TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM
Khoa Kinh tế quốc tế
------
Bộ mơn: Tài chính hành vi
Giảng viên: Bùi Đan Thanh
Đề tài: Tự nghiệm và lệch lạc
TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2022
BẢNG PHÂN CƠNG CƠNG VIỆC
STT
1
2
3
4
5
Thành viên
Cơng việc
Neo quyết định
Sự bất hợp lý và thích nghi
Nhận thức, trí nhớ và tự nghiệm
Sự quen thuộc và các tự nghiệm
có liên quan
Tổng hợp Word + Powerpoint
Tình huống điển hình và những
lệch lạc có liên quan
Đánh giá
Hoàn thành
Hoàn thành
Hoàn thành
Hoàn thành
Hoàn thành
MỤC LỤC
1.
Giới thiệu............................................................................................................................................. 1
2.
Nhận thức, trí nhớ và tự nghiệm.......................................................................................................... 1
3.
4.
5.
6.
2.1
Nhận thức.................................................................................................................................... 1
2.2
Trí nhớ......................................................................................................................................... 2
2.3
Tác động của bối cảnh................................................................................................................. 3
2.4
Dễ dàng xử lý thông tin (ease of processing) và quá tải thông tin (information overload)..........5
2.5
Tự nghiệm (heuristic)................................................................................................................... 5
Sự quen thuộc và các tự nghiệm có liên quan...................................................................................... 6
3.1
Sự quen thuộc (familiar).............................................................................................................. 6
3.2
E ngại sự mơ hồ (ambiguity aversion)......................................................................................... 6
3.3
Tự nghiệm đa dạng hóa (diversification heuristic)...................................................................... 7
3.4
Khơng thích sự thay đổi và hiệu ứng coi trọng tài sản sở hữu (status quo bias – endowment
effect)
7
3.5
Tự nghiệm các lệch lạc, lý thuyết triển vọng và cảm xúc............................................................. 7
Tình huống điển hình (Representativeness) và những lệch lạc có liên quan ( Related biases).............8
4.1
Ảo tưởng liên kết (Conjunction Fallacy)...................................................................................... 8
4.2
Phớt lờ xác suất cơ sở (Base Rate Neglect).............................................................................. 10
4.3
Ảo tưởng con bạc (Gamble’s fallacy)......................................................................................... 13
4.4
Ước lượng quá cao khả năng dự báo (Overestimating Predictability )...................................... 15
4.5
Sự sẵn có, tức thì và nổi trội...................................................................................................... 16
Neo quyết định................................................................................................................................... 17
5.1
Điều gì giải thích cho việc neo quyết định ?.............................................................................. 18
5.2
Neo quyết định so với tính đại diện............................................................................................ 19
Sự bất hợp lý và thích nghi................................................................................................................ 19
6.1
Các tự nghiệm nhanh chóng và ít tốn kém (fast and frugal heuristics)...................................... 19
6.2
Phản ứng trước những chỉ trích................................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................................ 20
1. Giới thiệu
Trong các mơ hình cổ điển trong kinh tế và tài chính, người ta chỉ trích rằng là đôi
khi chúng được xây dựng như người ra quyết định có tất cả thơng tin khơng giới hạn. một
người ra quyết định như vậy luôn xem xét tất cả những thông tin liên quan và đưa ra được
sự lựa chọn tốt nhất trong mọi tình huống của quá trình được gọi là tối ưu hóa có ràng
buộc.
Tuy nhiên, con người bình thường là khơng hồn hảo và một số mơ hình thì địi
hỏi q nhiều thơng tin. Mơ hình định giá CAPM là một ví dụ. Mơ hình này giả định rằng
các nhà đầu tư có thể nghiên cứu tất cả các chứng khốn để có được tất cả các dữ liệu đầu
vào của mơ hình: tỷ suất sinh lời mong đợi , phương sai của các chứng khoán và hệ số
tương quan của các chứng khốn. Chỉ khi đó nhà đầu tư mới có thể lựa chọn một danh
mục đầu tư thích hợp.
Vậy câu hỏi đặt ra rằng. nếu con người trong bối cảnh bị giới hạn về thông tin và
thời gian, họ sẽ ra quyết định như thế nào? Chương này sẽ tập trung trả lời cho câu hỏi
đó.
2. Nhận thức, trí nhớ và tự nghiệm
2.1 Nhận thức
Các mơ hình giả định, thu nhập, xử lý và lưu trữ thơng tin của các chủ thể là một
q trình khơng tốn phí. Tuy nhiên, “nhận thức” có chức năng truyền tải thơng tin về
“máy tính con người” lại thường đọc sai thông tin.
Nhận thức là sự chọn lọc và hầu hết các kỳ vọng đều tác động rất mạnh đến nó,
hay nói cách khác chúng ta thường “nhìn thấy” những gì mà mình mong muốn.
Ví dụ 1: Một phụ nữ đẹp, ăn mặc sang trọng, hở hang đi vào một sàn nhảy vào
buổi tối thì chúng ta có thể nghĩ cơ ta là một cơ gái khơng tốt
Ví dụ 2: (ngụ ý của hình 2.1)
4
Hình 2.1 Hình ảnh minh họa cho ví dụ 2
Đơi khi nhận thức bị bóp méo bởi ý muốn bản thân – xung đột nhận thức. Trong
các trường hợp này, mọi người đều có xu hướng giảm thiểu hoặc né tránh những suy nghĩ
tiêu cực trong tâm lý, và thường gia tăng những hình ảnh tích cực mà bản thân mong
muốn.
Ví dụ 3: Khi đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư tin rằng
cổ phiếu mình đang sở hữu sẽ tăng giá so với trước khi đầu tư. Cụ thể, hôm nay khi bạn
đầu tư vào HPG, bạn luôn tin rằng giá HPG sẽ tăng so với hiện tại.
2.2 Trí nhớ
Trí nhớ sẽ được bộ não tái tạo lại và có sự biến đổi mạnh mẽ - đây là cách bộ não
của chúng ta vận hành. Điều này giải thích vì sao sai lệch càng tăng khi một người cố
gắng nhớ lại những hành động, quan điểm, nhận thức của mình trong quá khứ; do mọi
người tin rằng những gì mình trải qua sẽ được ghi nhận vào “ổ cứng” của não bộ.
Khi cảm xúc dâng trào (rất vui hoặc rất buồn), khả năng chúng ta sẽ nhớ lại nhiều
hơn các sự kiện hơn mức bình thường.
Ví dụ 4: Ký ức rất tốt hoặc rất xấu dễ dàng ghi sâu vào trong tâm trí. Chẳng hạn,
bạn cá độ nợ 10 tỷ hoặc nhận ra bạn trúng được 10 tờ giấy số giải đặc biệt.
Hình 2.2 Hồi ức đơi bạn trẻ có ý
định tự sát khi biết mình mắc nợ
do cá độ đá banh số tiền quá lớn
Hình 2.3 Hồi ức bạn trẻ mắc nợ cá độ
đang suy nghĩ nên mua gì hậu trúng
số khi đã có tiền trả hết nợ
Đối với con người, ký ức đẹp sẽ mang lại nhiều sự hạnh phúc hơn ký ức buồn, cho
nên đơi lúc chúng ta có xu hướng “viết lại quá khứ”. Điều đó làm cho ta lạc quan hơn khi
thấy mình có khả năng kiểm sốt tốt một số tình huống hơn so với năng lực thực tế hay
phán đốn đúng những gì có thể xảy ra trong tương lai.
2.3 Tác động của bối cảnh
Khả năng nhận thức và trí nhớ của con người bị ảnh hưởng bởi bối cảnh hay cách
trình bày. Đây là nguyên nhân chủ yếu giải thích những ảnh hưởng của bối cảnh đến các
quyết định tài chính.
− Hiệu ứng tương phản ( Contrast Effect) Ví
dụ 5: Ảo giác về màu của váy ở hình 2.4
Hình 2.4 Ảo giác màu của 2 chiếc váy
Giải thích:
− Hiệu ứng ban đầu ( Primacy Effect)
Khi hỏi ấn tượng về một ai đó dựa trên một loạt các yếu tố tượng trưng thì yếu tố
đầu tiên thường chi phối suy nghĩ của mình về người đó.
Ví dụ 6: Bạn gặp 2 người có 2 tính cách như sau
Người thứ 1. Thông minh – siêng năng – bốc đồng – bướng
bỉnh Người thứ 2. Bướng bỉnh – bốc đồng – siêng năng – thông
minh
Người thứ 1 gây ấn tượng hơn người thứ 2 dù cho có cùng tính cách. Vì người
thứ 1 có ấn tượng đầu tiên là thông minh. Đây là ấn tượng tốt so với ấn tượng ban đầu
của người thứ 2 là bướng bỉnh.
− Hiệu ứng tức thì (Recency Effect)
Ngược lại hiệu ứng ban đầu, hiệu ứng tức thì thể hiện yếu tố xuất hiện cuối cùng
sẽ gây tác động mạnh hơn.
Ví dụ 7: Chiến lược marketing phổ biến hiện nay Các video quảng cáo khuyến
mãi sản phẩm trên các phương tiện truyền thông, thường đặt logo của mình vào những
giây cuối của video giúp cho người xem nhanh chóng nhận diện logo sản phẩm của
doanh nghiệp hơn. Đây là một chiến lược marketing của các doanh nghiệp trên thị
trường
Vậy giữa hiệu ứng ban đầu và hiệu ứng tức thì, hiệu ứng nào gây tác động mạnh
hơn? Câu trả lời đó là khi có sự khác biệt đáng kể về thời gian hiệu ứng tức thì thường
chi phối hơn là hiệu ứng ban đầu.
Ví dụ 8: Sự kiện xảy ra cuối tuần qua sẽ có tác động mạnh hơn so với một sự kiện
xảy ra vào năm ngoái. Nhưng nếu một trong hai sự kiện có liên quan liên tiếp với nhau,
sự kiện sau nối tiếp sự kiện đầu, thì sự kiện đầu (hiệu ứng ban đầu) có tác động mạnh
hơn.
− Hiệu ứng danh tiếng (Halo Effect)
Ví dụ 9: Một cuốn sách có bìa đẹp sẽ có nhiều cơ hội được người đọc cầm lên
xem nội dung bên trong hơn một cuốn sách có bìa kém hấp dẫn hơn.
Ví dụ 10: Khi thuyết trình chúng ta hay chú trọng đến trang phục, nhóm sẽ mặc
đồ lịch sử (mặc áo sơ mi trắng, quần tây đen…) vì họ tin rằng khi ăn mặc chỉnh tề thì
người xem sẽ ấn tượng, có thiện cảm và chú ý lắng nghe nội dung thuyết trình hơn.
Ví dụ 11: Khi mua một sản phẩm, nếu có 2 loại sản phẩm cùng giá và có chức
năng như nhau, khách hàng thường chọn sản phẩm có thương hiệu uy tín hay thương
hiệu họ biết.
2.4 Dễ dàng xử lý thông tin (ease of processing) và quá tải thông tin (information
overload)
Chúng ta thường ưa thích các tình huống mà có thể dễ dàng xử lý thông tin – tức là
hiểu tình huống đó một cách nhanh chóng. Thơng tin dễ hiểu thường được cho là chắc
chắn đúng.
Con người sẽ gặp khó khăn trong việc đánh giá thơng tin do có q nhiều thơng tin
mà chúng ta có thể sử dụng. Dẫn đến tình trạng q tải thơng tin, tức tình trạng bối rối và
né tránh đưa ra quyết định.
Ví dụ 12: Khi có q nhiều người tỏ tình với bạn, bạn sẽ ko biết đồng ý với ai là
tốt hơn (q tải thơng tin). Tuy nhiên, khi chỉ có 1 người tỏ tình, bạn sẽ đưa ra lựa chọn
nhanh chóng (dễ dàng xử lý thơng tin).
Ví dụ 13: Trong một thí nghiệm, người mua hàng tại siêu thị được dùng thử các
loại bánh và nước trái cây. Trong lần thử nghiệm đầu tiên, cho khách nếm 1 lượng nhỏ,
trong lần thử nghiệm thứ 2 thì cho khách nếm thử 1 lượng lớn hơn. Mặc dù mọi người
thường thích bàn ăn có nhiều món hơn để lựa chọn, thực tế là khi có nhiều sản phẩm ta
có thể thu hút đám đơng hơn nhưng lại bán được ít sản phẩm hơn. Ngược lại bàn ăn có ít
sản phẩm hơn lại bán được nhiều hơn. Vì có q nhiều sản phẩm để lựa chọn khiến con
người quá tải thông tin, và cảm giác khó đưa ra quyết định. Sự chần chừ khiến cho hành
động thực hiện khơng được dứt khốt.
2.5 Tự nghiệm (heuristic)
Trong bối cảnh bị hạn chế về thông tin và khả năng xử lý nhưng chúng ta phải đưa
ra các quyết định một cách nhanh chóng và khơng được trì hỗn, thì chúng ta thường sử
dụng đường tắt hoặc tự nghiệm.
Tự nghiệm là quy tắc đưa ra quyết định sử dụng một tập hợp con trong tất cả thông
tin. Nguyên nhân dẫn đến việc tự nghiệm: tiết kiệm chi phí, khơng thể phân tích tất cả
biến cố bất ngờ và khơng thể trì hỗn việc đưa ra quyết định. Nên chúng ta thường thực
hiện tự nghiệm một cách vô thức và khơng nhận ra điều đó.
Tự nghiệm được phân loại thành 2 nhóm:
− Nhóm 1 (phản thân (reflexive), tự trị (autonomic), khơng nhận thức (noncognitive) và tiết
kiệm chi phí): thích hợp khi cần nhanh chóng đưa ra quyết định hoặc khi số tiền đặt cược
là nhỏ.
Ví dụ 14: Hà thích chơi đánh đề hơn đánh bài bởi vì Hà thích chơi đánh đề thơi.
− Nhóm 2 (nhận thức): cần nhiều nỗ lực và thích hợp khi số tiền đặt cược lớn.
Ví dụ 15: Hơm nay Hà khơng chơi đánh đề nữa, vì Hà nghĩ đánh bài hơm nay
chơi cùng cả lớp sẽ vui hơn.
Trong một số trường hợp những phản ứng ban đầu dựa trên tự nghiệm dạng 1 có
thế bác bỏ hoặc củng cố tự nghiệm dạng 2
3. Sự quen thuộc và các tự nghiệm có liên quan
3.1 Sự quen thuộc (familiar)
Con người dễ dàng chấp nhận tham gia một cuộc chơi nếu họ cảm thấy am hiểu về
nó, hay nói cách khác là cảm thấy đủ khả năng. Do chúng ta cảm thấy an tâm hơn đối với
những gì mà mình đã quen thuộc.
Ví dụ 16: Trong tất cả các loại chứng khoán trên thị trường, một nhà đầu tư sẽ
cảm thấy đủ khả năng quản lý danh mục đầu tư các loại giấy tờ có giá của các công ty,
doanh nghiệp mà họ cảm thấy quen thuộc hơn những cơng ty chỉ mới niêm yết chưa có
q nhiều thông tin tiếp cận.
3.2 E ngại sự mơ hồ (ambiguity aversion)
Bắt nguồn từ việc con người ưu thích rủi ro hơn là sự khơng chắc chắn. Khơng
thích sự mơ hồ, né tránh các rủi ro không được bù đắp, và tìm kiếm sự an tâm trong quyết
định.
Hay nói cách khác, khi ra quyết định về sự khơng chắc chắn người ta thường thích
các lựa chọn liên quan đến xác suất rõ ràng (rủi ro) hơn là các lựa chọn liên quan đến xác
suất mơ hồ, không rõ ràng.
Ví dụ 17: Minh họa cổ điển, người chơi thích đặt cược vào việc rút ra quả bóng
màu đỏ trong trường hợp biết bình đựng 50 quả bóng đen và 50 quả bóng đỏ hơn là
trường hợp biết trong bình có 100 quả bóng màu đen và màu đỏ. Điều dễ hiểu là ở
trường hợp một, người chơi sẽ biết được xác suất anh ta rút được quả bóng màu đỏ là
50%, xác định một các rõ ràng hơn là trường hợp hai. Đó là một biểu hiện của sự ưu
thích rủi ro hơn là sự khơng chắc chắn.
3.3 Tự nghiệm đa dạng hóa (diversification heuristic)
Con người thường ít cố gắng khi đứng trước các lựa chọn không loại trừ lẫn nhau.
Yếu tố tác động đến hành vi: giảm thiểu rủi ro, yêu thích sự đa dạng và dễ dàng lựa chọn
hơn.
Ví dụ 18: Khi mua vé trọn gói ở công viên Đầm Sen, một hành vi chắc chắn
thường thấy là bạn sẽ lựa chọn chơi nhiều trò chơi khác nhau, bởi vì việc chỉ chơi 1 hay
2 trị nhất định có rủi ro bạn sẽ khơng thích nó hoặc bỏ sót các trị chơi hay cịn lại.
3.4 Khơng thích sự thay đổi và hiệu ứng coi trọng tài sản sở hữu (status quo bias
– endowment effect)
Con người thường có xu hướng giữ nguyên trạng thái hiện tại hơn là chủ động
thực hiện thay đổi nó. Lý giải cho hiện tượng là do ta ln tìm kiếm cảm giác an toàn,
chống lại những sự thay đổi (kể cả khi nó mang lại kết quả tích cực), lo sợ sẽ hối tiếc nếu
thay đổi hiện tại. Điều này, dẫn đến khuynh hướng chúng ta tiếp tục nắm giữ những gì mà
mình đang có hay ln coi trọng những cái mình đang sở hữu
Ví dụ 19:
3.5 Tự nghiệm các lệch lạc, lý thuyết triển vọng và cảm xúc
Lệch lạc khơng thích sự thay đổi được xem như một hàm ý của lý thuyết triển
vọng hoặc một tự nghiệm có tiềm năng lệch lạc.
Trong thực tế, tất cả tự nghiệm trong phần này ở một mức độ nào đó là bắt nguồn
từ sự tìm kiếm cảm giác thoải mái. Nhưng thực sự quan điểm thật sự ở đây là phân biệt
giữa lý thuyết triển vọng, tự nghiệm, cùng các lệch lạc, và cảm xúc đơi khi khơng rõ
ràng.
Ví dụ 20:
4. Tình huống điển hình (Representativeness) và những lệch lạc có liên quan
(Related biases).
Trong ấn phẩm nghiên cứu của Amos Tversky và Daniel Kahneman, Judgment
under uncertainty: Heuristics and biases (1982) (Sự đánh giá trong bối cảnh không chắc
chắn: tự nghiệm và lệch lạc) đã đưa ra 3 loại tự nghiệm điển hình dẫn đến việc đưa con
người đi đến những quyết định sai lầm, bao gồm: tình huống điển hình (representativeness),
sự sẵn có (availability) và neo quyết định (anchoring). Nguyên nhân gây ra của những
quyết định gắn với các yếu tố tâm lý kể trên chủ yếu là việc đánh giá sai khả năng xác
suất xảy ra gắn với những tình huống liên quan tới quyết định đó. Hay nói cách khác,
đánh giá xác suất khả năng sự kiện xảy ra cao hơn bản chất thực tế của nó.
Trên thị trường tài chính, giá cả của các tài sản tài chính trong quá khứ có thể ảnh
hưởng đến kỳ vọng của nhà đầu tư trong tương lai về xu hướng giá của tài sản theo 2 hướng
kỳ vọng giá lên (trend projection) và kỳ vọng giá xuống (trend reversal) ( Joseph Johnson
& J.Tellis, 2005). Hai sự phản ứng này đến từ sự thiếu hiểu biết của nhà đầu tư về các sự
kiện ngẫu nhiên. Nhà đầu tư tính tốn sai lầm khi anh ta tin rằng một nhóm nhỏ mẫu dữ
liệu (sample) có thể đại diện cho một tình huống tổng quát. Sự lệch lạc này được gọi là
representativeness (tình huống điển hình).
4.1 Ảo tưởng liên kết (Conjunction Fallacy)
Hội chứng ảo tưởng liên kết là một trong những biểu hiện của tình huống điển hình.
Ví dụ 21: TCHV 10.0 là một quỹ đầu tư đầu tư chuyên đầu tư vào các cổ phiếu vốn
hóa vừa và nhỏ trên TTCKVN. Xem xét 2 tình huống sau:
(1) : TCHV 10.0 sẽ đạt tỷ suất sinh lời gấp 5 lần VNINDEX vào năm 2021
(2) : TCHV 10.0 sẽ đạt tỷ suất sinh lời gấp 5 lần VNINDEX vào năm 2021 và TCHV
10.0 trong năm 2021 sẽ tuyển dụng thêm nhiều nhà phân tích giỏi nhất từ Morgan Stanley
để áp dụng những mơ hình định giá hiện đại tìm kiếm những cổ phiếu bị đánh giá thấp
trên thị trường.
Giải thích: Ảo tưởng liên kết xảy ra khi bạn đánh giá xác suất (2) xảy ra cao hơn
xác suất (1).Nguyên nhân do lựa chọn thứ (2) gợi ý quan hệ nhân quả (causual explaination)
(khả năng tăng trưởng lợi tức của quỹ đầu tư tăng lên theo cùng với số lượng nhà phân
tích giỏi). Nhận định một cách tự nhiên thì thoạt nhiên có vẻ hợp lý, nhưng xét về mặt
định lượng thì (1) lại có xác suất cao hơn (2).
Giả sử:
− Xác suất tình huống (1) xảy ra là Pr(A) = 50%,
− Xác suất của tình huống “TCHV 10.0 trong năm 2021 sẽ tuyển dụng thêm nhiều
nhà phân tích giỏi nhất từ Morgan Stanley” là Pr(B) = 50%.
− Tình huống (2) là xác suất kết hợp giữa Pr(A) và Pr(B)
Xác suất tình huống (2) xảy ra là Pr(2) = Pr(A) x Pr(B) = 50% x 50%= 25% < Pr(A)
Kết luận ta thấy xác suất (2) xảy ra thấp hơn xác suất (1).
Việc hiểu lầm giữa xác suất đơn lẻ (simple probability) và xác suất kết hợp (joint
probability) được gọi là Ảo tưởng liên kết (Conjunction Fallacy). Để hiểu hơn, chúng ta sẽ
cùng xem xét một tình huống gắn với quyết định đầu tư chứng khoán. Tương lai là vơ
định, vì thế các nhà phân tích xem xét cơ hội và đưa ra quyết định đầu tư dựa trên việc
phân tích xác suất khả năng xảy ra những sự kiện mà họ cho là nảy sinh ra cơ hội đầu tư.
Chẳng hạn như, xác suất là bao nhiêu để Công ty Thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh
(VHC) thắng trong vụ kiện với nhà thầu Trung Quốc ? , xác suất là bao nhiêu để NHNN
tăng 100 điểm lãi suất vào quý tới để cải thiện NIM cho các NHTM ? Vấn đề ở chỗ, có
một sự khó khăn lớn trong việc hiểu và đánh giá các phân phối xác suất như thế này.
Case study: Ảo tưởng liên kết giải thích cho hiện tượng ưa thích các quỹ tương hỗ
Hội chứng conjunction fallacy có thể giải thích được ngun nhân tại sao các quỹ
tương hỗ (mutual funds) vẫn hoạt động được trong khi tỷ suất sinh lời công ty suy thối
khơng mấy hấp dẫn và chi phí giao dịch lại cao. Trở lại ví dụ về quỹ đầu tư TCHV 10.0,
trên thực tế các nhà đầu tư cho rằng tình huống (2) có khả năng xảy ra nhiều hơn tình
huống (1). Có nghĩa là, thật khó để đa số nhà đầu tư tin rằng để đạt được một suất lợi
nhuận bất
thường (abnormal return) chỉ cần “ngồi mát ăn bát vàng” và đầu tư vào những quỹ chỉ số
(Index funds) vốn an tồn và chi phí thấp thay vì các quỹ tương hỗ với chi phí quản lý
cao dùng để trả cho những nhà phân tích giỏi. Với niềm tin đó, các nhà đầu tư sẵn sàng
bỏ tiền vào các quỹ tương hỗ bất chấp phí giao dịch cao nhưng lợi nhuận thì rất nghèo
nàn.
4.2 Phớt lờ xác suất cơ sở (Base Rate Neglect)
Phớt lờ xác suất cơ sở hay còn gọi là sự sai lầm tỉ lệ cơ sở trong tiếng Anh có một
số cách gọi là Base Rate Fallacy hay Base Rate Neglect. Đây là một biến thể khác của
tình huống điển hình. Phớt lờ xác suất cơ sở là một lỗi nhận thức trong bởi đó có quá ít
trọng yếu được dựa trên cơ sở hoặc tỉ lệ ban đầu của khả năng (ví dụ: xác suất của A cho
B). Trong tài chính hành vi, sự sai lầm tỉ lệ cơ bản là xu hướng mọi người đánh giá sai
khả năng của tình huống bằng cách cơng ty suy thối khơng tính đến tất cả các dữ liệu
liên quan.
Ví dụ 22: Nếu xác suất của bất kỳ phụ nữ nhất định nào bị ung thư gan là
1/10.000, nhưng xét nghiệm trên 10.000 phụ nữ cho kết quả 100 dương tính, thì các nhà
lý luận sẽ có xu hướng đánh giá quá cao xác suất mà bất kỳ phụ nữ nào có kết quả xét
nghiệm dương tính thực sự bị ung thư thay vì xem xét khả năng dương tính giả. Những
sai lệch này xảy ra bởi vì con người thường bị buộc phải đưa ra phán đoán nhanh chóng
dựa trên thơng tin ít ỏi và bởi vì những phán đốn thích nghi nhất hoặc nhanh chóng
cơng ty suy thối khơng phải lúc nào cũng đúng nhất.
Quy tắc Bayes cho phép tính xác suất một cách tối ưu dựa trên sự xuất hiện của
thông tin mới. Trong quy tắc Bayer, mối tương quan hữu ích cho phép chúng ta đánh giá
xác suất có điều kiện là :
Pr(B/A) = pr( A/B) * [ pr (B) / pr (A)]
Trong đó: Pr(B/A) là xác suất xảy ra B, phụ thuộc vào A
Pr(A/B) là xác suất xảy ra A, phụ thuộc vào
B Pr(A) là xác suất xảy ra A
Pr(B) là xác suất xảy ra B
Ví dụ 23: Một nhà đầu tư đang cố gắng xác định khả năng một công ty sẽ vượt
trội hơn so với nhóm cơng ty ngang hàng của mình và nổi lên như một công ty dẫn đầu
ngành. Giả định dựa trên tần suất quá khứ của thời điểm này trong năm, bạn có dữ liệu
sau:
− Xác suất “Giá cổ phiếu HPG đang trên đà tăng trưởng” : pr(HPG tăng) = 40%
− Xác suất “Giá cổ phiếu HPG trong xu hướng giảm giá” : pr(HPG giảm) = 60%
− pr( Chỉ số trung bình ngành thép tăng | HPG tăng) = 90%
− pr( Chỉ số trung bình ngành thép tăng | HPG giảm) =
2.5% Vậy pr (HPG tăng | Chỉ số trung bình ngành thép
tăng) = ?
Giải: Ta có
− pr(Chỉ số trung bình ngành thép tăng) = pr( Chỉ số trung bình ngành thép tăng |
HPG tăng) * pr(HPG tăng) + pr(Chỉ số trung bình ngành thép tăng | HPG giảm) *
pr(HPG giảm) = 0.9 * 0.4 + 0.025 * 0.6 = 0.375
− pr(HPG tăng | Chỉ số trung bình ngành thép tăng) = pr( Chỉ số trung bình
ngành thép tăng | HPG tăng) * [pr(HPG tăng) / pr( Chỉ số trung bình ngành thép
tăng) ] = 0.9 * (0.4/0.375) = 0.96
xác suất HPG tăng từ 40% lên 96% khi biết thêm thông tin rằng chỉ số ngành thép tăng.
Trong khi nền tảng của thơng tin tình hình tài chính vững chắc của công ty, tốc độ
tăng trưởng ổn định, quản lí với hồ sơ theo dõi đã được chứng minh và một ngành có nhu
cầu mạnh mẽ. Tất cả đều chỉ ra khả năng vượt trội thì một quý của cơng ty có thu nhập
thấp có thể khiến các nhà đầu tư quay lưng lại và nghĩ rằng điều này đang thay đổi tiến
trình của cơng ty. Đơn giản hơn, cơng ty này có thể chỉ là một đốm sáng nhỏ trong sự gia
tăng chung của ngành.
Hiện tượng ghi điểm liên tục (hot hand) là khái niệm đề cập một người hay chủ
thể đã có chuỗi thành cơng, nên họ có nhiều khả năng tiếp tục thành cơng. Ví dụ, nếu một
người tung một đồng xu và đốn chính xác rằng nó sẽ rơi trúng mặt trước ba lần liên tiếp,
thì có thể nói rằng họ có hot hand.
Theo Givolich, Vallone và Tversky (1985), thuật ngữ “hot hand” lần đầu tiên được
sử dụng để mô tả những niềm tin của khán giả về màn trình diễn của các cầu thủ bóng rổ.
Một cầu thủ sở hữu “hot hand” khi cú đập bóng của anh ta mang về chiến thắng chung
cuộc cho đội nhà. Ba nhà nghiên cứu trên đã tìm ra những bằng chứng cho thấy các huấn
luyện viên, người hâm mộ của đội tuyển Philadelphia vào những năm 76s tin rằng cú đập
bóng tiếp theo của anh ta sẽ có khả năng thành công cao hơn nếu anh ta đã có những cú
úp rổ ghi điểm trước đó. Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm lại cho thấy khả năng đập
bóng của cầu thủ cơng ty suy thốing liên quan gì đến những cú đập bóng trước đó.
Tvesky và Gilovich (1989) đã lập luận rằng hành vi này xảy ra là do các cá nhân cơng ty
suy thốing nhận thức được sự độc lập giữa các chuỗi sự kiện ngẫu nhiên.
Hiện tượng “hot hand” trong mơn bóng rổ sau này được mở rộng phạm vi nghiên
cứu của tài chính hành vi. Debondt và Thaler (1985) đã thực hiện những nghiên cứu dựa
trên vấn đề này. Họ cho rằng những hành vi của nhà đầu tư dựa trên những thông tin quá
khứ trở nên bi quan quá mức về những khoản thua lỗ trong quá khứ và lạc quan quá mức
về những khoản đầu tư sinh lời. Kết quả là, những giao dịch của những kiểu nhà đầu tư
như vậy làm cho giá cổ phiếu trên thị trường rơi vào những tình huống bị định giá quá
thấp hoặc bị định giá quá cao.
Case study: The hot hand và chiến thuật marketing của các quỹ đầu tư
Các nhà tiếp thị dịch vụ tài chính khai thác hiện tượng tâm lý “hot hand” để thực
hiện chiến dịch của họ bằng cách quảng cáo tỷ suất sinh lời trong quá khứ của các sản
phẩm đầu tư. Tuy nhiên, theo SEC Amends Mutual Fund Advertising Rules, 2003 (Luật
quảng cáo sửa đổi bổ sung dành cho các quỹ tương hỗ ở TTCK Mỹ) yêu cầu các quỹ
tương hỗ phải cơng bố một dịng chữ “Past performance is no guarantee of future
returns”, ngụ ý rằng các nhà đầu tư cơng ty suy thối khơng nên cân nhắc yếu tố suất
sinh lời trong quá khứ làm yếu tố quyết định đầu tư vốn vào các quỹ tương hỗ. Nếu
những gì SEC khuyến nghị là đúng, chiến lược quảng cáo bằng cách thể hiện tỷ suất sinh
lời trong quá khứ sẽ hồn tồn cơng ty suy thối khơng có tác dụng. Tuy nhiên, tại sao họ
vẫn dùng chiến lược đó để tiếp thị cho đến ngày hôm nay?
Hình 4.1 Mẫu tiếp thị bằng tỷ suất sinh lời trong quá khứ của quỹ đầu tư
PYN Elite, Phần Lan
Hiện tượng “hot hand” có thể chính là sự ủng hộ mạnh mẽ cho động lực của các nhà
tiếp thị tài chính. The hot hand xảy ra khi cá nhân dự toán sai lầm về tương lai của một xu
hướng bằng cách kỳ vọng một xu hướng ngẫu nhiên sẽ tương quan dương với xu hướng
đang quan sát. Dựa vào nguyên lý hoạt động của The hot hand, các nhà đầu tư có niềm
tin rằng khoảng tiền ủy thác của họ sẽ tiếp tục sinh lời giống như suất sinh lời mà nhà
quảng cáo cung cấp. Từ đó các nhà quảng cáo kỳ vọng khách hàng sẽ mua sản phẩm của
họ.
4.3 Ảo tưởng con bạc (Gamble’s fallacy)
Ảo tưởng con bạc hay còn gọi ngụy luận của con bạc (Gambler’s Fallacy) là quan
niệm sai lầm về các sự kiện ngẫu nhiên. Theo đó kết quả của chúng sẽ có xu hướng “tự
cân bằng” sau một khoảng thời gian.
Ví dụ 24: nếu bạn tung đồng xu 10 lần và tất cả 10 lần đều là mặt sấp thì trong
tâm trí bạn sẽ có ý nghĩ rằng cái tiếp theo hẳn sẽ là mặt ngửa. Thiên kiến “ảo tưởng của
con bạc” khiến bạn tin rằng lượt tung tiếp theo khả năng cao sẽ là mặt ngửa, do đó khiến
bạn đặt cược mạo hiểm hơn. Tuy nhiên, xác suất được mặt ngửa trong lượt tung tiếp theo
vẫn chỉ là 50/50. Tversky và Kahneman (1971) đã lập luận rằng, hội chứng này xuất hiện
bởi vì mỗi cá nhân cơng ty suy thối khơng nhận thức được rằng mỗi lần lần tung đồng
xu là mỗi sự kiện độc lập với nhau.
Trong việc đầu tư chứng khốn, ta có thể thấy rõ hiện tượng này trong quyết định
bán hay nắm giữ. Shefrin và Statman (1985) đã lập luận rằng nhà đầu tư thường giữ cổ
phiếu thất bại quá lâu và bán cổ phiếu có khả năng sinh lời quá sớm. Gamble’s fallacy có
thể là nguyên nhân ngầm gây ra hiện tượng này. Cả hai trường hợp, nhà đầu tư đều thất
bại trong việc dự đoán điểm đảo chiều của xu hướng giá cổ phiếu. Cá nhân giữ cổ phiếu
tốt hoảng sợ những trải nhiệm thua lỗ trong quá khứ làm cho anh ta bán ra cổ phiếu quá
sớm và tương tự với người giữ cổ phiếu xấu.
Gamble’s fallacy và nguyên nhân của hiện tượng giá cổ phiếu “điều chỉnh”
Chúng ta thường thấy trong xu hướng tăng giá của một cổ phiếu bao giờ cũng xuất
hiện những phiên điều chỉnh ( market correction). Điều chỉnh giá trong đầu tư là hiện
tượng giá chứng khoán sụt giảm từ 10% trở lên so với mức đỉnh gần đây nhất của nó.
Điều chỉnh giá có thể xảy ra đối với một tài sản riêng lẻ như cổ phiếu hoặc trái phiếu,
hoặc các chỉ số bao gồm một nhóm tài sản. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể được
giải thích bằng hiện tượng Gamble’s fallacy. Nhà đầu tư thất bại trong việc nhận ra xu
hướng đảo chiều và bán ra quá sớm, dẫn đến những phiên giảm điểm nhẹ sau đó lại quay
trở lại xu hướng tăng trước đó.
Ví dụ 25: Năm 2017, CNBC có một bài báo với tiêu đề: " Tại sao giá dầu sẽ được
hiệu chỉnh?" (Why oil is due for a sharp correction ?). Bài viết có ghi “With oil prices
over 30 percent higher since June, oil market bulls are finally getting what they wished
for this holiday season” (Với mức tăng giá hơn 30% kể từ tháng 6, nhà đầu tư cuối cùng
cũng được toại nguyện với món quà mà thị trường dầu thô mang lại). Đây là thực tế,
nhưng ngôn từ trong bài viết và dẫn chứng đưa ra dường như ngụ ý với người đọc rằng
giá dầu sắp được hiệu chỉnh đơn giản vì đã đạt một mức cao đến vậy. Tương tự như việc
tung đồng xu trình bày ở trên, tác giả bài báo đã thể hiện thiên kiến theo lối “gamble’s
fallacy” qua chính suy nghĩ rằng giá dầu tăng cao như thế thì nó phải “sắp” được hiệu
chỉnh. Ngoài
ra, thiên kiến này cũng được thể hiện trong các bài báo như là một loạt các dẫn chứng
được sử dụng để chứng minh cho lập luận về sự hiệu chỉnh.
Hình 4.2 Hình ảnh minh họa ví dụ 24
4.4 Ước lượng quá cao khả năng dự báo (Overestimating Predictability )
Hiện tượng này xảy ra khi con người có xu hướng tin rằng họ có khả năng dự báo
những thứ về bản chất là cơng ty suy thối khơng dự báo được. Nguyên nhân xuất phát từ
việc họ có một niềm tin mạnh mẽ rằng có một sự tương quan giữa những thứ cơng ty suy
thối khơng tương quan với nhau, và có quan niệm sai lầm về việc mọi thứ đều có thể dự
đốn được.
Ví dụ 26: Khi học sinh được yêu cầu dự báo điểm GPA dựa trên khả năng hài
hước của mỗi học sinh ( khả năng hài hước hiển nhiên là cơng ty suy thốing thể tham
chiếu về mặt định lượng), các học sinh này dường như tin rằng có một sự tương quan
dương trong mối quan hệ giữa điểm GPA và khả năng hài hước.
Theo trực giác, một người thực hiện các dự báo bằng cách cân đối chính xác trung
bình của tổng thể cần dự báo. Với ví dụ này, nếu trung bình GPA là 3.0 và bạn tin rằng
khiếu hài hước công ty suy thối khơng có tính chất tham chiếu để dự báo. Kết quả dự
đoán của bạn là 3.0. Tuy nhiên, nếu bạn tin rằng có một sự tương quan dương nhất định
giữa GPA và khiếu hài hước, ước lượng dự báo của bạn sẽ chệch xa khỏi trung bình và có
xu hướng nhạy cảm cao với khả năng hài hước. Khuynh hướng ước lượng thấp hiện
tượng hồi
quy về giá trị TB cũng giống như việc đánh giá thấp xác suất cơ sở. Nguyên do là do dữ
liệu mẫu được sử dụng với tỷ trọng cao hơn so với tổng thể hoặc phân phối.
Ví dụ 27: Dự đoán điểm GPA ở bậc đại học từ số liệu GPA ở bậc phổ thông của
những người vào đại học.
Dữ liệu tổng thể
Dữ liệu mẫu
Kết quả khảo sát
GPA bình quân ở bậc phổ thông: 3.44 (độ lệch chuẩn = 0.36)
GPA bình quân ở bậc đại học: 3.08 (độ lệch chuẩn = 0.4)
Sinh viên 1 : GPA phổ thông = 2.2
Sinh viên 2 : GPA phổ thông = 3.8
GPA dự báo trung bình của sinh viên 1 = 2.03
GPA thực tế của sinh viên 1 = 2.7
Trong khảo sát trên, GPA trung bình của sinh viên 1 được dự báo thấp hơn nhiều
so với mức trung bình 3.08. Nguyên nhân vì họ tin rằng điểm sinh viên 1 là một đại diện
cho một thành tích học tập kém. Điểm trung bình dự báo của khảo sát dành cho sinh viên
1 là
2.03 nhưng trên thực tế là 2.7. Khuynh hướng ước lượng thấp hiện tượng hồi quy về giá
trị TB xuất hiện bởi vì điểm học tập cấp ba cơng ty suy thoáing mang xu hướng dự báo
cho điểm đại học. Trên thực tế, bản thân sinh viên 1 có thể đã cải thiện khả năng học tập.
4.5 Sự sẵn có, tức thì và nổi trội
Tự nghiệm sẵn có (availability heuristics) là những sự kiện dễ dàng gợi lại trong
trí óc thì được cho là dễ xuất hiện hơn.
Ví dụ 28: Sau khi xem một
số chương trình truyền hình về các
vụ cá mập tấn công, bạn bắt đầu
nghĩ rằng những trường hợp như
vậy là tương đối phổ biến. Khi bạn
đi tắm biển, bạn từ chối bơi trong
đại dương vì bạn tin rằng khả
năng cá mập tấn cơng là cao.
Hình 4.3 Hình ảnh minh họa ví dụ 28
Có 2 yếu tố tạo nên sự sẵn có: sự tức thì và sự nổi trội.
− Lệch lạc tức thì (recency bias): khi một điều gì đó xảy ra gần đây, việc gợi nhớ đến nó
nhiều khả năng sẽ dễ dàng hơn
Ví dụ 29: Sự tức thì có thể khiến các NĐT mua những cổ phiếu nóng mặc dù
khơng có nhiều bằng chứng cho thấy đây là một quyết định sáng suốt.
− Lệch lạc nổi trội (salience bias): khi một điều gì đó nổi trội, việc gợi nhớ đến nó nhiều
khả năng sẽ dễ dàng hơn
Ví dụ 30: Hãy cẩn thận với những gì dễ dàng
xuất hiện trong tâm trí bạn nhất nhé, đặc biệt là đừng
để marketing ảnh hưởng. Nếu bạn thấy rất nhiều
quảng cáo Sunsilk, rất có khả năng bạn sẽ mua nó nếu
khơng biết mua loại dầu gội đầu nào mà chưa xem xét
các loại dầu gội khác.
Hình 4.4 Hình ảnh minh họa ví dụ 30
Sự sẵn có và những yếu tố tương tự như tức thời và nổi trội khiến nhiều người ước
lượng quá mức xác suất xảy ra một sự kiện
5. Neo quyết định
Trong một số trường hợp, nhiều người thực hiện việc ước lượng bắt đầu từ một giá
trị ban đầu và điều chỉnh nó để tạo nên ước lượng cuối cùng. Thơng thường sự điều chỉnh
này là khơng đầy đủ.
Ví dụ 31: Quan sát nhanh kết quả các phép tính sau:
1x2x3x4x5x6x7x8 Giá trị trung vị: 512
8x7x6x5x4x3x2x1 Giá trị trung vị: 2,250
Hầu hết mọi người sẽ nhân một ít con số đầu tiên trong chuỗi trước khi đưa ra kết quả
cuối cùng. Giá trị đúng: 40,320
Neo quyết định thậm chí có thể xuất hiện ngay cả khi mốc neo đó rõ ràng không
quan trọng.
Ví dụ 32: Mơ phỏng trị chơi về bánh xe may mắn giữa 2 vị giáo sư tâm lý học nổi
tiếng Amos Tversky và Daniel Kahneman.
Một bánh xe với các con số từ 1 đến 100 được quay tròn.
Những người tham gia được hỏi về 2 vấn đề sau:
1. Tỷ lệ các quốc gia châu Phi nằm trong LHQ là cao hơn hay thấp hơn so với các con số
xuất hiện từ bánh xe?
2. Tỷ lệ các quốc gia châu Phi nằm trong LHQ là bao nhiêu?
Giá trị trung vị của câu trả lời là 25 đối với những người nhìn thấy con số 10 từ vịng
quay Giá trị trung vị của câu trả lời là 45 đối với những người nhìn thấy con số 65 từ
vịng quay Kết quả câu trả lời bị ảnh hưởng bởi vòng quay bánh xe Mốc neo có thể
xuất hiện với những con số hồn tồn vơ nghĩa.
Khi khơng chắc chắn con người thường neo vào những dữ liệu có sẵn và điều
chỉnh quan điểm của họ một cách chậm chạp.
Ví dụ 33: Khi được hỏi, “Khi nào người châu Âu thứ hai đặt chân lên Tây Ấn?”.
Hầu hết mọi người đều biết Columbus là người châu Âu đầu tiên đặt chân lên Tây Ấn
vào năm 1492. Từ đó họ lấy năm 1492 làm mốc neo, điều chỉnh tăng lên. Câu trả lời
đúng chắc chắn sẽ phải là sau năm 1492.
5.1 Điều gì giải thích cho việc neo quyết định ?
Có 2 quan điểm giải thích tại sao những điều chỉnh này thường không đầy đủ:
Các mốc neo liên quan: Con người không có sự chắc chắn về giá trị chính xác, nên
họ quyết định điều chỉnh câu trả lời lệch khỏi mốc neo cho đến khi có được một vùng giá
trị hợp lý. Họ càng không chắc chắn về giá trị đúng thì vùng giá trị hợp lý càng lớn và do
đó sự điều chỉnh trở nên thiếu chính xác hơn.
Các mốc neo khơng liên quan: Lý do là vì thiếu nỗ lực nhận thức hay sự lười
biếng nhận thức, từ đó dừng sự điều chỉnh quá sớm. Nó cũng cho thấy các mốc neo
khơng liên quan có thể gây ra bất kỳ tác động nào vì các mốc neo vốn có trong bối cảnh
của vấn đề đóng vai trị là một đề xuất mang tính ý thức hoặc tiềm thức làm thông tin
được lưu trữ phù hợp với mốc neo dễ hình thành. Bằng cách này, trí nhớ được “ gợi ý”
hoặc tìm kiếm bên ngồi bị lệch lạc.