ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
ĐỀ TÀI:
LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ LIÊN
HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN HONDA
LỚP: L14 - NHÓM: 14J - HK211
GVHD: THS. NGUYỄN TRUNG HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT
MSSV
HỌ
TÊN
%ĐIỂM ĐIỂM
1
2013556 NGUYỄN THỊ THÚY
KIỀU
BTL
100%
2
1910954 NGUYỄN MINH
DUY
100%
3
1912818 ĐINH VĂN
CƯỜNG
100%
4
1913028 LÊ CƠNG
100%
5
1912467 NGUYỄN THÙY
ĐẠT
VƯƠN
G
100%
BTL
GHI
CHÚ
Nhóm
trưởng
1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHĨM
STT
Mã số
SV
Nhiệm vụ
%
Họ và tên
được phân
Điểm
Nguyễn Thị
cơng
-Phần 1.1 và
BTL
100
Thúy Kiều
1.2
Nguyễn
-Phần 1.3 và
Minh Duy
1.2
1
2013556
2
1910954
3
1912818
4
1913028 Lê Công Đạt
Đinh Văn
Cường
-Phần 2.1
-Phần 2.2
Điểm
BTL
Ký tên
%
100
%
100
%
100
%
-Phần 2.3 và
5
1912467
Nguyễn Thùy phần còn lại
Vương
-Tổng hợp
100
%
file word
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................5
CHƯƠNG 1..........................................................................................................7
LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN........7
1.1 Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền................................7
1.2 Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa độc quyền.....................................8
1.3 Những biểu hiện mới của CNTB độc quyền trong giai đoạn hiện nay.....13
CHƯƠNG 2........................................................................................................19
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN HONDA...............................................19
2.1 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tập đồn HONDA............19
2.2 Thực trạng và nguyên nhân về sự phát triển của tập đồn HONDA:........24
Honda Việt Nam chủ động khắc phục khó khăn trong sản xuất kinh doanh,
.............................................................................................................................35
2.3 Những chủ trương và kiến nghị thúc đẩy sự phát triển của tập đoàn
HONDA...........................................................................................................35
KẾT LUẬN........................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................39
3
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ thay thế
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Theo như V.I.Lênin : "tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản
xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền". Xét về bản
chất, sau quá trình phát triển của giai đoạn cạnh tranh tự do, Chủ nghĩa tư bản đã bước
sang một nấc thang mới – Chủ nghĩa tư bản độc quyền. Thêm vào đó, Lênin đã trình
bày một cách có hệ thống sâu sắc lý luận về CNTB độc quyền bao gồm những đặc
điểm kinh tế, bản chất cũng như những biểu hiện mới của CNTB độc quyền hiện nay.
Qua hơn 72 năm hình thành và phát triển (kể từ ngày 24 tháng 9 năm 1948), đến
nay HONDA đã trở thành một tập đoàn hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 1 về sản xuất
xe môtô và đứng thứ 6 trên thế giới về sản xuất ôtô. Không chỉ trong lĩnh vực công
nghệ ôtô mà đặc biệt là lĩnh vực xe môtô, ngày nay không thể nào thiếu được các sản
phẩm của đất nước Mặt Trời mọc Nhật Bản mà thương hiệu số 1 của họ là HONDA.
Thông qua việc dùng Lý luận của Lênin làm tiền đề, ta mở rộng liên hệ đến sự phát
triển của tập đồn HONDA hiện nay, từ đó rút ra những nhận xét, kết luận chung về
CNTB độc quyền đối với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu trong thời đại hiện nay.
Vì thế Nhóm L14J chọn đề tài LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ LIÊN HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TẬP ĐỒN
HONDA đề nghiên cứu và tìm hiểu về sự phát triển và phân tích thực trạng cũng như
những kiến nghị, chủ trương cho sự phát triển của tập đoàn HONDA.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
-
Lý luận của V.I.Lênin về Chủ nghĩa tư bản độc quyền.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-
Sự phát triển của tập đoàn đa quốc gia Honda của Nhật Bản từ năm 2005 đến nay.
5
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
-
Thứ nhất, khái quát và nắm rõ những nội dung Lý luận của V.I.Lênin về CNTBĐQ.
-
Thứ hai, phân tích giai đoạn phát triển của tập đồn đa quốc gia HONDA trong 15
năm.
-
Thứ ba, phân tích thực trạng phát triển hiện tại của tập đoàn HONDA.
-
Thứ tư, những chủ trương và kiến nghị cho sự phát triển của tập đoàn HONDA.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên
cứu như trừu tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp, thống kê mơ tả, mơ hình hóa.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý luận của V.I.Lênin về Chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Chương 2: Sự phát triển của tập đoàn Honda
6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
1.1 Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền.
“Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi
phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.”
“Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi
phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”1
Q trình mang tính quy luật nói trên đã diễn ra do những nguyên nhân chủ yếu
sau đây:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới, ngay từ đầu đã là những
ngành có trình độ tích tụ cao, địi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới, đó là những
xí nghiệp lớn. Sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất
mạnh. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng sản xuất giá trị thặng dư
tương đối. Tỷ suất giá trị thặng dư trong công nghiệp chế biến ở Mỹ vào giữa thế kỷ
XIX là khoảng 100%, nhưng đến đầu thế kỷ XX là 155%, việc nâng cao tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy sự phát triển
sản xuất lớn tăng tích tụ tư bản và sản xuất.
Cạnh tranh tự do tác động mạnh đến tích tụ và tập trung tư bản. Một mặt, nó
buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mơ tích luỹ để thắng trong cạnh
tranh và giành lợi nhuận tối đa. Mặt khác, kết quả trực tiếp của cạnh tranh tự do khốc
liệt là nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc bị các đối thủ mạnh hơn
thơn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, chì cịn
một số ít những nhà tư bản lớn nắm địa vị thống trị trong một ngành hay trong một số
ngành cơng nghiệp.
1
V.I.Lênin: Tồn tập, Sđd, t. 27, tr.402
7
Khủng hoảng kinh tế dẫn đến nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản; những xí
nghiệp và cơng ty lớn phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy
q trình tập trung sản xuất.
Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập
trung sản xuất, nhất là hình thành các cơng ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của
các tổ chức độc quyền.
Những xí nghiệp và cơng ty lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh tranh
với nhau vô cùng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thoả hiệp, từ
đó hình thành các tổ chức độc quyền.
1.2 Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa độc quyền.
1.2.1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc
trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Tổ chức độc quyền là liên minh giữa
những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí tồn bộ) sản
phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến q
trình sản xuất và lưu thơng của ngành đó.
Khi bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền thì hình thức kinh tế thống
trị là cơng ty cổ phần . Với hình thức cơng ty cổ phần, sở hữu tư bản chủ nghĩa đã
mang hình thức sở hữu tập thể của tư bản. Những công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện
vào thế kỷ XV II, thời kỳ tích luỹ ban đầu tư bản như Công ty Đông Ấn của Anh
(1600) và Hà Lan (1602). Tuy nhiên, chỉ đến cuối thế kỷ thứ XIX, những cơng ty cổ
phần mói trở thành hiện tượng phổ biến, đặc biệt là ở các ngành sản xuất địi hỏi phải
có vốn đầu tư lớn nhưng tốc độ chu chuyển tư bản lại chậm (công nghiệp nặng, việc
xây dựng đường sắt...)
Những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự
liên kết những doanh nghiệp trong cùng ngành, dưới những hình thức cácten,
xanhđica, tịrớt.
Cácten là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí
nghiệp thành viên để thoả thuận với nhau vể giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu
8
thụ, kỳ hạn thanh tốn... cịn việc sản xuất và thương nghiệp vẫn do bản thân mỗi
thành viên thực hiện.
Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyển trong đó việc mua và bán do một ban
quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc ỉập của mỗi thành
viên.
Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ, vì một khi tương quan lực lượng thay đổi, mỗi
thành viên thường chạy theo lợi ích cục bộ dẫn đến vi phạm những cam kết. Bỏi vậy,
đã ra đời một hình thức tổ chức độc quyền cao hơn là tờrớt. Tòrớt thống nhất cả việc
sản xuất và thương nghiệp vào tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở
thành các cổ đơng.
Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết khơng chỉ những xí nghiệp
lớn mà cả những xanhđica, tờrớt... thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với
nhau về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các cơngxcxiom.
Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới - liên kết đa ngành - hình
thành những cơngglơmêrát (oonglomerat) hay consơn (concern) khổng lồ thâu tóm
nhiều cơng ty, xí nghiệp thuộc những ngành cơng nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao
gồm cả vận tải, thương nghiệp, ngân hàng và các dịch vụ khác, V .V .
Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức
độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những
hàng hoá mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá cả sản xuất đối với những
hàng hoá mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó họ thu được lợi nhuận độc
quyền
Giá cả độc quyền là giá cả hàng hoá vượt rất xa giá cả sản xuất. Giá cả độc quyền
bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền cao.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, các đồng minh độc quyền chiếm ưu thế trong
nền kinh tế, cho nên chúng có thể dùng các phương pháp khác nhau để giữ giá cao cho
hàng hoá, một trong những thủ đoạn chủ yếu bảo đảm lợi nhuận độc quyền cao. Thủ
đoạn quan trọng nhất để tính giá hàng hố cao là thi hành chính sách thuế quan cao để
bảo hộ các tổ chức độc quyền trong nước; sử dụng bộ máy nhà nước để bảo đảm giá cả
9
độc quyền cho những sản phẩm cung cấp theo đơn đặt hàng của nhà nước. Tuy nhiên,
giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị không thể làm thay
đổi tổng số giá trị và giá trị thặng dư trong các nước tư bản chủ nghĩa. Những gì mà
các tổ chức độc quyển kếch xù thu được cũng là những gì mà các tầng lớp tư sản vừa
và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa và nhân dân ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc mất đi.
Việc thực hiện chính sách giá cả độc quyền cũng gặp phải những giới hạn kinh tế,
trong đó có sự cạnh tranh. Sự xuất hiện các tổ chức độc quyền không thủ tiêu sự cạnh
tranh nói chung. Độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất vói nhau
một cách biện chứng. Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, tính chất cạnh tranh đã thay
đổi về căn bản. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa những tổ chức độc quyền lớn trong
nội bộ ngành, giữa các ngành trong một quốc gia tư bản chủ nghĩa, giữa các quốc gia
tư bản chủ nghĩa với nhau.
1.2.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.
Cùng với q trình tích tụ và tập trung sản xuất trong cơng nghiệp, cũng diễn ra
q trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyển trong ngân hàng. Ngân hàng có một vai trị mới: từ chỗ chỉ làm trung gian
trong việc thanh tốn và tín dụng nay do nắm được phần lốn tư bản tiền tệ trong xã
hội, ngân hàng đã trở thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh
tế - xã hội.
Quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản cơng nghiệp cũng có những biến đổi
khác trước. Thơng qua mạng lưới chi nhánh ở khắp nơi, các tổ chức độc quyền ngân
hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi những số tiền lớn của
các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn
xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào
nhau. Từ đó hình thành một loại hình tư bản mới gọi là tư bản tài chính. Tư bản tài
chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng
và tư bản độc quyền trong công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền
chi phối tồn bộ đời sống kinh tế và chính trị của tồn xã hội tư bản, bọn đầu sỏ tài
10
chính. Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự".
Thực chất của chế độ tham dự là nhà tư bản tài chính lớn hoặc một tập đồn tài chính,
nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc hay "công ty mẹ",
rồi "công ty mẹ" chi phối các công ty phụ thuộc hay các "công ty con", các công ty
này lại chi phối các "công ty cháu", V.V.. Bởi vậy, với một số tư bản nhất định, một
nhà tư bản tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất rất lớn.
Việc cho phép phát hành những cổ phiếu có mệnh giá nhỏ (ở Anh, luật pháp cho
phép phát hành nhũng cổ phiếu giá trị một bảng Anh) càng làm tăng uy lực của bọn
đầu sỏ tài chính. Bỏi vì, có nhiều người ít tiền vẫn mua được cổ phiếu, vì những cổ
đơng nhỏ, ở rải rác, thực tế khơng có khả năng tham dự các hội nghị cổ đơng, do đó số
lượng cổ phiếu khống chế giảm từ tỷ lệ trên 50% xuống 40%, 20% thậm chí cịn có thể
thấp hơn nữa
1.2.3. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản
đó. Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng "thừa tư bản". Tình
trạng thừa này khơng phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là khơng tìm
được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn
đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó, ở những
nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu và
nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật. Do tập trung trong tay một khối
lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài trở thành một nhu cầu
tất yếu của các tổ chức độc quyền. Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu
tư bản thành xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản
trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất
khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lợi tức. Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngồi, là cơng cụ chủ yếu để bành trướng sự
thống trị của tư bản tài chính ra tồn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về
11
khách quan có những tác động tích cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc
đẩy quá trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự
chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông - cơng nghiệp,
mặc dù cơ cấu này cịn q quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
1.2.4. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị trường
tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước ngoài trở nên
gay gắt. Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức
mạnh kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng, tất yếu dẫn
đến xu hướng thoả hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong
những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc
quyền quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia…
1.2.5. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản
độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu lợi nhuận
độc quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tại chính quốc khơng có được như
nguồn ngun liệu dồi rào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ mạt…Do đó ln
diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc các quốc gia khác
nhau. Điều này địi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp cho các tổ chức độc
quyền của nước mình giành giật thị trường và môi trường đầu tư nhằm thu được siêu
lợi nhuận độc quyền ở ngoại quốc. Sự can thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một
nước đế quốc chủ nghĩa. Như vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn
ra và thống trị ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà
nước. Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện
trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa
của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản
độc quyền. Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm
chiếm các nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ
12
dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và
thị trường tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, khơng phải chỉ những nguồn ngun liệu
đã được tìm ra mới có ý nghĩa, mà cả những nguồn ngun liệu có thể tìm được cũng
rất quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ kinh tế và
thậm chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nhu cầu nguyên
liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh để giành giật thuộc địa
giữa chúng càng quyết liệt. Bước vào thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về mặt lãnh
thổ giữa các đế quốc tư bản ra đời sớm đã hồn thành. Nhưng sau đó các đế quốc ra
đời muộn hơn đấu 96 tranh đòi chia lại thế giới. Đó là ngun nhân chính dẫn đến các
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 - 1918 và lần thứ hai 1939 - 1945, và
những xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới…
1.3 Những biểu hiện mới của CNTB độc quyền trong giai đoạn hiện nay
3.1. Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc
quyền
1.3.1.1 Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên quốc gia bên
cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
Cách mạng khoa học và công nghệ dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối
lập nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và xu hướng phi
tập trung hóa.
Những ngun nhân chính dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều những doanh
nghiệp vừa và nhỏ :
Đầu tiên, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được ứng
dụng vào sản xuất cho phép tiêu chuẩn hóa và chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu
rộng, từ đó hình thành hệ thống gia công, đặc biệt là trong các ngành sản xuất máy
bay, cơ khí, ơ tơ, dệt may,… Nhìn bề ngồi, dường như đó là hiện tượng "phi tập trung
hóa", nhưng thực chất đó chỉ là một biểu hiện mới của sự tập trung sản xuất, trong đó
các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi phối của các chủ hãng lớn về công nghệ.
Thứ hai, những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường.
13
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt
ứng phó với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc đầu tư vào những
ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những
ngành sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng đổi mới trang
bị kỹ thuật mà khơng cần nhiều chi phí bổ sung.
1.3.1.2 Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài
chính
Để phù hợp với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư
bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm
nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay, phạm vi liên
kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đồn tài chính thường tồn tại dưới
hình thức những tổ hợp đa dạng kiểu cơng - nơng - thương - tín - dịch vụ hay công
nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng. Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn,
tinh vi hơn, phức tạp hơn. Vai trò kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng
lớn, khơng chỉ trong khn khổ quốc gia mà cịn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước
khác trên thế giới. Trùm tài chính khơng chỉ tăng cường địa vị thống trị về kinh tế mà
còn tăng cường sự khống chế và lợi dụng chính quyền nhà nước. Trong chính phủ, họ
có nhiều người đại diện hơn, hơn nữa, việc tự mình đảm nhiệm các chức vụ quan trọng
trong chính phủ ngày càng phổ biến. Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với q
trình quốc tế hố đời sống kinh tế, các tập đồn tư bản tài chính đã thành lập các ngân
hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia
thâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF). Hoạt động của các tập đồn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra đời các
trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng hoà Liên bang Đức, Hồng
Kông, Singapo...
1.3.1.3 Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền nhưng quy mô, chiều
hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới
Có sự tăng trưởng rất nhanh của việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát
triển. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng lớn, một mặt, là do cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển của việc phân công
14
quốc tế, việc quốc tế hoá sản xuất và việc tăng nhanh tư bản "dư thừa" trong các nước;
mặt khác là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến tranh. Chiều hướng xuất
khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu
từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các nước kém phát triển (khoảng 70%).
Nhưng từ sau những năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các
nước phát triển, mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu. Từ những năm 70, của
thế kỷ XX đại bộ phận dòng tư bản lại chảy qua chảy lại giữa các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển với nhau. Nguyên nhân chủ yếu của sự chuyển hướng đầu tư nói trên
là: - Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình hình
chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu đội ngũ
chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật, cơng nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp và
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân ít, khơng đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư
nước ngồi. Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là những ngành
có hàm lượng khoa học cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu khoa học
- kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc quyền
xuyên quốc gia. Các công ty này cắm chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn chi
nhánh của chúng đặt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để vượt qua những hàng
rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối liên kết
như EU, NAFTA... các cơng ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó để
phát triển sản xuất. Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã
vượt qua cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn
họ đầu tư thăm dị và khai thác dầu khí ở Việt Nam - đó là bằng chứng rõ rệt chứng
minh cho xu hướng trên. Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại
quý hiếm vẫn đang là "gót chân Asin" của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển, trong khi đó các nước đang phát triển giàu tài nguyên lại thiếu vốn và kỹ thuật để
khai thác, và nguồn lợi cao từ lĩnh vực này đối với cả hai phía.
15
1.3.1.4 Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu hướng quốc
tế hố, tồn cầu hoá ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa nền kinh
tế
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên quốc gia
tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự phân chia phạm vi
ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước quốc tế. Cùng với xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hố đời sống
kinh tế lại diễn ra hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh
tế khu vực như: Liên hợp châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN),
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC)... Ngày càng có nhiều
nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh Thuế
quan (CU). FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xố bỏ hàng rào thuế
quan đối với hàng hóa của nhau. CU là liên minh trong đó các nước thành viên có mức
thuế chung đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối. Các liên minh kinh tế
khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do
hố thương mại toàn cầu.
1.3.1.5 Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức
cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã
suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn
tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "Chiến lược biên giới mềm",
ra sức bành trướng "biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối
các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính
trị vào các cường quốc. Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy
lùi, nhưng lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương
mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc
đụng độ đó là các cường quốc đế quốc. Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh
vào ápganixtan, Irắc... chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc vẫn là một đặc điểm trong giai đoạn
phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản. Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền. Những biểu
16
hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc
quyền mà thôi.
1.3.2 Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có những biểu
hiện mới sau đây: - Các hình thức của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế quốc
dân ngày càng trở nên đa dạng, nó vừa bao gồm các xí nghiệp thuộc nhà nước trong
các ngành sản xuất vật chất, vừa bao gồm các tổ chức tài chính thuộc ngân hàng,
ngành kinh tế thứ ba (dịch vụ), cùng những cơng trình cơ sở hạ tầng xã hội mới xây
dựng do nhà nước tư bản chủ nghĩa đầu tư.
Ngày nay, những thập niên đầu của thế kỉ XXI, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn
là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Vai trò của nhà nước và của thị trường trong
các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đương đại có những sự khác biệt tương đối ( chủ
nghĩa tư bản tự do ở Mỹ và Anh; kinh tế thị trường xã hội ở lục địa châu Âu…) là một
thực tế hiển nhiên. Tuy nhiên, dù có sự khác nhau nhiều hơn cũng như đã, đang và sẽ
cịn có nhiều những biểu hiện mới hơn nữa, nhưng xét cho cùng đó cũng chỉ là những
thay đổi về "lượng" chưa đủ để đạt đến sự thay đổi về "chất" của chủ nghĩa tư bản
1.3.2.1 Những biểu hiện mới về kinh tế nhà nước
Chi tiêu ngân sách nhà nước là công việc thuộc thuộc quyền của giới lập pháp.
Giới hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị quản lý chặt chẽ bằng Luật Ngân sách nhà
nước. Có nghĩa là khác xa với thời mà J.M.Keynes quan niệm: "Chính phủ có thể chơn
cái két bạc của mình xuống rồi lại thuê một kẻ khác đào lên". Chống lạm phát và
chống thất nghiệp được ưu tiên ngang nhau, dự trữ quốc gia trở thành nguồn vốn chỉ
có thể được sử dụng trong những tình huống đặc biệt. Vai trò của đầu tư nhà nước để
khắc phục những chi phí tốn kém trong nghiên cứu khoa học cơ bản và xây dựng kết
cấu hạ tầng cũng như giải quyết các nhu cầu mang tính xã hội ngày càng tăng lên ở các
nước tư bản phát triển. Trong những điều kiện nhất định như khủng hoảng kinh tế,
ngân sách nhà nước cịn dùng để cứu những tập đồn lớn khỏi nguy cơ phá sản. Ví dụ
chính phủ Anh tung ra một gói giải cứu ngân hàng trị giá 145 tỉ USD. Ngân sách nhà
17
nước cịn được dùng để viện trợ nước ngồi để tạo điều kiện, mở ra các cơ hội cho các
tập đồn độc quyền tới đó kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.
1.3.2.2 Về bảo hộ thị trường trong nước và mở cửa thị trường nước ngồi
Xu thế tự do hóa thương mại được các nước tư bản sử dụng ở những mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào lợi ích của các tổ chức độc quyền lớn có khả năng chi phối. Sự
phổ biến cơ chế nhà nước trực tiếp tham gia vào các cuộc đàm phán song phương và
đa phương trên trường quốc tế nhằm giải quyết các xung đột lợi ích giữa các nước
cũng làm giảm đi nguy cơ tranh chấp giữa các tập đoàn độc quyền ở các nước khác
nhau
Tồn cầu hóa thị trường chứng khốn được đẩy nhanh hơn hết so với các thị trường
khác. Điều đó cũng buộc chính phủ các nước phải phải hợp tác với nhau để kiểm soát
và điều tiết loại thị trường này. Sự biến động của thị trường chứng khoán ở một nước
hồn tồn có thể gây hậu quả khó lường tới các nước khác
Sự mở rộng phạm vi kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia cũng là một biểu
hiện mới liên quan tới chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Trước khi các công ty
xuyên quốc gia tới một quốc gia đầu tư thì chính phủ nước đó và nước sở tại cần phải
có những thỏa thuận ở tầm vóc nhà nước. Trên thị trường xuất khẩu tư bản trong thế
giới đương đại, xuất khẩu tư bản của các nhà nước cũng ngày càng có xu hướng tăng.
18
CHƯƠNG 2
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN HONDA
2.1 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tập đồn HONDA
2.1.1. Soichiro Honda – Người mở đầu tập đoàn Honda
Honda Sōichirō Fujisawa Takeo sinh ngày 17/11/ 1906 tại Yamahigashi, làng
Komyo (nay là Tenryu), hạt Iwata thuộc Shizuoka Prefecture ( Nhật Bản), cách thủ đô
Tokyo 270 Km. Cha của Honda, ông Ghihei là một thợ rèn.
Khi cịn nhỏ, Shoichiro khơng được học hành nhiều ,ông luôn quanh quẩn bên bố,
xem ông làm việc và qua đó ơng đã học được cách tự làm đồ chơi cho mình. Lịng u
thích nghề cơ khí là tài sản mà Soichiro được thừa kế từ cha minh.
Năm 1922, Honda lúc này 15 tuổi , ông lên thủ đơ để tìm việc làm, ơng được nhận
vào một cửa hàng sửa chữa ơ tơ có tên là Art Shokai. Lý do lớn nhất để cậu bé
Soichiro 15 tuổi muốn làm việc ở đây chính là có cơ hội được tiếp xúc gần gũi với
những chiếc ô tô, nhưng người ta lại giao cho ông công việc của người giữ trẻ. Cậu bé
khơng hài lịng với cơng việc của mình và thậm chí cịn nghĩ sẽ từ bỏ để trở về nhà.
Năm 22 tuổi sau khi chưng minh được tài năng của minh với ông chủ, Honda đã trở
về lại Komyo tự mở chi nhánh Art Shokai ở làng của mình tại Hamamatsu.
Năm 1937, Shoichiro bắt đầu kinh doanh sản xuất bạc pít-tơng và lập hãng cơng
nghiệp nặng Tokai Seiki (TSHI). Năm 30 tuổi, dù đã là Chủ tịch công ty do ông tự
thành lập nhưng Honda vẫn quyết định phải trở lại trường học tại trường Kỹ thuật
Hama Matsu. Tuy nhiên ông chỉ quan tâm một vấn đề là chiếc séc măng và những môn
liên quan đến đến bạc pít- tơng.
Sau 3 năm thử nghiệm và thất bại, khi sự kiên nhẫn của ông đã đến giới hạn, thì
Soichiro đã có thể làm được những chiếc séc măng tuyệt vời. Những ngày tháng đó là
những ngày khó khăn nhất trong cuộc đời của Soichiro. Tuy nhiên, chính từ những
kinh nghiệm này, công ty Honda ngày nay đã ra đời.
19
2.1.2. Sự thành lập của tập đoàn Honda
Tập đoàn Honda ( tên thành lập đầy đủ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nghiên cứu
Kỹ thuật Công nghiệp Honda , trên thế giới gọi là Honda Motor Co., Ltd )
-
Được thành lập ngày 24 tháng 9 năm 1948
-
Người sáng lập là Honda Sōichirō Fujisawa Takeo.
-
Trụ sở chính đặt ở Minato, Tokyo
Hình 2.1.1: Hình ảnh Trụ sở Honda ở Minato
Nguồn: Wikipedia
20
Hình 2.1.2: Logo Honda cho xe máy
Hình 2.1.3: Logo Honda cho xe ô tô
Nguồn: Wikipedia
Sản phẩm : Xe máy, ô tô dân dụng (thương hiệu Honda và Acura), động cơ đốt
trong, động cơ điện, robot dân dụng và công nghiệp, máy bay phản lực, động cơ máy
thủy, máy phát điện, máy cắt cỏ,..v.v..
21
Website : www.honda.co.jp (NhậtBản)
www.honda.com (toàn thế giới)
Bối cảnh thành lập : Nền kinh tế Nhật vốn bị hủy hoại nặng nề sau Chiến tranh thế
giới thứ hai. Ông Soichiro Honda đã nhân cơ hội nước Nhật có nhu cầu đi lại nhiều,
nhưng lúc ấy rất thiếu thốn nhiên liệu và tiền bạc, để thành lập công ty. Công ty đã gắn
động cơ vào xe đạp tạo ra một phương tiện đi lại hiệu quả và rẻ tiền. Nhưng sau đó
Honda đã đổi hướng kinh doanh và thành lập lên Công ty Nghiên cứu kỹ thuật công
nghiệp Honda.
-
Tổ chức của tập đoàn Honda:
+ Nhân viên chủ chốt Mikoshiba Toshiaki (Chủ tịch), Hachigo Takahiro (CEO)
+ Ban giam đốc (20 người ) (bao gồm 2 giám đốc ngoại biên )
+ Hội đồng điều hành (9 người ) ( Chủ tịch hội đồng và các CEO)
+ Bộ phận điều hành kinh doanh các khu vực ( Nhật, Bắc Mỹ, Mỹ Latin, Châu Âu,
Trung Đông, Châu phi, Châu Á- Thái Bình Dương, Trung Quốc )
+
Hội đồng điều hành khu vực ( Nhật, Bắc Mỹ, Mỹ Latin, Châu Âu, Trung Đơng,
Châu phi, Châu Á- Thái Bình Dương, Trung Quốc )
+ Số lượng nhân viên 215,638 (2018)
Với khẩu hiệu "The Power of Dreams" (Sức mạnh của những giấc mơ). Triết lý
kinh doanh của tập đoàn Honda thể hiện qua: Niềm tin cơ bản, Tôn chỉ Công ty và
Chính sách quản lý. Nguyên tắc cơ bản là quan tâm từng cá nhân thể hiện qua “Tôn
trọng con người” ,tôn trọng những khác biệt cá nhân và tin tưởng lẫn nhau như những
người cộng sự bình đẳng.
Mối quan hệ giữa các thành viên Honda dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ
những người gặp khó khăn, nhận sự giúp đỡ lúc khó khăn, chia sẻ kiến thức, đóng góp
chân thành để hồn thành trách nhiệm.
Cùng với đó Honda đặt 3 niềm vui lên hàng đầu: Mua, bán, sáng tạo. Dựa trên
những ngun tắc đó khi tấn cơng ra các thị trường nước ngoai ( đặc biệt là thị trường
Mỹ), Honda cho thấy một doanh nghiệp Châu Á khác biệt và thân thiện với các thị
22
trường lớn Phương Tây thể hiện qua việc Honda đã xâm nhập vào thị trường Mỹ thành
công và tiêu thụ số lượng xe lớn đem lại doanh thu đáng kinh ngạc tại thị trường này.
-
Tôn chỉ - Sứ mệnh của Honda:
+ Duy trì tầm nhìn ra thị trường thế giới, Honda nỗ lực hết mình cung cấp các sản
phẩm có chất lượng tốt nhất, với giá cả hợp lý nhằm thỏa mãn khách hàng trên tồn
thế giới.
-
Triết lí quản lý:
+ Luôn vươn tới bằng tham vọng và sự tươi trẻ, luôn bổ sung hệ thống các nhà quản
lý trẻ trung cầu tiến.
+ Tôn trọng lý thuyết vững chắc, phát triển những ý tưởng mới lạ, và sử dụng thời
gian hiệu quả nhất.
+ Hứng thú trong cơng việc và khuyến khích giao tiếp cởi mở.
+ Luôn quan tâm đến giá trị của nghiên cứu và nỗ lực.
2.1.3. Phát triển của tập đoàn trong nước và trên thế giới
-
Thị trường trong nước
Honda là người rất giâu óc sáng tạo. Trong khi các doanh nghiệp đang bắt trước
sản xuất các loại xe đạp gắn động cơ thì Honda đã chuyển hướng kinh doanh, bán
TSHI và thanh lập lên tập đồn Honda.
Ban đầu cơng ti được thành lập trong hồn cảnh khó khăn với một xưởng nhỏ sản
xuất động cơ đốt trong, sủa chữa xe và một số ít tiền vốn. Nhưng một năm sau,
Soichiro đã cải tạo động cơ A50cc và sau nâng thành D98cc . Từ đó mẫu xe Dream
tiên tiến xuất hiện, mở đầu cho sự phát triển tốc độ cao và vươn ra ngoai thế giới như
ngày nay.
Tuy nhiên, để bổ sung cho điểm kém marketing, Soichiro Honda đã hợp tác với
Takeo Fujisawa và kí hợp đồng bán tồn bộ sản lượng động cơ cho công ty Kitagawa
nhưng gây tắc nghẽn sản xuất và ứ đọng tiền vốn. Honada đã dừng lại và thay các hợp
đồng thành hợp đồng cung cấp các thanh phẩm cho các đại lý phân phối.
23
Trong những năm tiếp theo Honda thành công chiếm 70% thị phần xe máy nhật
thông qua loại xe Cub với số lượng bán 6500 chiếc mỗi tháng. Không dừng ở đó,
Honda đã tìm tịi và phát triển các mẫu mã mới điển hình là xe đua năm 1954 giúp mở
rộng danh tiếng và tăng giá trị thương hiệu.
- Thị trường thế giới
Sau những thành công trong nước với doanh số bán hàng lớn, năm 1959 Honda bắt
đầu chiến lược vươn ra thị trường thế giới.
Ở thị trường Mỹ, với chiến lược kinh doanh lạ thường : “ông bán ở bất kì đâu ơng
cảm thấy bán được hàng “, đã giúp xe máy Honda trong hai năm trở thành xe máy bán
chạy nhất ở Mỹ. Thành công này nhờ chất lượn sản phẩm và chiến lược tuyệt vời.
Sau khi chiếm lĩnh phần lớn thị trường xe máy, ông mở rộng thanh nghiên cứu và
sản xuất ơ tơ. Bất chấp khó khăn ô tô Honda vẫn phát triển ,giành giải thưởng trong
trong cuộc đua ở Mexico và bắt đầu chinh phục thị trường trong nước và thế giới ở
thập niên 1960.
Honda đã trở thành lá cờ đầu của những xí nghiệp mới được xây dựng . Cuối thế kỉ
20, Honda là nhà sản xuất ô tô số một thế giới .
2.2 Thực trạng và nguyên nhân về sự phát triển của tập đoàn HONDA:
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân về sự phát triển của tập đoàn HONDA:
2.2.1.1 Những thành tựu của tập đồn HONDA:
Qua hơn 72 năm hình thành và phát triển (kể từ ngày 24 tháng 9 năm 1948), đến
nay HONDA đã trở thành một tập đoàn hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 1 về sản xuất
xe môtô và đứng thứ 6 trên thế giới về sản xuất ôtô. Không chỉ trong lĩnh vực công
nghệ ôtô mà đặc biệt là lĩnh vực xe môtô, ngày nay không thể nào thiếu được các sản
phẩm của đất nước Mặt Trời mọc Nhật Bản mà thương hiệu số 1 của họ là HONDA.
HONDA được biết đến là tập đồn có nhiều nhà máy với dây chuyền chế tạo ôtô
nhanh nhất thế giới, tiết kiệm công nhân nhất (chỉ khoảng 2,05 người sản xuất 1 ơtơ).
Hiện nay, tập đồn HONDA có 65 nhà máy sản xuất đặt tại 34 nước trên thế giới với
gần 200.000 công nhân. Sản phẩm đa dạng của HONDA khơng chỉ mang lại cho tập
đồn nguồn doanh thu khổng lồ, mức lợi nhuận cao mà cịn góp phần gây dụng niềm
24
tin về sản phẩm mang thương hiệu HONDA trong lòng của người tiêu dùng khắp nơi
trên thế giới. Kể từ năm 2002 đến nay HONDA liên tục có mặt trên bảng xếp hạng các
tập đoàn xuyên Quốc Gia (TNCS) hàng đầu trên thế giới “(Global 500; Most Admired
Companies).”2
2.2.1.1.1. Thị trường trong nước:
Nhắc đến HONDA thì chắc hẳn người dân Việt Nam chúng ta đã quá quen thuộc
với dòng xe Super Cup của HONDA. Từ những năm 1959, dòng xe Super Cup đã
được sản xuất đại trà tại Nhật Bản và đội xe HONDA giành được giải nhất trong cuộc
đua Isle of Man (tại Anh) ngay ở lần đầu tiên tham dự đã đưa HONDA vươn lên dẫn
đầu tại thị trường Nhật Bản với hơn 285.000 chiếc được sản xuất và sau đó 2 năm
HONDA bán được khoảng 100.000 chiếc mỗi năm. Thành cơng đầu tiên với dịng xe
Super Cup đã góp phần tạo tiền đề để HONDA có được thành công như ngày hôm nay.
Ở Nhật, xe hơi của HONDA ngày càng được người tiêu dùng yêu thích hơn so
với đối thủ cạnh tranh trực tiếp của họ TOYOTA (đang dẫn đầu tại Nhật Bản). “Cùng
với đó nắm bắt được tình hình ơ nhiễm mơi trường trên thế giới, giá xăng dầu vơ cùng
biến động và tình hình kinh tế thế giới, hãng xe HONDA Motor đã bắt đầu sản xuất 1
loại xe chạy bằng pin nhiên liệu thế hệ tiệp theo với hy vọng mở ra một trào lưu các
loại xe máy chạy bằng Hidro khơng phát ra khí thải. Các hãng chế tạo xe hơi Nhật Bản
hiện đang tham gia vào một cuộc chạy đua để sản xuất các loại xe ơtơ có hiệu suất
nhiên liệu cao và thân thiện với môi trường đúng vào lúc giá cả tăng vọt, càng làm
tăng sự chú trọng của họ vào một thế hệ công nghệ mới, bao gồm các loại xe lai, chạy
điện và pin nhiên liệu. HONDA cho biết, họ sẽ thành lập mạng lưới bán hàng đầu tiên
tại Mỹ đối với loại xe pin nhiên liệu này.
HONDA đã lên kế hoạch cung cấp khoảng 200 chiếc xe chạy bằng pin nhiên liệu
mang ký hiệu FCX để thực hiện hợp đồng cho thuê ở Mỹ và Nhật Bản trong 3 năm sản
xuất đầu tiên. Hãng chế tạo xe hơi của Nhật Bản này đã nhận được đơn đặt hàng 35
chiếc xe pin nhiên liệu theo các hợp đồng cho thuê, chủ yếu là với các tổ chức công
cộng ở Mỹ và Nhật Bản. Họ hy vọng là đời xe mới này sẽ gây sự hấp dẫn rộng rãi
hơn.”3
2
3
Tạp chí Global500
Tổng quát về tập đoàn đa Quốc Gia HONDA
25