Bộ Tư Pháp
Đại Học Luật Hà Nội
BÀI TẬP HỌC KỲ
Lịch Sử Văn Minh
Đề 05
Ảnh hưởng của Nho giáo trên lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, giáo dục của văn minh Trung Quốc cổ trung đại
Họ và tên: Đỗ Duy Phú
MSSV:
451212
Lớp:
N05.TL1
Nhóm:
Nhóm 03
Hà Nội 2021
MỤC LỤC
1. Nho Giáo..............................................................................................................3
1.1 Khái Niệm........................................................................................................3
1.2 Các Giai Đoạn.................................................................................................3
2. Ảnh Hưởng Của Nho Giáo.................................................................................4
2.1 Văn Học...........................................................................................................4
2.1.1 Kinh Thi.....................................................................................................4
2.1.2 Thơ Đường.................................................................................................5
2.1.3 Tiểu Thuyết Minh-Thanh............................................................................5
2.2 Nghệ Thuật......................................................................................................6
2.2.1 Hội Họa......................................................................................................6
2.2.2 Kiến Trúc....................................................................................................6
2.2.3 Âm Nhạc.....................................................................................................7
2.3 Giáo Dục..........................................................................................................8
2.3.1 Tích Cực.....................................................................................................8
2.3.2 Tiêu Cực.....................................................................................................9
2
1. Nho Giáo
1.1 Khái Niệm
Định nghĩa: Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một
hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng
Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã
hội hài hịa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức [1] đất nước
thái bình, thịnh vượng [2].
1.2 Các Giai Đoạn
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật
ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần
chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể
dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý, ... Nhìn chung "Nho" là một danh
hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt
cơ sở đầu tiên của Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử
(thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã phát triển học thuyết này
làm cho Nho học ngày càng thêm hoàn chỉnh. [3]
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng
Cấp, cịn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trị của
ơng chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ
Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn
chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
1[] Nền tảng Nho giáo của tư tưởng xã hội hài hịa, Nguyễn Tài Đơng, Viện Triết học, Kỷ yếu hội thảo về vấn đề sở
hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI.
2[] Quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó, Nguyễn Thị Lan, Thư viện Quốc gia
Việt Nam.
3[] Giáo trình Lịch Sử Văn Minh Thế Giới, Vũ Dương Ninh (Chủ biên) 2010
3
giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay
"tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho
gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nếu
xem Nho giáo như một tơn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ
phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà
Nho cần phải thực hành. [4]
Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng
chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế
kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam
2. Ảnh Hưởng Của Nho Giáo
2.1 Văn Học
Nho gia là trường phải rất coi trọng việc học tập, vì vậy từ Hán về sau những
người có thể cầm bút viết văn trong xã hội Trung Quốc rất nhiều. Đến thời Tùy
Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ
yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có những thành tựu lớn lao. Văn
học Trung Quốc thời kì này có nhiều thể loại như thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết,
trong đó tiêu biểu nhất là Kinh Thi, thơ Đường và tiểu thuyết Minh - Thanh.
2.1.1 Kinh Thi
Những nội dung đạo đức chủ yếu của Nho giảo như tam cương (đạo đức xã
hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là vua – tôi - cha – con, vợ - chồng), ngũ thường
(gồm năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di - bất dịch là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) là
nguồn cảm hứng sáng tác cho các bài thơ trong tập Kinh Thi. [5]
Không cấy không gặt,
Lúa có ba trăm.
Khơng bắn khơng săn,
Sân treo đầy thú.
Này ngài quân tử
Chớ ngồi ăn không
Là một tập thơ được sáng tác trong 5 thế kỉ, Kinh Thi không những chỉ có
giá trị về văn học mà cịn là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc
đương thời. Ngồi ra tác phẩm này cịn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng
4[] Nho giáo, Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam.
5[] Nho giáo trong văn học trung đại.
4
giáo dục tư tưởng của nó. Chính Khổng Tử đã nói: "Các trị sao khơng học Thi?
Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể giúp ta mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho
mọi người đồn kết với nhau, có thể làm cho ta biết ốn giận. Gần thì có thể vận
dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết được nhiều tên chim muông cây cỏ". [6]
2.1.2 Thơ Đường
Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ Đường là tư duy quan hệ.
Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ chín muồi của tư duy Trung
Quốc ở thời đại hồng kim của xã hội phong kiến (nhà Đường). Ở đó có sự hội
nhập của ba dịng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu của phương Đông là Nho,
Phật, Lão. Sự hội nhập này là một quá trình biện chứng. Nó dung hội ưu điểm của
ba dịng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của Nho gia, tính chất huyền diệu, vơ vi
của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật giáo; đồng thời nó cũng chế ước
lẫn nhau, khơng có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế, khiến cho tư duy Trung
Quốc thời này đã đạt được một sự qn bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng
khơng hề viển vơng, nó hợp lý và thực tiễn nhưng không dung tục tầm thường; Nó
tìm được sự dung hồ trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự
hồ diệu. Vì thế nó 'bất bình' khi sự hồ diệu bị phá vỡ và ứng xử bằng cách vạch
trần, tố cáo những quan hệ đối lập, bất công trong xã hội.
2.1.3 Tiểu Thuyết Minh-Thanh
Văn học Minh-Thanh là giai đoạn cuối cùng của văn học cổ điển Trung
Quốc, có nội dung phong phú nhất và là giai đoạn đánh dấu sự chuyển mình sang
thời hiện đại. Ðây là lúc văn học dân chủ và tiến bộ trỗi dậy mạnh mẽ, phản ánh
những yêu cầu và khát vọng của nhân dân, đặc biệt tầng lớp thị dân. Văn học chính
thống suy tàn theo cùng chế độ phong kiến. [7]
Các nhà nho thường chỉ coi trọng thơ và tản văn, họ cho tiểu thuyết là thứ
văn thô kệch của kẻ tiểu nhân. Tiểu thuyết dù không được giai cấp thống trị coi
trọng nhưng đáp ứng nhu cầu nhân dân, đã có hàng vạn tác phẩm lớn nhỏ được ra
đời như: Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử truyện, Kim Bình Mai, Đơng Chu liệt
quốc, Tây du ký, Hồng lâu mộng, Liêu Trai chí dị, Chuyện làng nho (Nho lâm
ngoại sử) được nhân dân ưa chuộng và giới trí thức dánh giá cao.
6[] Luận ngữ - Dương hóa
7[] Văn học Trung Quốc - Chương 3
5
Ví dụ: Thủy hử truyện miêu tả rất nhiều trung thần bị gian thần hãm hại,
triều đình bỏ rơi và muốn lật đổ chế độ để thiết lập một triều đình mới, mang tính
chất kích cộng nhân dân làm phản triều đình. Thấy ơng viết sách ca ngợi phường
“thảo khấu”, Minh Thái Tổ đã sai người bắt Thi Nại Am giam vào ngục, đồng thời
phê rằng “Đây là cuốn sách xúi giục dấy loạn của người có mưu đồ tạo phản,
không trừ đi tất gây họa về sau”. Nên để bảo toàn mạng sống Thi Nại Am đã phải
sửa lại kết Thủy Hử. [8]
2.2 Nghệ Thuật
2.2.1 Hội Họa
Hội hoạ Trung Quốc không chỉ lấy cảm hứng từ thế giới tự nhiên xung
quanh mà còn phản ánh thế giới nội tâm của người nghệ sỹ. Trong hội hoạ truyền
thống sử dụng các kỹ thuật dùng bút tương tự như nghệ thuật viết chữ của Trung
Quốc và vẽ bằng bút lông đã được nhúng vào mực đen hoặc màu. Giống với thư
pháp, bút lông, giấy và mực là những nguyên liệu cơ bản để tạo nên bức vẽ. Một
đặc điểm của hội hoạ Trung Quốc là sự nhân cách hoá bối cảnh hay vật thể để
thơng qua đó thể hiện đạo đức và giá trị nhân văn trong văn hoá truyền thống.
Chẳng hạn, sơn và thuỷ không chỉ là những yếu tố chính trong bức tranh phong
cảnh mà cịn là biểu tượng tự nhiên của nguyên tắc cơ bản về Âm và Dương.
Những sự liên tưởng như vậy thường xuất hiện một cách nổi bật trong những bài
thơ mà các hoạ sĩ sáng tác và đề lên bức tranh. Theo cách này, các hoạ sĩ có thể thể
hiện rõ nét hơn sự sâu sắc, đạo đức và các nguyên tắc cơ bản vốn có trong tác
phẩm của mình, và tác động đến khán giả từ bên trong tâm hồn và lâu bền. [9]
2.2.2 Kiến Trúc
Nghệ thuật kiến trúc, do chịu ảnh hưởng của Nho giáo nên kiến trúc Trung
Quốc thời cổ trung đại rất phong phú và đặc sắc bao gồm các thể loại như: kiến
trúc nhà ở, thành quách, cung điện, lăng mộ, đàn miếu…. Những kiến trúc này tạo
thành một hệ thống khép kín độc lập, có giá trị thẩm mỹ và hàm chứa ý nhân văn
sâu sắc. Một số cơng trình kiến trúc của Trung Quốc nổi bật như: Vạn Lý Trường
Thành, Tử Cấm Thành, Thiên đàn, ….
Ví dụ: Tử Cấm Thành là quần thể kiến trúc bằng gỗ cổ đại quy mơ lớn nhất, hồn
8[] Cuộc đời bất hạnh ít biết của tác giả Thủy hử truyện, Doanh Nghiệp Việt Nam
9[] Tổng quan về nền hội họa truyền thống Trung Hoa, REDSVN
6
chỉnh nhất hiện còn trên thế giới. Tử Cấm Thành hình vng, bố cục lấy tuyến giữa
chính Nam, chính Bắc đối xứng, xung quanh là con sông hộ thành rộng và tường
cao 9 mét. Trong thành bố trí một cách đối xứng cơng điện, cửa, viện, sơng nhỏ và
đình viên. Đây là hoàng cung của chế độ phong kiến Trung Quốc suốt 500 năm,
quy mô lớn, phong cách đẹp mắt, kiến trúc rộng lớn, bày biện sang trọng. [10]
2.2.3 Âm Nhạc
Âm nhạc bị chi phối bởi quan điểm mỹ học giáo điều cổ đại Trung Hoa: Lễ
là cái trật tự, Nhạc là cái điều hịa; âm nhạc liên thơng với chính sự; nghe nhạc có
thể biết được sự thịnh suy của một nước (Thẩm nhạc dĩ tri chính). Vì vậy, các triều
đại phong kiến nói chung đã phải rất coi trọng nhạc lễ cung đình, vì nó là bộ mặt
quốc gia, đại diện cho cả một vương triều [11]. Ý nghĩa chủ yếu của “nhạc” chính là
cơng cụ giáo hóa con người và thống trị con người. Những loại nhạc thể hiện tình
cảm trai gái, những âm thanh thút thít, buồn sầu làm ảo não lòng người, bị Nho gia
xem là “dâm thanh”, “loạn thế chi âm”, “vong quốc chi âm”, chỉ có Nhã nhạc với
“chính thanh” phù hợp với luật lữ mới xứng đáng được tôn sùng, xứng đáng để giai
cấp thống trị phong kiến các thời đại của Trung Quốc chọn dùng làm tín điều trong
trị quốc. [12]
Nhã Nhạc là loại nhạc vũ mà các vị Đế vương của Trung Quốc cổ đại dùng
để tế tự trời đất, tổ tiên và trong các dịp Triều hạ, yến hưởng. Thời Chu dùng làm
lục vũ của nhạc Tông Miếu, Nho gia cho rằng âm nhạc này “trung chính hịa bình”,
ca từ “khúc nhã thuần chính”, nên lấy nó làm điển phạm của nhã nhạc. Các nhà
thống trị phong kiến các đời, sau khi giành được chính quyền, đều tác nhã nhạc
theo thông lệ để ca tụng công đức của triều đại mình.
2.3 Giáo Dục
2.3.1 Tích Cực
Nho giáo xem trọng hiền tài. Các triều đại quân chủ tôn sùng Nho giáo chủ
trương tuyển dụng nhân tài cho đất nước qua các kỳ Khoa bảng. Các thí sinh đỗ đạt
học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho triều
10[] 10 Danh thắng không thể bỏ qua khi đến Trung Quốc, dulichbenvung.vn
11[] Bùi Ngọc Phúc, “Sự kế thừa và phát triển của Nhã nhạc Triều Nguyễn”, Học viện âm nhạc Huế.
12[] Cổ nhạc Trung Hoa
7
đình. Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo là chủ trương khuyến khích giáo
dục, coi trọng người hiền tài: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.” [13]
Nho giáo có nhiều yếu tố tiến bộ khi quan niệm rằng giáo dục là cần thiết
cho tất cả mọi người, "hữu giáo vô loại" (việc dạy dỗ không phân biệt loại người)
nên ai cũng có cơ hội được học tập và giáo dục, đây là biện pháp để hướng con
người tới những phẩm chất cao quý như "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Nho giáo cho
rằng, giáo hóa con người là một trong những nhiệm vụ cơ bản của nhà cầm quyền
và cũng là phương tiện hữu hiệu để đưa xã hội từ loạn lạc thành "thái bình thịnh
trị" [14]
Tầng lớp nhà nho kinh điển bước vào hệ thống quan lại để thực hiện lý
tưởng "trị quốc bình thiên hạ", mặt khác, do xuất thân ở tầng lớp dưới của xã hội,
họ có thể hiểu được nỗi khổ của nhân dân và những cái xấu tốt, lợi hại trong việc
cai trị, trong một mức độ có thể giảm bớt những sự hư hỏng, hạn chế hủ bại của
chế độ. Do đã tiếp thu giáo dục văn hố có hệ thống, nắm vững những tri thức lý
luận về phương pháp quản lý quốc gia, được bồi dưỡng đạo đức tương đối tốt, đội
ngũ quan lại có trình độ tương đối cao, có lợi cho việc nâng cao hiệu suất hành
chính.
Do giáo dục được coi trọng, người có kiến thức và văn hóa được xã hội tôn
trọng. Từ xưa đến nay, dù là quý tộc hay dân thường, dù giàu hay nghèo thì đều tìm
mọi cách đưa con cháu đi học để thành người có đạo đức và tri thức. Địa vị của
người thầy rất cao, “Tôn sư bất luận quý tiện bần phú” (bất kể giàu nghèo sang hèn
đều phải tôn trọng người thầy), “nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (Một ngày làm
thầy, cả đời làm cha). Từ thường dân đến hồng đế đều rất tơn trọng người thầy,
thể hiện trong mọi mặt cuộc sống xã hội.
Tinh thần học tập của Nho giáo có thể khái quát trong câu nói của Khổng Tử
"Buổi sáng biết được chân lý thì dù cho buổi chiều có chết cũng cam tâm.”
2.3.2 Tiêu Cực
Nền giáo dục chỉ trọng văn chương mà xem nhẹ các môn Khoa học tự nhiên.
Khiến cho Trung Quốc từ một trong những nền văn minh lớn của nhân loại càng
13[] Thân Nhân Trung, tác giả câu nói nổi tiếng " Hiền tài là nguyên khí quốc gia"
14[] Các giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của nho giáo và sự vận dụng Của Người Nhật Bản (Ths.
Trương Nữ Vân Thi & Ths. Lâm Ngọc Như Trúc), Ths. Trương Nữ Vân Thi & Ths. Lâm Ngọc Như Trúc, Trường đại học
Bà Rịa Vũng Tàu
8
ngày càng thụt lùi so với sự tiến bộ vượt bậc của phương Tây. Các nho sinh hàng
ngày chỉ học thuộc tứ thư ngũ kinh nhằm mục đích thi đỗ khoa cử nhưng giá trị áp
dụng vào thực tiễn là không cao.
Đồng thời việc đề cao những giá trị của các bậc hiền nhân để lại mà gần như
nền giáo dục Trung Quốc khơng hề có sự phát triển thay đổi nào trong hàng ngàn
năm. Những tác phẩm được cho vào hàng kinh điển vẫn được xem trọng và khơng
có những cải tiến thay đổi nào quá đáng kể.
9
Danh Mục Tham Khảo
1. Nền tảng Nho giáo của tư tưởng xã hội hài hịa, Nguyễn Tài Đơng, Viện
Triết học, Kỷ yếu hội thảo về vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt
Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI.
2. Quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của
nó, Nguyễn Thị Lan, Thư viện Quốc gia Việt Nam.
3. Giáo trình Lịch Sử Văn Minh Thế Giới, Vũ Dương Ninh (Chủ biên) 2010
4. Nho giáo, Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Và Kỹ Thuật Việt Nam.
5. Nho giáo trong văn học trung đại.
6. Luận ngữ - Dương hóa
7. Văn học Trung Quốc - Chương 3
8. Cuộc đời bất hạnh ít biết của tác giả Thủy hử truyện, Doanh Nghiệp Việt
Nam
9. Tổng quan về nền hội họa truyền thống Trung Hoa, REDSVN
10. 10 Danh thắng không thể bỏ qua khi đến Trung Quốc, dulichbenvung.vn
11. Bùi Ngọc Phúc, “Sự kế thừa và phát triển của Nhã nhạc Triều Nguyễn” Học
viện âm nhạc Huế.
12. Cổ nhạc Trung Hoa
13. Thân Nhân Trung, tác giả câu nói nổi tiếng " Hiền tài là nguyên khí quốc
gia"
14. Các giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của nho giáo và sự vận dụng
Của Người Nhật Bản (Ths. Trương Nữ Vân Thi & Ths. Lâm Ngọc Như
Trúc), Ths. Trương Nữ Vân Thi & Ths. Lâm Ngọc Như Trúc, Trường đại
học Bà Rịa Vũng Tàu
10