vi QRTD của một số nước trên thế
giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu làm sáng tỏ các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích: làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về hành vi
QRTD, làm rõ nội hàm hành vi QRTD được quy định trong pháp luật Việt Nam
và thế giới. Qua đó đánh giá những hạn chế của hệ thống pháp luật trong nước
về hành vi QRTD, đồng thời phương pháp này còn dùng để phân tích thực trạng
quy định và áp dụng pháp luật Việt Nam về hành vi QRTD từ đó đưa ra u cầu
hình sự hóa và các giải pháp nâng cao hiệu áp dụng quy định này khi được hình
sự hóa.
Phương pháp lịch sử được dùng để khảo cứu các tài liệu, các nguồn sử
liệu khác nhau về lịch sử hành ra đời và phát triển hành vi QRTD trong chương
I.
6
Phương pháp tổng hợp được xử dụng để khát quát các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về hành vi QRTD và nhận thức của mọi người về hành
vi QRTD trong chương II.
Phương pháp thống kê, khảo sát được sử dụng để tổng hợp các số liệu
trong bảng khảo sát nhận thức của mọi người về hành vi QRTD, làm cơ sở cho
việc đánh giá pháp luật cũng như đưa ra đề xuất hình sự hóa.
Phương pháp so sánh luật học để so sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật
một số nước trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc xây dựng hệ thống
pháp luật Việt Nam đặc biệt là BLHS, cần bổ sung thêm quy định về hành vi
QRTD trong BLHS.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hành
vi quấy rối tình dục, đề tài đã đạt được những kết quả mới, sáng tạo về khoa học
như sau:
- Xây dựng thành công cơ sở lý luận về hành vi quấy rối tình dục, bao
gồm: xây dựng khái niệm khoa học, xác định các đặc điểm của hành vi quấy rối
tình dục...
- Hệ thống hóa sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật về hành
vi quấy rối tình dục, so sánh các quy định này của Việt Nam với quy định của
một số quốc gia trên thế giới, để kế thừa, học tập kinh nghiệm lập pháp.
- Phân tích nội dung quy định pháp luật về hành vi quấy rối tình dục để
đánh giá tồn tại, hạn chế của quy định này và thực tiễn áp dụng chúng trong thời
gian qua; trên cơ sở đó chỉ ra các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất nội dung hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục và đưa ra kiến
giải lập pháp về hành vi này nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các quy
định về các tội xâm phạm tình dục trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
7
- Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân hạn chế trong thực tiễn áp
dụng, đề tài kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định hành vi quấy rối tình dục khi được hình sự hóa
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Các kết quả nghiên cứu cùa đề tài có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực
tiễn cụ thể như sau:
7.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Thông qua kết quả nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần bổ sung thêm những
kiến thức khoa học vào hệ thống tri thức về hành vi quấy rối tình dục nói tiêng
và các tội xâm phạm tình dục nói chung. Cụ thể, đề tài làm sáng tỏ một số khái
niệm như: khái niệm tình dục, quyền tình dục, các tội XPTD. Đồng thời, chỉ ra
và phân tích các đặc điểm của hành vi quấy rối tình dục; đồng thời đề tài là cơng
trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống hóa sự hình thành và phát triển các quy định
pháp luật về hành vi quấy rối tình dục; so sánh các quy định này của Việt Nam
với quy định của một số quốc gia trên thế giới, để kế thừa, học tập kinh nghiệm
lập pháp hình sự về hành vi quấy rối tình dục cho Việt Nam
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Những phát hiện của đề tài trong đánh giá thực trạng quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng các quy định về hành vi quấy rối tình dục của Việt Nam góp
phần phục vụ cho thực tiễn giải quyết đúng đắn các vụ án về quấy rối tình dục;
những kiến nghị của đề tài về giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định về hành vi quấy rối tình dục có thể phục vụ, hỗ trợ cho công tác lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống hiệu quả hành vi xâm phạm này
Ngồi ra, đề tài cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học LHS, tội
phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan
bảo vệ pháp luật trong quá trình xử lý các hành vi quấy rối tình dục.
8
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Phần mở đầu, Kết Luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, đề tài gồm ba chương:
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH
DỤC
Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH DỤC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Chương 3. YÊU CẦU PHẢI HÌNH SỰ HĨA HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH
DỤC VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH NÀY
KHI ĐƯỢC HÌNH SỰ HĨA
9
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH DỤC
1.1. Khái niệm hành vi quấy rối tình dục
"Quấy rối tình dục" (sexual harassment) là một khái niệm được rất nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Tìm hiểu về nguồn gốc của thuật
ngữ “Quấy rối tình dục” thì Mỹ là một trong các quốc gia lần đầu tiên xuất hiện
cụm từ “Quấy rối tình dục”. Theo trang web của Trường Đại học Brandeis
(Mỹ), xuất phát điểm của việc xử phạt hành vi QRTD nằm ở khoản VII của Đạo
luật Nhân quyền được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1964. Tuy nhiên, đạo luật
này chỉ nhắc đến các biểu hiện tương tự QRTD trong mục "phân biệt giới tính".
[30]
Năm 1979, cụm từ "quấy rối tình dục" lần đầu xuất hiện trong cuốn sách
"Chuyện quấy rối tình dục của những nữ công nhân" của học giả về pháp lý và
nữ quyền Catherine MacKinnon [13]. Tuy nhiên, bà MacKinnon mới chỉ dùng
cụm "quấy rối tình dục" để chỉ việc phụ nữ bị lạm dụng, ép đổi tình dục lấy tiền
lương hoặc công việc, không cho rằng những nam công nhân có thể bị quấy rối.
Năm 1980, bà Ann Olivarius đã kiện trường đại học Yale (Mỹ) về các vụ
tấn cơng tình dục trong khn viên trường. Dù vụ kiện không thành công, bà
Olivarius đã mang lại định nghĩa mới cho các vụ xâm hại, khi ấy gọi là "date
rape". Cụm từ trên diễn tả việc lạm dụng tình dục trong tình huống các bên biết
về nhau, có thể cùng hẹn hị, đi chơi nhưng một người có hành động tấn cơng
tình dục một người khác hoặc sờ mó, có hành động khơng nhận sự đồng tình.
Trong trường hợp cụ thể, các giảng viên có thể hẹn hị sinh viên ăn tối nhưng lại
có hành vi khơng đúng mực hoặc gạ gẫm "đổi tình lấy điểm" cũng sẽ gọi là "date
rape". Trường Yale sau đó trở thành một trong những trường đại học đầu tiên tại
Mỹ thiết lập bộ quy tắc nội bộ để xử lý các trường hợp lạm dụng tình dục,
theo The Telegraph.
10
Định nghĩa về quấy rối tình dục chính thức được đưa ra từ Ủy ban về Cơ
hội việc làm bình đẳng tại Mỹ (EEOC) năm 1980. EEOC cho rằng tội “quấy rối
tình dục là những hành vi thể hiện tình dục khơng nhận sự đồng tình của người
bị lạm dụng, tạo ra một môi trường làm việc thù địch, đáng sợ hoặc xúc phạm",
theo tạp chí The Week (Mỹ). [30]
Theo quy định của pháp luật Đức: “quấy rối tình dục ngồi các hành vi
thuộc về hình sự là "các hành vi tình dục khác và yêu cầu thực hiện các hành vi
này, các nỗ lực cơ thể mang tính tình dục, nhận xét có nội dung tình dục cũng
như là việc cho xem và treo các hình ảnh khiêu dâm mà bị người có liên can từ
chối một cách có thể nhận thấy được." (Điều 2, khoản 2, câu 2 Luật Bảo vệ
Người lao động)” [30]
Tuy nhiên, Cơ quan Chống xâm hại và tội ác tình dục của Mỹ thì lại có
quan điểm rằng “quấy rối tình dục” là: "Một hay nhiều người nào đó có thái độ
liên quan đến giới tính, được thể hiện bằng lời nói, hành động hoặc ngôn ngữ
thân thể (body language) với một hay nhiều người khác giới - kể cả đồng giới,
gây tổn thương đến phẩm giá của họ, hoặc tạo ra môi trường có tính dọa dẫm,
thù địch, hạ thấp, lăng nhục, xúc phạm họ, làm cho họ phải bối rối". Dưới góc
độ tiếp cận này, nội hàm khái niệm QRTD đã được mở rộng về đối tượng bị
quấy rối gồm cả nam và nữ đồng thời cũng nhấn mạnh hậu quả của hành vi gây
ra. Tuy nhiên, quan niệm này chưa làm rõ các hành vi quấy rối tình dục cụ
thể.[37]
Bên cạnh đó, chúng tơi thấy rằng Ủy ban Cơ hội việc làm công bằng Liên
bang định nghĩa về hành vi QRTD tiến bộ hơn các quan điểm trước đó: “Quấy
rối tình dục là việc thực hiện các hành vi như dùng lời lẽ ve vãn tình dục, yêu
cầu quan hệ tình dục trái ý muốn của người khác, dùng cử chỉ, lời nói gợi ý về
tình dục mà thái độ phục tùng hay phản đối của cá nhân được gợi ý có liên quan
đến quyền lợi, cơng việc, mơi trường lao động của cá nhân đó”. Hai vấn đề mấu
chốt để xác định tội QRTD là thái độ của nạn nhân bị QRTD và tính chất gợi dục
11
của hành vi quấy rối. Một người chỉ bị buộc tội QRTD khi hành vi quấy rối gây
phiền hà cho người bị quấy rối, và khi nạn nhân đồng tình chỉ vì muốn khỏi bị
đối xử tệ trong cơng việc (chịu quấy rối tình dục để khỏi bị mất việc) [14]. Khắc
phục hạn chế của các quan điểm trên, trong quan điểm này hành vi QRTD được
thực hiện dưới nhiều hình thức khơng chỉ quấy rối về thể chất mà cịn quấy rối
bằng lời nói và phi lời nói. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn hạn chế về phạm vi,
môi trường mà nạn nhân có thể bị quấy rối, chỉ đề cập đến môi trường lao động.
Ở Việt Nam, quan niệm về hành vi QRTD lần đầu xuất hiện tại Bộ quy
tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc năm 2015. Theo Bộ quy tắc thì “Quấy rối
tình dục được định nghĩa là bất cứ hành vi có tính chất tình dục gây ảnh hưởng
tới nhân phẩm của nữ giới và nam giới, là hành vi dùng lời nói hoặc cơ thể để
khơi gợi tình dục , đây là hành vi không được chấp nhận, không mong muốn và
không hợp lý làm xúc phạm đối với người nhận, và tạo ra môi trường làm việc
bất ổn, đáng sợ, thù địch và khó chịu.” [3] Tuy nhiên, quan niệm trên vẫn chưa
toàn diện và đầy đủ bởi đối tượng và phạm vi quy định trong quan niệm này về
QRTD vẫn cịn bó hẹp. Ví dụ, đối tượng chỉ có nữ và nam, chỉ áp dụng với
người đi làm, trong môi trường làm việc, khái niệm chưa khái quát được toàn bộ
hành vi QRTD.
Trên cơ sở các quan điểm về QRTD trên, có thể thấy ở Việt Nam vẫn
chưa có khái niệm đầy đủ, chính xác về hành vi QRTD, đây là một trong các
nguyên nhân khiến hành vi QRTD ngày càng gia tăng trong cuộc sống. Theo
chúng tôi, để làm rõ khái niệm hành vi QRTD thì cần phải đi sâu làm rõ các khái
niệm liên quan sau:
Thứ nhất, khái niệm hành vi
Các nhà tâm lý học cho rằng hành vi được bắt nguồn từ sự bức xạ thần
kinh não, hình thành trạng thái tinh thần gọi là ý thức. Từ ý thức biểu hiện thành
động tức là hình thành hành vi của con người.
Theo từ điển Tâm lý học Mỹ: Hành vi là thuật ngữ khái quát chỉ những
12
hoạt động, phản ứng, phản hồi, di chuyển và tiến trình đó có thể đo lường được
của bất cứ cá nhân nào.
Chúng ta có thể hiểu hành vi “là một chuỗi các hành động lặp đi lặp lại.
Hành động là toàn thể những hoạt động (phản ứng, cách ứng xử) của cơ thể, có
mục đích cụ thể là nhằm đáp ứng lại kích thích ngoại giới” là hành động hoặc
phản ứng của đối tượng (khách thể) hoặc sinh vật, thường sử dụng trong sự tác
động đến môi trường, xã hội. Hành vi có thể thuộc về ý thức, tiềm thức, cơng
khai hay bí mật, và tự giác hoặc khơng tự giác. Hành vi là một giá trị có thể thay
đổi qua thời gian.
Thứ hai, khái niệm quấy rối
Quấy rối là hành vi nhằm vào một người hoặc nhóm người vì những đặc
tính sau của họ: danh tính, chủng tộc, nguồn gốc văn hóa hoặc dân tộc; tơn giáo;
những đặc điểm thể chất; giới tính; xu hướng tình dục; tình trạng hôn nhân, nuôi
con hoặc kinh tế; tuổi tác; năng lực hoặc khuyết tật. Nó xúc phạm, làm nhục, đe
dọa hoặc tạo ra một môi trường thù địch.[39]
Thứ ba, khái niệm tình dục
Tình dục ra đời và gắn liền với sự tồn tại của nhân loại, nó là phương thức
sinh học để giúp lồi người nhân giống và tiến hóa. Theo quan điểm của
Maslow, nhu cầu con người có nhiều và được phân chia theo 5 tầng cấu trúc từ
thấp đến cao. Theo đó tình dục là một trong những nhu cầu nằm trong tầng thấp
nhất (physiological), là những nhu cầu cơ bản, cấp thiết, khơng thể thiếu, có khả
năng thống trị con người khi nó chưa được thỏa mãn và ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng tồn tại của con người. Con người luôn phải đấu tranh để thỏa mãn bằng
được những nhu cầu cơ bản ở tầng thấp nhất này. Qua đó cho thấy được tình dục
là một nhu cầu cần thiết, bình thường và rất bản năng của con người [13]
Theo bác sĩ Phan Xuân Trung, tình dục không chỉ là giao hợp, là việc đưa
dương vật của người nam giới vào âm đạo của người nữ giới. Bởi giao hợp chỉ là
một hình thức của tình dục. Tình dục theo đúng nghĩa của từ đó là tất cả những
13
gì hai người làm để gần gũi và đem lại cho nhau khối cảm. Tình dục là biết
cách tạo cảm xúc, từ nụ hôn, cử chỉ âu yếm, vuốt ve nhẹ nhàng đến những kích
thích mạnh mẽ.[32]
Theo quan niệm của TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh trong Luận án tiến sĩ
Luật học “Các tội xâm phạm tình dục trong Luật Hình sự Việt Nam”, đã định
nghĩa tình dục như sau: “Tình dục là hoạt động tự nhiên, mang tính bản năng và
là nhu cầu cần thiết để mang lại hạnh phúc, duy trì nịi giống của con người
đồng thời có quan hệ mật thiết với tình u, tình dục khơng chỉ là giao cấu giữa
người nam và người nữ mà là tất cả những gì mang lại khối cảm cho con
người, có thể bằng tay, chân, bằng miệng hoặc bằng dụng cụ chuyên biệt, ở
vùng cơ quan sinh dục hay những bộ phận nhạy cảm khác trên cơ thể với một
người (Thủ dâm) hay nhiều người và có thể với người cùng giới hoặc khác
giới”. [7]
Từ những tìm hiểu và phân tích như trên chúng tơi đưa ra quan niệm về
hành vi quấy rối tình dục như sau: “Hành vi quấy rối tình dục là hành vi có
tính chất tình dục hướng đến người khác, đây là hành vi không được chấp
nhận, không mong muốn làm xúc phạm đối với người bị quấy rối, bao gồm
hành vi quấy rối thể chất, bằng lời nói và phi lời nói”
1.2. Đặc điểm của hành vi quấy rối tình dục
Trên cơ sở những tìm hiểu và phân tích các khái niệm liên quan về hành
vi QRTD thì chúng tơi đưa ra các đặc điểm về hành vi QRTD như sau:
Thứ nhất, hành vi có tính tình dục khơng được chấp nhận, khơng mong
muốn làm xúc phạm đối với người nhận: Dấu hiệu “không mong muốn” được
xác định nếu người bị quấy rối thể hiện rõ thái độ không mong muốn; hoặc
người bị quấy rối cảm thấy bị sỉ nhục, xúc phạm hoặc bị đe dọa bởi hành vi đó;
hoặc người thực hiện hành vi quấy rối có đủ căn cứ để dự đốn được người bị
quấy rối sẽ cảm thấy bị xúc phạm, làm nhục, xấu hổ hoặc đe dọa, tức là người
thực hiện hành vi có thể nhận thức được hành vi của mình là khơng đúng nhưng
14
vẫn làm [8]. Hành vi QRTD là hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm
và quyền tự do tình dục của con người. Quyền tự do tình dục là một trong các
quyền tự nhiên cơ bản của con người và được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Ngoài
ra, từ thực tế cho thấy việc chưa hoàn thiện pháp luật về hành vi QRTD sẽ là
tiền đề cho việc thực hiện các hành vi xâm phạm tình dục khác cao hơn. Vì vậy,
theo chúng tơi các hành vi xâm phạm đến quyền tự nhiên của con người cần
được pháp luật trừng trị.
Hành vi có tính tình dục được bên kia đáp lại hoặc tự nguyện tiếp nhận
không bị coi là hành vi QRTD.
Thứ hai, hành vi QRTD đa dạng về hình thức thể hiện: Dựa vào Bộ quy
tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc năm 2015, chúng tơi cho rằng có ba hình
thức của hành vi QRTD là: bằng hành vi mang tính thể chất/ bằng lời nói/ phi lời
nói. Cụ thể: [3]
Quấy rối tình dục bằng hành vi mang tính thể chất như tiếp xúc, hay cố
tình động chạm khơng mong muốn, sờ mó, vuốt ve, cấu véo, ơm ấp hay hơn.
Quấy rối tình dục bằng lời nói gồm các nhận xét khơng phù hợp về mặt xã
hội, văn hóa và khơng được mong muốn, bằng những ngụ ý về tình dục như
những truyện cười gợi ý về tình dục hay dùng những lời lẽ mang tính chất tính
dục, thơ tục, bình phẩm về cơ thể của người khác, lặp lại nhiều lần làm cho đối
tượng thấy khó chịu, xấu hổ hoặc thấy nhân phẩm mình bị hạ thấp. Hình thức này
cịn bao gồm cả những lời đề nghị và những yêu cầu không mong muốn hay lời
mời đi chơi mang tính cá nhân một cách liên tục.
Quấy rối tình dục bằng hành vi phi lời nói gồm các hành động khơng
được mong muốn như ngơn ngữ cơ thể khiêu khích, biểu hiện khơng đứng đắn,
Hình thức này cũng bao gồm việc phô bày các tài liệu khiêu dâm, hình ảnh, vật,
màn hình máy tính, các áp phích, thư điện tử, ghi chép, tin nhắn liên quan tới
tình dục.
Thứ ba, nạn nhân bị QRTD có sự đa dạng về giới tính và độ tuổi: Cùng
15
với sự phát triển của hành vi QRTD ngày càng trở nên phức tạp thì nạn nhân của
nó cũng ngày càng đa dạng. Nạn nhân của hành vi QRTD không chỉ là nữ giới
mà cịn có thể là nam giới, khơng chỉ quấy rối giữa những người khác phái mà
cịn xảy ra hành vi quấy rối trong cộng đồng LGBT (cộng đồng những người
đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến
(Bisexual) và người chuyển giới (Transgender)). Độ tuổi là nạn nhân của hành vi
QRTD ngày càng rộng: có thể là trẻ em, thanh thiếu niên, trung niên, bất cứ độ
tuổi hay giới tính nào đều có thể là nạn nhân. Bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn
nhân của hành vi QRTD bởi chủ thể thực hiện hành vi QRTD cũng ngày càng đa
dạng hóa.
Trong nhiều trường hợp, có thể người thực hiện hành vi nhận thức xã hội
và nhận thức pháp luật còn yếu, thiếu; việc thực hiện hành vi xuất phát từ bản
năng tình dục bị kích thích khơng thể kiềm chế, kiểm sốt bản thân để có những
hành vi ứng xử, sẽ có những hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Vì
vậy, với đặc điểm như trên, có thể thấy hành vi QRTD là hành vi nguy hiểm cho
xã hội và cần phải có pháp luật hình sự điều chỉnh.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt
Nam về hành vi quấy rối tình dục
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, thời kỳ phong kiến Việt Nam,
ngoài các văn bản có tính pháp luật (chiếu, dụ, cáo,…) thì các triều đại hưng
thịnh đã ban hành các bộ luật nhằm quản lý xã hội như Bộ Hình thư thời Lý, Bộ
Quốc triều hình luật thời Lê, Bộ Hình thư thời Trần, Hồng Việt luật lệ thời
Nguyễn. Trong đó, các bộ luật có quy định về tội phạm tình dục thì có Quốc
triều hình luật thời Lê và Hồng Việt luật lệ thời Nguyễn. Tuy nhiên, hai bộ luật
này chỉ quy định về các tội “hiếp dâm”, “gian dâm”, “ thông gian”,… đó là các
tội có hậu quả rõ ràng để cấu thành tội phạm, còn các hành vi ở mức độ nhẹ hơn
thì chưa được quy định.
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập khai sinh
16
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên ở
nước ta ra đời. Một loạt các văn bản pháp luật ra đời sau đó bước đầu hình thành
hệ thống pháp luật của đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xét xử các
tội phạm nói chung hay các tội phạm tình dục nói riêng đều dựa trên các quy
định cũ. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh 03-1976 ngày 15 tháng 3
năm 1976 quy định về các tội phạm và hình phạt với 18 điều chia làm 4 chương
(từ năm 1977 được áp dụng trên toàn quốc theo hướng dẫn của Nghị định 76-CP
ngày 25/03/1977 của Hội đồng Chính phủ). Trong đó, tại điểm d của Điều 5 quy
định: “d) Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của cơng dân thì
bị phạt tù từ 3 tháng đến 10 năm”. Quy định này có thể được hiểu như là quy
định một phần cho các hành vi QRTD hay không, hay chỉ đơn thuần là chế tài
cho các hành vi bạo lực và nhục mạ công dân. Đến năm 1967, TANDTC thông
qua Bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/5/1967 về đường lối xét xử
tội hiếp dâm và các tội khác về tình dục. Đây là văn bản tồn diện nhất trong
khoảng thời gian này đề cập đến các tội phạm: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
với người dưới 16 tuổi và dâm ô. Tại đây, với tội phạm dâm ô được hiểu như là
việc thực hiện các hành vi tiếp xúc thân thể với người khác trái với ý muốn của
họ mà chưa xảy ra giao cấu. Nhìn chung, quy định cụ thể về hành vi QRTD là
chưa có, chỉ có quy định về các tội có dấu hiệu rõ rằng và để lại hậu quả cụ thể
như tội dâm ô và tội phạm xâm phạm về thân thể và nhân phẩm của cơng dân.
Các quy định này góp phần giáo dục công dân không thực hiện các hành vi để
dẫn đến phạm tội. Pháp luật Việt Nam cần phải có quy định cụ thể về các hành
vi QRTD để việc xét xử các trường hợp về QRTD được chính xác và triệt để.
Năm 1985, BLHS đầu tiên được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 27/6/1985 có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đánh
dấu một bước phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam. Bộ luật này đã sửa đổi,
bổ sung 4 lần vào các năm 1989, năm 1991, năm 1992 và năm 1997; trong đó
17