Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

TC VanNghe BINH DUONG _T8-2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.64 MB, 32 trang )

Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chịu trách nhiệm xuất bản:
VÕ ĐÔNG ĐIỀN
VÕ ĐÔNG ĐIỀN
Thư ký toà soạn:
Thư ký toà soạn:
DUY THANH
KỲ NAM

Số 8

Tháng 8/2016

Trình bày:
Trình bày:
PHẠM ĐÌNH THANH
NGUYỄN CÔNG DINH
Minh họa:
Minh họa:
TRƯƠNG BỬU SINH
TRƯƠNG BỬU SINH
Ban biên tập
Ban biên tập
NGUYỄN HIẾU HỌC
NGUYỄ
N CÔN
G DINH
LÊ MINH

NGUYỄ
HIẾ


PHANNHỮ
UU
LÝHỌC
LÊ MINH

PHAN
ĐỨC NAM
PHAN HỮU LÝ
PHAN ĐỨC NAM

Bìa: Sắc thu Dầu Tiếng
Tác giả : Trần Công

CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
- Tiếp bước con đường Cách mạng Tháng 8

(04)

VĂN
- Dấu ấn về vùng đất Thủ Dầu Một hơn 100 năm trước
(06)
Biên khảo: Nguyễn Hiếu Học
- Ma chữ
(10)

Truyện ngắn: Phan Đức Nam
- Chuyện của An
(16)

Đoản văn: Đỗ Mỹ Loan

- Những mầm xanh
(20)
Bút ký: Lệ Hồng
- Huyền thoại về cõi Thiên thai
(21)

Nghiên cứu văn học: Võ Huyền Trân
- Lời mẹ dạy
(26)

Hồi ký: Lê Đức Hân
- Bến cuối
(30)

- Ai điên

- Tiếng mưa rừng


Truyện ngắn: Di Li
(31)
Tùy bút: Vân Đồn
(32)
Truyện ngắn: Đào Văn Đạt
NHẠC

Tòa soạn: 52 Bạch Đằng - Tp.Thủ Dầu Một
tỉnh Bình Dương
Tòa soạn: 52 Bạch Đằng - Tp.Thủ Dầu Một
Điện thoại: 0650.3822663 - 0168 7929274

tỉnh Bình Dương
Website: www.vannghebinhduong.org.vn
Điện thoại: 0650.3822663 - 0983 880 944
Website: www.vannghebinhduong.org.vn
Fax: 0650.3859519
Email:
Fax: 0650.3859519
Email:
GP HĐBC số: 655/GP.BVHTT cấp ngày 14-12-2001

In tại Công ty TNHH Tân Vónh Lợi

° GPXB số: 655/GP.BVHTT cấp ngày 14-12-2001
° In tại: Công ty TNHH In & Giấy Nhật Tâm.

- Nhớ mùa trái chín q em
(34)

Nhạc: Trần Hữu Du - thơ: Kim Ngoan
THƠ
Các tác giả: LƯƠNG TRUNG NGHĨA (09) - TRẦN THỊ THÙY
LINH (13) - MAI THU HOÀNG (13) - KIM NGOAN (15) - TRỊNH
ANH TUẤN (15) - VĂN TRẠCH (17) - LÊ MINH VŨ (18) - NGỌC
HÙNG (18) - TRĂNG KHUYẾT (19) - PHAN THÀNH MINH (19)
QUANG THÁM (19) - LÊ THỊ BẠCH HUỆ (22) - PHÙNG HIẾU
(27) - NGUYỄN MINH DŨNG (30) - LÊ HÀO (30).


Kỷ niệm 71 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2016)
và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2016)


TIẾP BƯỚC CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

C

ách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành
người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh
của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do
và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một
Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc
và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải
đương đầu với mn vàn khó khăn. Trước tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã phát huy cao độ sự sáng tạo, khéo
léo, lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai với
phương châm vừa kiến quốc vừa kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi và việc ký
4 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG


kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải
phóng hồn toàn miền Bắc, nhưng đế quốc Mỹ
thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, biến
nước ta thành thuộc địa kiểu mới. Toàn thể nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây
dựng miền Bắc thành căn cứ địa của cách mạng cả
nước; cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam,
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Cuộc kháng chiến chông Mỹ, cứu nước đã trải
qua nhiều giai đoạn, nhân dân ta phải lần lượt đối
phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, xảo
quyệt của kẻ thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu
anh dũng (1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi
vẻ vang.
Đối với cách mạng ở miền Bắc, Đảng ta lãnh
đạo nhân dân tiến hành công cuộc khôi phục kinh


tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960); đẩy
mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961-1965);
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất,
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ
hậu phương (1965-1968); khôi phục và phát triển

kinh tế, không ngừng chi viện cho chiến trường
miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
lần thứ hai (1969-1973); khắc phục hậu quả chiến
tranh, phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền
Nam (1973-1975).
Đối với cách mạng ở miền Nam, Đảng ta lãnh
đạo đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ, nhất là “Chiến tranh đặc biệt” (19611965), “Chiến tranh cục bộ” (1965 1968), “Việt
Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) và “đánh cho
ngụy nhào” (1973-1975).
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là
chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước; đưa dân tộc ta bước
vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu
nước là một trong những trang chói lọi nhất của
lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế,
có tính thời đại sâu sắc.
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng,
toàn dân, tồn qn ta tập trung trí lực, ra sức hàn
gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống
mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
40 sau năm ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn. Đặc biệt, những thành tựu có được
sau gần 30 năm đổi mới đã làm thay đổi đời sống
mọi mặt của người dân và hình ảnh đất nước Việt

Nam. Từ một nước nghèo, kém phát triển, bị tàn
phá nặng nề bởi chiến tranh, Việt Nam đã nỗ lực
vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển.
Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, cơng nghiệp
và dịch vụ đã chiếm 83% trong tổng GDP. Quy
mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng
lên; GDP tăng gấp gần 7 lần và kim ngạch xuất
khẩu tăng gấp hơn 200 lần. GDP bình quân đầu
người năm 2015 đạt khoảng 2.200 USD, năm
2016 thu nhập bình quân đầu người gần 50 triệu
đồng. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển khá
nhanh với nhiều cơng trình hiện đại, tạo diện mạo
mới cho đất nước.
Tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa

và cơng cuộc xây dựng nơng thơn mới đạt được
nhiều kết quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được
bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, cịn
dưới 6%. Đã có hơn 98% số hộ gia đình được sử
dụng điện lưới quốc gia. Tuổi thọ trung bình tăng từ
64,8 tuổi năm 1986 lên khoảng 73,5 tuổi năm 2015.
Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, chủ
quyền quốc gia được giữ vững. Công tác đối ngoại
và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt
nhiều kết quả tích cực. Đến nay nước ta đã có quan
hệ ngoại giao, thương mại và đầu tư với hầu hết

các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hiện có
hơn 18.200 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với
tổng số vốn đăng ký 256 tỷ USD. Vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được
nâng cao.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước
pháp quyền, xây dựng hệ thơng chính trị được đẩy
mạnh và dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được
phát huy. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường.
Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong 70
năm qua đã tạo cơ sở và tiền đề quan trọng, quý báu
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ,
toàn diện hơn nữa trong giai đoạn mới.
(Nguồn: Thơng tấn xã Việt Nam)

VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 5


DẤU ẤN VỀ VÙNG ĐẤT
THỦ DẦU MỘT HƠN 100 NĂM TRƯỚC
(Qua hồi ký, du ký của một số nhân vật trong và ngồi nước)

NGUYỄN HIẾU HỌC

Đình Bà Lụa xưa

* Cuốn hồi ký của L.c De Grammont (1865)
Có lẽ ấn tượng trước tiên đối với một người ngoại
quốc như L.C De Grammont, viên sĩ quan Pháp khi

đánh chiếm và cai quản vùng đất huyện Bình An
(thuộc tỉnh Biên Hịa về sau là địa bàn tỉnh Thủ Dầu
Một (TDM) vào năm 1861) là ngơi đình có kiến trúc
gỗ nổi tiếng ở ven huyện lỵ này. Đó là ngơi đình làng
Bà Lụa đã được Grammont nhắc đến trong hồi ký
“Onze mois sous-préfecture en Basse Cochinchine”
xuất bản ở Paris cách nay hơn 150 năm như sau: “…
Sau khi băng qua chợ (chợ Thủ Dầu Một-NHH) bạn
ra khỏi làng về phía Nam, rồi đi dọc theo con đường
nhỏ sẽ gặp một con rạch (rạch Bà Lụa – NHH) cách
5 km tại đây người ta thấy ngơi đình Bà Lụa nổi
tiếng được xây cất dưới vịm ba cây đại thụ mà tôi
chưa từng thấy…” (sách đã dẫn trang 141, bản dịch
của nhóm thực hiện “Địa phương chí Bình Dương”
tóm lược 1974 - trang 16). Chính ngơi đình nổi tiếng
trên sau đó đã được ơng Goergette Naudin, chuyên
viên nghiên cứu của Bảo tàng Nam kỳ (Musé de la
Cochinchine) đánh giá là: “ngơi đình có kiến trúc
6 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

đẹp nhất nhì Nam kỳ, với những cột gỗ đẹp và quí,
những mảnh hoa văn ghép bằng sơn mài màu hồng,
những binh khí cổ đẹp và hiếm… hấp dẫn đơng đảo
du khách đến thăm” (1)
Đây cịn là ngơi đình gỗ theo kiến trúc truyền
thống Việt Nam, được xây dựng bởi những người
thợ giỏi và bằng các loại gỗ q tại địa phương TDM.
Cũng chính vì những đặc điểm này mà nhà cầm
quyền Pháp đã yêu cầu địa phương TDM xây dựng
một phiên bản theo mơ hình đình Bà Lụa nói trên,

rồi tháo rời mang qua Pháp để tham dự cuộc đấu xảo
các xứ thuộc địa Pháp tại Marseille vào 1906. Sau thế
chiến thứ I (1914-1918), Tổ chức “Hội tưởng niệm
Đơng Dương” (Le Souvenir Indocchinois) xin chính
phủ Pháp sử dụng ngơi đình này làm đền thờ để tưởng
niệm những người lính Việt Nam phải hy sinh trong
đại chiến I vì nước Pháp. Lễ khánh thành đền thờ vào
ngày 9/6/1920 tại Paris và sự việc ngơi đình được đưa
đi dự đấu xảo rồi trở thành ngôi đền tưởng niệm nói
trên đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đi qua
tận Paris nước Pháp để tìm hiểu và ghi lại với đầy đủ


chứng cớ, sử liệu (2)
Được biết ngơi đình Bà Lụa xưa với kiến trúc gỗ
nổi tiếng của đất TDM kể trên, rất tiếc đã bị hủy hoại
trong chiến tranh và ngơi đình hiện nay chỉ mới được
nhân dân làng Phú Cường xây dựng lại vào cuối năm
1956 (khánh thành ngày 15/1/1957, Đinh Dậu). Hình
chụp ngun mẫu ngơi đình Bà Lụa trước đây, đã
được sưu tầm (thơng qua tạp chí sử học Xưa và Nay)
và sử dụng làm ảnh hình bìa cuốn sách “Những ngơi
đình tiêu biểu ở Bình Dương” của tác giả Nguyễn
Hiếu Học, do Hội VHNT Bình Dương ấn hành 2012.
* Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” của Paul
Doumer 1897
Gần đây và khoảng tháng 3/2016 bạn đọc Việt
Nam có thêm bản dịch tiếng Việt một cuốn hồi ký với
nhiều tư liệu lịch sử giá trị của một nhân vật nổi tiếng
người Pháp. Đó là tác phẩm “xứ Đơng Dương” (L’

Indo-chine fran caise) của tồn quyền Đơng Dương
(1897-1902) và cũng là cựu Tổng thống Pháp (19311932) Paul Doumer. Trong hồi ký này, tác giả ghi
chép khá đầy đủ về xứ Nam kỳ lục tỉnh, đặc biệt có
nhắc đến vùng đất Biên Hòa – Thủ Dầu Một. Đây là
cuốn hồi ký viết cách đây gần 120 năm (1897-2016)
của nhân vật nổi tiếng người nước ngồi được đánh
giá là “có nội dung phong phú sinh động về đất nước
con người, văn hóa phong tục tập quán của ba nước
Đông Dương” (dịch giả Nguyễn Xuân Khánh, sđd
trang 23). Ngoài ra “hồi ký xứ Đông Dương”, cuốn
sách tái hiện một giai đoạn lịch sử Việt Nam dưới góc
nhìn mới mẻ” (PGS. TS Dương Văn Quảng, Nguyên
Giám đốc Học viện ngoại giao nước CHXHCN Việt
Nam, Sđd trang 19) (3) Được biết Paul Doumer cũng
là người đã cho xây dựng các cây cầu nổi tiếng như:
Long Biên, Tràng Tiền, Bình Lợi… ở Việt Nam.
Riêng đối với địa phương Bình Dương (BD) hiện
nay, qua hồi ký này, chúng ta có thể được nhìn lại cảnh
quan cũng như những thổ sản của vùng đất TDM-BD
của hơn 150 năm trước. Hãy nghe ơng Paul Doumer
nói về hành trình và cảm nhận của mình khi đến với
TDM: “Tơi đi Biên Hòa theo đường qua Thủ Dầu
Một, một thị trấn nhỏ nằm dun dáng bên sơng Sài
Gịn, đi sà lúp đến đó rất dễ dàng. Nhưng cũng có một
con đường bộ. Nó đi qua vùng trồng trái cây ăn quả
cung cấp cho Sài Gịn và chợ Lớn. Dứa, xồi, măng
cụt… được sản xuất mỗi năm với số lượng rất lớn. Tới
mùa thu hoạch có nhiều thuyền chở trái cây theo dịng
sơng vào ban đêm hay sáng sớm để cung cấp cho các
chợ Sài Gòn và Chợ Lớn (…). Tại Nam kỳ, chỉ có trái

cây mới đi xa như vậy, cịn rau được trồng ở những
vùng lân cận thành phố…

Các loại trái cây nhiệt đới không giống như trái
cây ở Âu Châu về hình dáng cũng như hương vị (…)
Thiên nhiên rất kỳ diệu khi chỉ cho những vùng nóng
như thiêu đốt những trái cây ngọt ngào. Paul Doumer
dường như rất chú ý và đặc biệt ưa thích đặc sản trái
măng cụt ở vùng đất TDM. Khi đưa ra nhận xét khá tỉ
mỉ: “Một trong những loại trái cây đáng được nói kỹ
vì nó khơng chỉ khơng làm bụng dạ cồn cào mà cịn
rất ngoan, đặc biệt là rất đẹp: đó là quả măng cụt.
Nhìn bên ngồi, kích thước và hình dáng của nó hơi
giống táo Re-net màu nâu nhạt (xuất xứ từ nước Anh).
Tuy vậy màu nó sẩm hơn. Đó là màu nâu vỏ xám của
quả măng cụt, lớp vỏ dày gần một xăng-ti-mét, muốn
bóc ra phải dùng dao rạch một vòng chia quả măng
cụt thành hai nửa. Tách vỏ hai bán cầu đó ra, ra có
được ruột quả; ruột đó có nhiều múi như múi cam;
múi măng cụt màu trắng như sữa, trong khi mặt trong
lớp vỏ có màu hồng nhạt… Thật là một bữa tiệc cho
đôi mắt” (Sđd trang 140-141)
Tác giả khơng qn miêu tả vị trí, thế đất, loại đất
và cấu tạo nền đất, kể cả một loại đá đặc biệt có màu
nâu đỏ được gọi là đá ong của vùng TDM:
“TDM là một vùng đất vắt ngang qua sơng Sài
Gịn. Con đường dẫn đến vùng đó chính là đường đi
Biên Hòa cho du khách thấy một cảnh quan hoàn toàn
khác với những cánh đồng ngút mắt ở miền Tây. Đây
khơng cịn là vùng đồng bằng nữa, dù chưa phải là

vùng núi. Địa hình gồ ghề với những ngọn đồi nhấp
nhơ. Đất có kiến tạo cổ với lớp dày và rắn chắc. Đất
đỏ bị nền rất cứng gọi là đá Biên Hòa (tức là loại
đá ong vẫn thường thấy nhiều ở vùng đất TDM-Biên
Hòa) (Sđd trang 141). Đặc biệt ở trang hồi ký tiếp
theo (trang 142) tác giả cho vẽ một hình minh họa khá
rõ và đẹp, được ghi chú bên dưới là cảnh “Đóng trâu
vào xe ở Thủ Dầu Một” (ảnh được chụp lại trong bài
viết bên cạnh…). Điều đó cho thấy phương tiện vận
chuyển hàng hóa nhất là nông, lâm sản, phổ biến nhất
là bằng xe trâu. Hình ảnh minh họa này khiến chúng
tơi liên tưởng đến lời lý giải của nhà văn hóa Sơn
Nam về quá trình hình thành chợ Thủ Dầu Một xưa
với vị trí bến xe trâu bên rạch Phú Cường trước đây.
Theo như lời trao đổi với Ban soạn thảo Địa phương
chí Bình Dương thuộc Sở Học Chánh BD vào năm
1974 và sau này được đăng lại trong Địa chí Sơng Bé
(1991), nhà văn Sơn Nam đã viết: “Các vị bô lão kể
lại rằng địa điểm Chợ Thủ Dầu Một là bến xe trâu,
thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Gần bến là quán trà
Huế, quán cơm, lần hồi thành chợ” (Thủ Dầu Một
hay chợ Phú Cường-NHH). Cũng nên biết thêm một ít
tư liệu về sự phát triển của chợ TDM. “Mức sung túc
của chợ Thủ Dầu Một đáng chú ý từ thời Tự Đức…”
(Sơn Nam Sđd). Đặc biệt là quan cảnh chợ Thủ vào
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 7


những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XIX, dưới mắt một người
Pháp: “Ở phía Nam là thị trấn lớn Phú Cường với các mái nhà

đỏ au ẩn nấp dưới những lượn sóng rừng xanh biếc. Trên dịng
kinh nhỏ chạy vào thị trấn có những thuyền buồm xơn xao qua
lại, buồm lá buông xẻ dọc xẻ ngang. Chợ nằm ngay ở giữa khúc
quanh của dịng sơng, chiếm hết hậu trường của khung cảnh. Bên
trái và bên phải là những bụi luôn um tùm và các cội cao tơ như
nép sát và bờ sơng bên con đường mịn màu đất đỏ quạch, đã vẽ
thành những đường rực lửa cắt ngang nền xanh của vùng đất trù
phú hoang vu này” (De Grammont, Sđd Hòai Anh dịch dưới tiêu
đề “Thủ Dầu Một dưới mắt một người Pháp”, đăng trên tạp chí
Xưa và Nay, số 45b, trang 15)
Sau khi người Pháp chiếm TDM và bắt đầu công việc khai thác
tài nguyên, đặc biệt là cây cao su tại đây, TDM có nhiều thay đổi,
nhất là quan cảnh chợ TDM (Phú Cường) “…Phục hồi và biến
đổi hồn tồn chợ Phú Cường với cơng việc lát đá và đắp đường
cao bên trong. Hiện nay (1861-1862) chợ Thủ Dầu Một là chợ
lớn nhất, sạch sẽ nhất và nhiều hàng hóa nhất của tỉnh…” (De
Grammont, Sđd). Theo niên giám Đông Dương năm 1912, chợ
Thủ Dầu Một, cùng với chợ Lái Thiêu được xếp vào hạng thị tứ
quan trọng bậc hai ngang hàng với các chợ tỉnh lỵ lớn như Biên
Hịa, Bình Thủy (Cần Thơ), Long Xun, Trà Vinh… và sung túc
hơn các chợ hạng ba như Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Hà Tiên…
* “Thủ Dầu Một du ký” của nhà văn Biến Ngũ Nhy (1921)
Dưới đây xin dẫn thêm bài du ký của một nhà báo, nhà văn
Việt Nam viết về TDM, cách đây gần 100 năm. Đó là tác phẩm
đăng báo “Thủ Dầu Một du ký” (trên tờ Cơng Luận báo tại Sài
Gịn, số 378, phát hành ngày 28/1/1921) của tác giả có bút hiệu
là Biến Ngũ Nhy. Ơng tên thật là Nguyễn Bính sinh 15/8/1886 và
mất 22/7/1973 tại Sài Gịn. Ơng tốt nghiệp bác sĩ y khoa trường
Đại học Y Hà Nội 1910, tuy giữ nhiều chức vụ quan trọng trong
ngành y tế, nhưng ông còn là nhà văn, nhà báo, từng cộng tác với

các báo Nông cổ miến đàm, Công luận báo, Nữ giới chung…
Bài viết “Thủ Dầu Một du ký” của ông chủ yếu viết về chuyến
8 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

đi đến vùng đất Thủ Dầu Một vào 1921.
Ngoài giá trị về văn chương, bài du ký
cịn ghi lại những hình ảnh, tư liệu cảnh
quan có nhiều giá trị về lịch sử văn hóa
của vùng đất này ở đầu thế kỷ XX. Dưới
đây là mấy nét chính được ghi chép trong
bài du ký nói trên của ơng (5)
* Đường đến Thủ Dầu Một: “xe hơi
từ Chợ Mới chạy vô Gia Định, qua cầu
Bình Lợi, đoạn tẻ qua chợ Bình Phước,
chợ Lái Thiêu, chợ Búng rồi lên Thủ Dầu
Một (…). Ra khỏi Gia Định rồi thì nhà
cửa thưa thớt dần, chỗ thì vườn tược sum
s, chỗ thì đồng khơng mơng quạnh.
Khỏi cầu Bình Lợi quẹo qua đường Thủ
Dầu Một (…) hai bên đường cây cối mọc
sởn sơ, dường như hạp thủy thổ nên sức
sung, lực mạnh. Xa xa có một vài cái nhà
ngói cất theo lối nhà vườn. Cịn nhà lá thì
bộn bàng, lớp lợp lá dừa, lớp lợp tranh,
cất trong đám cau, vườn dừa trông rất yên
tĩnh. Nhiều chỗ trồng rất nhiều mía, cây
mía nhỏ mà lắm nước, để làm đường tán.
Cây măng cụt nhiều nhứt, hai bên đường
đâu đâu cũng trồng măng; mỗi năm,
nhằm mùa măng cụt, ghe thương hồ lên

mua, chở đi lục tỉnh hằng ha sa số. Măng
miền này rất ngon, nên tiếng măng đất
Thủ xưa nay dành bậc nhứt
Từ Bình Phước lên tới Thủ thì đất cao
dần, có chỗ thành gị, có nơi lại trũng (…)
Dịm xung quanh thấy chỗ gị cao… thì
trí tưởng là mình như lên cảnh non cao
rừng rậm. Song ngó xuống trũng kia thấp
chưa đầy mười thước thì mới hay mình
cịn ở đồng bằng!”
* Chợ Lái Thiêu: “Tuy chợ nhỏ mà
cảnh cũng đẹp. Tại đó dân có chuyên
nghề đóng bàn ghế theo kiểu Lang-sa. Có
hai trại mộc nổi danh, ni thợ thầy đơng
đảo, đóng nhiều kiểu đồ gỗ xinh đẹp. Từ
Lái Thiêu lên chợ Búng, thì ruộng nương
ít (…) Vườn tược hoặc trồng cau, dừa,
măng cụt,…Hai bên đường nhà cửa cũng
rải rác, ít nhiều. Gần tới chợ Búng, xe
chạy gần một con rạch nhỏ, tên là sông
Búng.
* Chợ Thủ Dầu Một: “cũng như chợ
các tỉnh thành nhỏ, trong thì một cái nhà
dài, ngồi bờ sơng thì một cái chợ cá, hai
bên chợ là hai dãy phố trệt, buôn bán đồ
vặt. Trên đầu chợ có một cái trường Bá


nghệ, dạy học trò An Nam nghề đúc, nghề chạm…
Chợ chỉ có một khoảnh ấy, cịn xung quanh là phố

xá đều là nhà trệt, ít có nhà lầu. Chợ ở dưới đất
bằng, cịn các dinh, cùng cơng sở thì ở trên gị (…)
hai bên có trồng cay sao mát mẻ”.
* Tỉnh thành Thủ Dầu Một: “Mặt tiền châu
thành trở ra ngồi sơng, có cẩn bực thạch dài gần
một ngàn thước, sơng ấy là sơng Sài Gịn, song từ
Sài Gịn lên đây đã hơn ba mươi mấy ngàn thước
nên quan cảnh đã đổi. Xem ra thì cái cảnh trên
nguồn, hai bên bờ sông cây mọc giăng giăng chỗ
cao chỗ thấp, nhánh lá de tận xuống nước, xa xa có
một vài khoảng trống, có nhà, có vườn, trồng cau,
trồng chuối, dựa bờ sơng có một vài chiếc ghe đậu
im lìm. Ngay chợ, có một vài trại cưa, có bến đị để
chở bộ hành và xe cộ qua lại…”
Trên đây là những ấn tưởng đáng nhớ hơn cả
trong các hồi ký của mấy nhân vật nổi tiếng người
nước ngoài cũng như qua thiên du ký chân chất
của một nhà văn Việt Nam. Họ đã ghi nhận, miêu
tả một cách trung thực, sinh động những nết đặc
thù về cảnh quan, kiến trúc, phương tiện giao thông
vận chuyển; cũng như những đặc sản (tiêu biểu là
trái măng cụt) của vùng đất Thủ Dầu Một hơn 100
năm về trước. Họ cũng rất chú ý đến quá trình hình
thành, thay đổi, phát triển mấy ngơi chợ chính của
TDM và cả vùng đất này
Cảm nhận chung của các tác giả nói trên: tuy
TDM chỉ là một tỉnh nhỏ ở vùng bán sơn địa, có thể
có những tiềm năng phong phú, có một cảnh quan
sinh động, phong cảnh hữu tình nhưng lúc bây giờ
vẫn cịn là vùng đất khá hoang vu. Đất nước con

người ở địa phương TDM đã để lại trong lịng du
khách những ấn tượng an bình, thanh thản với nhiều
mỹ cảm về vùng đất mà mấy ai có thể tiên đốn
được rằng đến nay đang rộng mở một tương lai đầy
hứa hẹn trong sự phát triển và phồn vinh.
N.H.H

Lương Trung Nghóa

Người xưa
Người xưa giờ ở nơi nào
Đường xưa vắng bóng, bạc đầu nhớ thương
Bến phà năm cũ tơ vương
Mái chèo khua nước đò ngang ai chờ?
Lục bình tản mạn câu thơ
Cầu vồng ai trải tóc mơ bên chiều?
Tình yêu lạc lối mỹ miều
Lung linh dạ thảo gió liu riu buồn
Người xưa mờ mịt tha hương
Nhịp buồn thổ mộ dặm đường hư vô
“Ai về chợ Thủ...” câu hò
Đi qua bến cũ gọi đò sang sông
Lao xao con nước lớn ròng
Nhớ người xưa nhớ mênh mông nhớ người...
L.T.N

Tài liệu, sách kham khảo:
- Dẫn lại Huỳnh Ngọc Đáng “Phú Cường lịch sử văn hóa và
truyền thống”, 1990 trang 233.
- Nguyễn Đình Đầu - Đặc san Tuổi Trẻ - Tết con mèo 1999

trang 12 + 13.
- Paul Doumer, xứ Đông Dương (hồi ký) Nhóm dịch giả Nhà
xuất bản Thế giới 3/2016.
- Nhiều tác giả, Địa chí Sơng Bé NXB THSB 1991.
- Dẫn lại phần “Thủ Dầu Một du ký” của Biến Ngũ Nhy, từ bài
viết của tác giả Phan Mạnh Hùng đăng trên TC Kiến thức
ngày nay số 855 trang 8+9.
- Nguyễn Hiếu Học, Dấu xưa đất Thủ XB 2009 và nhiều tư
liệu kham thảo khác có liên quan đến nội dung bài viết trên.

VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 9


MA CHỮ

Động lòng anh muốn cầm tay
Em bảo chưa được! Sau này sẽ hay...

Nguyễn Tiến Đường

Truyện ngắn: PHAN ĐỨC NAM

Đ

ã hơn 11 giờ khuya, khu nhà trọ Chánh Nghĩa
dìu dịu ánh đèn, nhiều người đã thiếp ngủ. Phan
nằm dài trên ghế dựa xem tivi, thấy mí mắt mình nằng
nặng, chẳng biết có xem hết trận bóng đá này khơng?
Chợt tiếng chó sủa ăng ẳng, rồi tiếng xe máy dừng
trước cửa phòng trọ. Một giọng quen thuộc vọng vào:

“Đức đây anh Phan ơi…”
Phan nhổm dậy, thoáng ngạc nhiên rồi mỉm cười.
Đêm buồn có bạn đến tâm sự cũng vui.
Trong khi Đức dắt xe vào phịng, Phan với tay lấy
phích nước châm trà, chậm rãi hỏi: “Đêm hôm… lang
thang à?” Đức mỉm cười gật đầu. Phan thấy nụ cười
sao tê tái?
Đức lặng lẽ chốt cửa rồi ngồi xuống ghế nhựa nhỏ.
Phan lại hỏi: “Hay cậu đi đâu tạt qua đây?”
Đức móc chai rượu ngoại nhỏ dèn dẹt bằng bàn
tay trong túi áo khốc ra: “Buồn, nằm mãi khơng ngủ
được, viết cũng khơng được!… Sang anh uống rượu
chơi… May anh có nhà.”
Phan gật đầu cười: “Tơi mới đi Bình Long về chiều
nay. Tìm thằng bạn mà không gặp.” - “Sao anh không
điện trước?” - “Alô mấy lần rồi… - Phan lắc đầu - Giờ nó
lên giám đốc cũng khó gặp…” Đức mỉm cười. Nụ cười
lại tê tái. Phan nói tiếp: “May gặp ơng bạn khác mời
rượu, cịn dúi cho cái phong bì. Tơi cảm kích q tặng
ơng bạn tập thơ. Tính khơng bằng trời tính. Đời trớ trêu
mà cũng vui.”
Đức nghe rồi nhăn mặt, anh khui rượu, dùng nắp
làm ly rồi rót rượu đưa Phan: “Anh dùng trước.”
Phan ực luôn, khà một tiếng khen “ngon”, bảo:
“Cậu còn dư tập truyện nào mơi mới… Hay sách của
bạn bè cũng được, thì để dành cho tôi. Tôi đọc xong
tặng lại mấy ông bạn yêu văn chương.” - “Thôi anh
ơi! Anh tặng chẳng lẽ họ không nhận? Chắc gì họ đã
đọc?” - “Sao lại khơng? Cậu bi quan bỏ xừ!” Đức im
lặng. Phan nói tiếp: “Dẫu họ không đọc cũng chẳng

sao cơ mà. Cứ phải tung ra, phải phát hành. Biết đâu
vợ con hay anh em bè bạn họ thấy, tò mò mở ra đọc.
Còn hơn xếp xó nhà.” - “Em thấy…. kiểu phát hành ấy
kỳ kỳ, như ép người ta…” - “Tôi hiểu - Phan thở dài Tự ái cũng phải, nhưng hồn cảnh tơi phải vậy. Nghĩ
cho cùng tâm huyết cả đấy. Theo tôi còn hay hơn khối
sách hot thổi phồng trên mạng - Tôi đọc thử vài trang
văn học thị trường ấy rồi, chán phèo! Nhất là kiểu viết
pha tạp nhiều ngôn ngữ với tiếng lóng hiện đại của các

10 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

cơ cậu chín mười X. Đọc khơng hiểu nổi? Qi đản!
Tởm!” Phan nói vẻ phấn khích, rồi quay vào góc khạc
nhổ, chiêu một ngụm trà, súc miệng, rồi lại khạc nhổ
như để sạch miệng. Xong mới rít điếu thuốc lào rõ dài,
ngửa mặt phà khói lên trần cho thanh thản.
Đức mỉm cười nhìn nhà thơ, khí phách đấy! Anh
kháy nhẹ: “Mình lạc hậu… Già rồi anh ơi!” Phan quay
lại: “Cậu mà cũng nói thế à? Văn chương khơng có già
trẻ mới cũ nhé? Chỉ có hay hoặc khơng hay thôi. Văn
chương phải sạch sẽ chứ không được thô tục. Nếu
khơng là tinh hoa thì ít ra cũng có chất văn chương.”
- “Ơi dào! Văn nghệ mn màu mn vẻ. Những gì
dở, dổm, trước sau cũng bị đào thải. Anh cứ n chí.”
- “Biết vậy, nhưng bực q! Khơng có người nói ra
chúng cứ tưởng mình hay lắm.” - “Thì cũng là văn mình
vợ người. Những người cầm bút ít nhiều cũng nhiễm
bệnh ấy, thêm bệnh háo danh và điếc không sợ súng.
Đúng không ông anh?. Phan cau mặt, gật gù: “Cũng
đúng một phần…” Rồi cười hà hà: “Không điếc thì làm

sao dám viết? Phải viết mới có tác phẩm mới chứ.
Hay dở cịn tùy… Với tơi thì trước mắt phải viết để kiếm
sống cái đã.”
Phan nói đến đây rồi đọc thơ: “Nỗi đời cơ cực đang
giơ vuốt. Cơm áo khơng đùa với khách thơ. Thấm thía
thật! Ơng Xn Diệu không cơ cực đâu, phong lưu là
khác, nhưng cảm thông chia sẻ được nỗi khổ của đồng
nghiệp.” Đức nhấp rượu lắng nghe, cao hứng bình
tiếp: “Chữ khách giỏi cực! Thi sĩ chuyên nghiệp lắm
khi còn lận đận huống chi là khách vãng lai ghé qua
vườn thơ. Ông Xuân Diệu vừa cảm thông vừa cảnh
báo thật sâu sắc.”
Phan vỗ đùi đánh đét: “Hay! Cậu phát hiện chính
xác! Anh em mình mới chỉ là khách thơi, chỉ là người
làm thơ, cịn lâu mới được là thi sĩ.” Phan nói xong tự
rót rượu uống liền hai nắp: “Cứ phải sống chết với nó.”
Đức tủm tỉm cười: “Mà lạ? Có những khách thơ ghé
qua, xuất hiện đôi lần, làm vài bài thơ, hay chỉ cần
vài câu thơ, đã trở thành thi sĩ, những câu thơ làm ta
phục và nhớ mãi. Em cứ suy nghĩ về những hiện tượng
này. Thi sĩ là trời cho, là thiên tài, hoặc phải trăn trở,
chiêm nghiệm lâu lắm mới bật ra những câu thơ hay
đến như thế.”
Phan gật gù trầm tư: “Vậy càng phải sống chết với
thơ, may ra…”
Phan dốc chai rượu rót đầy nắp cuối, nhấp một
nửa rồi chuyền cho Đức: “Cậu viết văn tỉnh táo hơn tôi.


Hơm nay tự dưng mình bàn chuyện thơ nghe lại hay.

Thế nào? Đêm nay ngủ lại đây phải không?”
Phan hỏi vậy thôi chứ biết Đức sẽ ở lại khi dắt
xe vào phịng. Cậu này đơi khi có những ý thích bất
thường, vừa nghiêm túc kiểu nhà giáo vừa văn nghệ
sĩ lơng bơng. Có lần cậu ta nói em thích ngao du, ngủ
phịng trọ chật hẹp nóng nực, uống rượu sng với
anh, em thấy lạ và có cảm giác hơn… Trong khi mình
lại mong muốn có nơi rộng rãi n ấm. Đêm nay bất
chợt cậu ta đến, nói buồn. Buồn gì khơng nói mà tồn
nói chuyện văn thơ, ừ cũng tại mình khơi mào… Cậu
ta khơng thổ lộ thì mình tế nhị khơng hỏi. Khuya rồi,
nhường cậu ta ngủ giường, mình ngủ ghế này quen
rồi, đốt thêm cuộn nhang muỗi là ổn.
Khi đèn và tivi tắt, hai người chìm trong bóng tối thì
Đức chợt nói: “Em đến chào anh. Mai em về Sài Gịn.
Chắc lâu anh em mình mới gặp lại.”
Phan bật dậy: “Sao?...” - “Em trả lại nhà cho ơng
Hịa nửa tháng nay rồi. Ông ấy đã cho người thuê, nói
từ từ sẽ trả lại tiền cho em.” - “Thấy cậu nâng cấp sửa
sang đàng hoàng, chở cả đồ đạc trên Sài Gịn xuống.
Tơi tưởng gia đình cậu về định cư ở đây chứ.” - “Thì vợ
chồng em cũng tính rồi. Em làm ở Nhà máy Rượu, vợ
em làm ở cơng ty gần đó. Từ Khu cơng nghiệp Sóng
Thần về Sài Gòn 20km, cũng bằng về Thủ Dầu Một.
Vợ chồng muốn tạo cơ ngơi riêng thì về đây thuận lợi
và có điều kiện hơn. Nhà đất ở Sài Gịn đắt lắm. Bình
Dương đang phát triển. Ơng bạn giám đốc của em
nhiệt tình ủng hộ, giúp mở đại lý rượu. Thế là em mạnh
dạn xúc tiến. Các chú em hay tin gửi cho ba ngàn đơ.
Em mừng lắm. Nói thật với anh lúc em chuẩn bị lấy vợ,


hơn phu em nói lương biên tập của anh chẳng thấm
gì, thức khuya dậy sớm viết cực khổ q! Ơng bạn
em cũng nói vậy. Ơng ấy mở cơng ty, rủ: “Anh có vốn
sinh ngữ về làm với tôi, tôi trả gấp đôi lương biên tập.”
Em nghe vợ ngưng viết mấy năm, kinh tế kha khá rồi,
nhưng em vẫn thấy như thiếu thiếu cái gì? Những con
chữ cứ lẩn quẩn trong đầu, rồi đùng đùng viết ln cái
truyện về nhà máy rượu mình đang làm, không ngờ
lọt vào topten báo Văn nghệ, thế là hứng khởi, lại say
mê… Em đi lại giao lưu làm ăn trên đất Bình Dương,
sau đó viết thêm được vài truyện hay hay. Em nghĩ
mình có dun với Bình Dương, về đây vừa làm kinh
tế vừa văn nghệ thì vui biết mấy. Ai ngờ…”
Phan quơ tay tìm ống thuốc lào: “Cậu kể tiếp đi?
Thuận lợi thế sao lại bỏ ngang?” - “Nghĩ lại cũng số
cả. Vợ chồng, nhà đất cũng có duyên số. Tất cả sắp
xong, nhà cửa gian hàng bảng hiệu sáng choang. Vợ
em làm phó giám đốc kiêm kế tốn trưởng một cơng
ty, xập xệ cơ ta khơng chịu đâu. Không ngờ khi em đưa
vợ xuống xem cơ ngơi thì chạm ngay hai người hàng
xóm. Ma cũ ăn hiếp ma mới. Một bà bắt vợ chồng em
xây thêm bức tường mới dài 15m, lý do để sau này
có lên lầu thì tránh chạm phải mép tơn nhà bà ta thị
sang cả gang tay. Một ơng giăng kẽm gai trồng rau lấn
phần sau đuôi nhà, kể oang oang với vợ em là đất nhà
có mả, có ma… Thật ra cái mả Tàu đá ong sạt lở nằm
giữa ranh giới hai nhà đó có tự đời nào. Khi sửa nhà
em bàn với ông ta đăng bố cáo xin phép bốc đi, mỗi
nhà sẽ dài thêm vài mét. Trong khi chờ đợi em cho

thợ xây hẳn bức tường ngăn phía sau, để vợ em khơng
thấy. Chuyện này em khơng nói với vợ vì biết cơ ta sợ.
Em nghĩ có kiêng
có lành thì sống
ở đâu cũng được.
Em từng ăn ngủ
ở đó một mình có
thấy gì đâu? Nghĩ
lại những người
hàng xóm đó sao
mà thâm tham và
ác thật! Thà họ nói
ngay từ đầu để cịn
giải quyết, đây họ
chờ vợ em xuống
rồi mới ra đòn, làm
em khơng đỡ kịp.
Vợ em khiếp q,
giận em vơ cùng.
Nói tơi khơng thể
ở với ma, khơng
thể ở cạnh những
người hàng xóm
ấy được. Tiền bạc
vợ em nắm, cô ấy
không bỏ ra mua
nhà thì em đành
chịu. Mà mua làm

VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 11



gì khi vợ con khơng về ở?”
Phan thẩn thờ: “Thế… Cậu nhất định về Sài Gòn
thật à?...” - “Chứ biết sao bây giờ? Buồn lắm anh ạ.
Mai em về ký đơn ly dị.” - “Lại đến thế cơ à?” - “Thật
ra âm ỉ lâu rồi. Thoạt đầu em không để ý, sau lại nghĩ
khi có nhà riêng thì gia đình sẽ êm ấm. Nhưng liên
tiếp những chuyện xảy ra, mâu thuẫn tích tụ, đến khi
chuyện lớn bùng nổ là tan nát.” - “Không thể cứu vãn
được nữa sao?”. Đức im lặng. Phan thở dài, hỏi tiếp:
“Cịn cơng việc ở nhà máy rượu? Cậu làm ở đó thỉnh
thoảng lên đây chơi với anh em nhé?” - “Em xin nghỉ
rồi anh ạ. Họa vơ đơn chí. Em bị tai nạn xe st chết.
Ông giám đốc bạn em vừa bị đột quỵ mất. Làm như có
nhiều chuyện đưa đẩy? Em muốn làm ở đó nữa cũng
được, nhưng buồn q! Hạnh phúc gia đình quan
trọng nhất bị đổ vỡ thì em cịn thiết gì nữa?”
Phan biết Đức đã quyết. Người ngoài cuộc như
anh chẳng biết khuyên can an ủi cách nào?
Phan hút liên tiếp xong hai điếu thuốc lào thì nghe
Đức nói: “Giờ em cũng như anh thôi, phải làm lại từ
đầu.” - “Cậu cịn mẹ và các em ở Sài Gịn, khơng phải
th phịng trọ như tơi, nói chung là có chỗ dựa. Cịn
q tơi xa q! Mãi Hà Tây.” - “Xa thì xa. Sao anh
không về?” - “Bố mẹ mất cả rồi. Anh chị em mỗi người
mỗi phận. Nhớ quê hương, nhớ người thân kẻ thuộc
lắm nhưng chưa có điều kiện về thăm. Tiền tàu xe có
ít đâu! Chẳng lẽ bao năm ra đi lúc về lại tay không?
Người thân ở quê cứ nghĩ tôi mải mê làm ăn, khá giả

thành đạt. Tôi là thằng cao ngạo đầy sĩ diện. Kẻ ly
hương thất bại chui lủi xứ người lắm lúc hổ thẹn ôm
mặt khóc thầm.”
Đến lượt Đức thở dài. Hai người nằm im nghe tiếng
đồng hồ gõ tích tắc, tiếng thạch sùng tắc lưỡi than
thân trách phận…
Mãi sau Đức mới hỏi nhỏ: “Anh ngủ chưa?” Phan
cựa mình thay câu trả lời. Đức hỏi tiếp: “Làm thơ, viết
báo kiếm sống… khổ lắm phải khơng anh?”. Phan khẽ
xoay người: “Thơi mà! Ngủ đi.”
Phan nói “ngủ đi” nhưng sau đó lại hỏi: “Cậu về
Sài Gịn định làm gì? Biên tập báo nữa à?” - “Em nghỉ
đã lâu, cơ quan cũ bố trí người khác rồi. Cứ về rồi hãy
tính. Sài Gịn là đất báo chí, chịu khó viết chắc sẽ
sống được. Nhưng anh ơi, ngày xưa em biên tập ở báo
Giáo dục và Thời đại, Tạp chí Tài Hoa Trẻ, Kiến Thức
Ngày Nay… quen biết nhiều bạn làm ở các báo. Lúc
đó em viết bài giao lưu gửi đến, họ nể nang dễ đăng.
Em đã thử rồi, cũng bài đó mà đề tên tác giả khác họ
thường bỏ qua, thật đó anh ạ. Đó là ngày xưa, còn
bây giờ em chỉ là cộng tác viên, đâu phải viết lúc nào
cũng hay, dẫu ưu ái lâu lâu họ mới in cho một bài, vì
đăng liên tiếp một tác giả cũng kỳ. Thế thì làm sao đủ
sống? Làm sao có tiền trợ cấp cho con? Lúc nãy em
hỏi anh vậy thôi, chứ em biết sống bằng nghề viết mà
khơng làm ở tịa soạn báo chí nào thì gian nan vất vả
lắm! May có ơng nhà văn thương tình hứa chia sách

12 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG


cho em biên tập ở Nhà xuất bản, mỗi trang 3 ngàn,
đó mới chỉ là hứa. Trước mắt em phải xin đi dạy ở một
vài Trung tâm lớp tối, theo bạn dạy kèm tư gia, để có
khoản thu nhập căn bản đã, chuyện viết lách tính sau.
Thú thật với anh, chữ nghĩa như ma ám, em vừa yêu
vừa sợ, mà những gì dính líu đến Ma thường hấp dẫn,
mê hoặc, dễ nghiện, khó dứt được, như ma túy, ma bài
bạc, ma men, kể cả ma nữ…” Phan bật cười, Đức còn
muốn tếu táo thêm chút nữa để qn buồn thì Phan
nói: “Thơi ngủ, khuya rồi.”

Đức giật mình thức dậy, đã hơn 8 giờ. Nắng sớm
xuyên qua song cửa soi cho anh thấy Phan đang ngồi
cịng lưng, cặm cụi lúi húi viết gì đó vào một cuốn sổ
kê trên đầu gối. Đức mỉm cười, nhà thơ đang say.
Mỗi người một kiểu viết, Đức thấy Phan hay dùng
đầu gối mình làm bàn và viết bất kỳ lúc nào. Đang đi
với bạn, rơm rả nói chuyện, có lúc Phan bất chợt dừng
lại, quay tìm chỗ ngồi tạm, cục đá cũng được, khơng
thì ngồi bó gối tại chỗ, hí hốy ghi nhanh vào cuốn sổ
nhỏ bìa cứng lúc nào cũng mang theo, làm như lúc đó
khơng viết thì ý tứ bay mất. Bạn bè biết tính Phan chỉ
mỉm cười, vừa đi vừa đợi. Có lần Phan say lâu quá,
Đức sốt ruột quay lại thì thấy anh vẫn ngồi đó, ngây
ngây như mất hồn. Đức gọi thì Phan vẫy tay, ý bảo các
cậu cứ đi. Sau đó gặp lại thế nào Phan cũng đọc thơ.
Đức là một trong số ít người được Phan cho xem sổ
ghi chép đó. Nét chữ to nguệch ngoạc, lắm chữ khơng
đọc được. Riêng những câu thơ hay, những bài thơ
của các tác giả mà Phan u thích thì được chép cẩn

thận. Ngay trang đầu cuốn sổ Phan đã nắn nót ghi 4
câu thơ của Nguyễn Bính như tâm sự đời mình:
Ai bảo mắc duyên vào bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ hồi chuyện viễn vông.
Sáng nay thấy ông anh lại đang say thơ, Đức mỉm
cười lặng lẽ cuốn mùng. Nhưng Phan nghe động liền
buông bút, quay lại hỏi: “Ngủ ngon không?” Đức chưa
kịp trả lời thì Phan nói tiếp: “Vệ sinh đi rồi ra uống trà.
Khơng có cà-phê cho cậu đâu. Làm gói mì nhé?” Đức
cười gật đầu. Phan nói nhỏ: “Chả còn quả trứng nào.”
Đức bước xuống giường: “Hay anh em mình đi ăn phở,
rồi em về.” Phan lắc đầu: “Cà-phê pha rồi. Món mì
nhanh thơi. Ra đường cà kê lắm. Tôi cần chỉnh lại bài
thơ…”
Hai người nhâm nhi trà đặc. Phan nói: “Đêm qua
nghe cậu kể chuyện… Tơi nghĩ đến chuyện mình.
Chuyện tơi cũng buồn, buồn lắm! Tơi chẳng muốn
kể với ai, muốn chơn chặt, giấu kín, nhưng rồi có lúc
lại muốn viết chuyện đời mình, viết để đó, viết cho
riêng mình thơi. Rồi lại nghĩ: Viết cho riêng mình, về
những gì mình đã biết thì viết làm gì? Nhất là chuyện
buồn?…”. Đức trầm tư: “Cũng là cách giải tỏa tâm sự.
Anh viết đi. Chuyện anh chắc hay.” Phan lắc đầu


gượng cười.
Đức ngước lên, chỉ vào bức ảnh đơi tình nhân
in màu lộng kính to bằng nửa mặt bàn treo trên

vách, thăm dị: “Anh và chị ấy đẹp đơi q! Cứ
như tài tử xi-nê. Vợ anh đấy phải không?” Phan
gật, nhưng sau đó lắc đầu, mái tóc dài lốm đốm
bạc bồng bềnh, anh ứa nước mắt thở dài thườn
thượt. Đức biết đã động đến phần sâu thẳm
của một tâm hồn, anh khơng dám hỏi thêm, cúi
xuống lặng lẽ rót trà.
Bỗng Phan ơm mặt khóc nức, khóc hu hu,
ngon lành như một đứa trẻ, khiến Đức ngạc
nhiên hốt hoảng: “Xin lỗi anh…”
Phan nắm chặt hai bàn tay, từ từ bình tĩnh lại,
chơm chớp đơi mắt đỏ nhìn Đức: “Khơng khơng…
Cậu khơng có lỗi... Tại tơi, tại tơi cả thơi…” Nói
xong đấm ngực thình thịch.
Đức nhăn mặt khó hiểu lẫn thương hại, anh
nghĩ mình nên rút. Đức đứng lên, nói nhỏ: “Em
về nhé. Có dịp em sẽ đến thăm anh.” Phan rối
rít: “Không không… À chưa… Cậu ở lại chốc nữa
được không? Với cậu thì tơi muốn kể, biết đâu
giải tỏa phần nào.” Đức cịn chần chừ thì Phan
tiếp: “Cậu đã tâm sự chuyện gia đình mình, thì
tơi cũng muốn kể cho cậu nghe chuyện của tôi.
Đã bao lần tôi muốn viết ra mà khơng được, cứ
nghĩ đến nàng là tơi khóc!…” Rồi kéo tay Đức
ngồi xuống: “Tôi kể nhanh thôi, chẳng dám kéo
dài sâu vết thương…”
Đức ngồi xuống, Phan pha bình trà mới và
chậm rãi kể: “Từ nhỏ tơi đã có máu văn nghệ,
phải nói là mê say. Lớn lên tơi vào Trung đoàn
Tên Lửa bảo vệ vùng trời Hà Nội. Nhờ giọng

hát và ngâm thơ hay, tôi được điều về Đồn văn
cơng Hà Tây. Đất nước thống nhất, tơi vào Nam
xây dựng kinh tế mới, làm cán bộ phong trào ở
Cơng ty cao su Bình Long. Lúc ấy tơi trẻ khỏe,
to cao, khá điển trai và nghệ sĩ nên có nhiều cô
mê. Nhiều anh trong công ty phát ghen với tơi
. Tơi hãnh diện, có chút tự kiêu. Nhưng rồi một
ngày tơi phải đổ vì cơ nữ sinh 18 tuổi. Nàng có
giọng hát rất thanh và cao vút, là giọng nữ chính
trong ca đồn nhà thờ. Giọng hát nàng khiến
tơi ngơ ngẩn, sắc đẹp hiền dịu của nàng làm tôi
ngất ngây. Từ khi quen nàng, những bóng hồng
trong tơi mờ nhạt. Tôi không dám hoang đàng
mà trở nên chững chạc. Chúng tơi đã có những
giây phút bên nhau thơ mộng, vô cùng lãng
mạn. Những đêm trăng, cả những đêm mưa…
Trong túp lều sau rẫy, nàng nép vào vai tôi hát
nho nhỏ bài Giọt Mưa Thu của nhạc sĩ Đặng Thế
Phong, tơi hát bè theo. Nàng của tơi say đắm,
tình tứ, nhưng rất đứng đắn, chỉ cho phép ôm ấp
vuốt ve. Mỗi khi tơi háo hức thì nàng quyết liệt
ngăn lại: “Em cấm. Sau đám cưới đã.”

Trần Thị Thùy Linh

Tình thu
Từng cơn gió khẽ qua thềm
Hôn lên những sợi tóc mềm thướt tha
Nắng thu như dãi lụa là
Êm đềm buông trải mượt mà lối quê

Cúc xinh chúm chím xuân thì
Bướm vờn tình tứ câu gì trao nhau?
Mù u bông trắng trên cao
Thả hương theo gió ngọt ngào mùa yêu
Ai ca thánh thoát từng chiều
Lời thương tiếng nhớ đọng nhiều yêu thương
Tình thu một khúc vấn vương
Tình thơ xao xuyến chút tương tư lòng.
T.T.T.L

Mai Thu Hồng

Không đề
Lớp tôi trống một chỗ ngồi,
Cánh chim bé nhỏ vào đời mưu sinh.
Nắng mưa ơi chớ vô tình,
Trút lên đôi cánh gầy xanh tuổi đời.
Hàng rong một gánh đầy vơi,
Liêu xiêu dáng nhỏ xa xôi dặm trường.
Hai vai oằn một nỗi buồn,
Chông chênh giữa cõi vô thường...

chông chênh!
M.T H
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 13


“À tôi phải kể thêm cho cậu nghe việc quan trọng
này: Gia đình nàng rất gia giáo, cha nàng kỹ tính và
khó. Khi hai con chớm lớn, ơng làm cho mỗi con một

phòng riêng để tiện sinh hoạt học hành. Nàng kể:
“Cứ 8 giờ tối đọc kinh xong là cha em đóng cổng
khóa cửa, bắt hai con vào phịng. Tuổi mới lớn anh
trai em nghịch lắm, hay trốn đi chơi với bạn. Trước
khi đi đều nhờ em cài lại cửa bếp, rồi dặn thức canh
mở cửa cho anh vào. Được một thời gian thì cha em
bắt gặp, ơng đánh hai đứa một trận khiếp lắm! Từ đó
ơng ráp thêm khóa cửa sau. Trong nhà chỉ mình ơng
giữ chùm chìa khóa, đi đâu mới giao cho mẹ em. Thế
mà sau đó anh của em vẫn lẻn đi được đấy.” Tôi thắc
mắc đi bằng cách nào? Nàng ngập ngừng… rồi thích
thú kể: “Nhà em vách ván. Anh ấy cưa một đoạn ván
vừa đủ cho người chui ra phía dưới góc gầm giường.
Chỉ cần rút chốt bên trong là tháo ra ráp lại mảnh ván
dễ dàng, ở trong hay ngồi đều khơng thấy được. Em
ở sát phịng bên mà cũng khơng biết. Mãi một đêm
em thức học thi, nghe tiếng cọc cạch, em nghĩ con
Ky sục bắt chuột. Em thử hỏi: “Ai đó?” để đánh động.
Anh ấy vội: “Suỵt! Anh đây...” Từ đó em mới biết được
bí mật của ơng anh. Em đe: “Đi vừa vừa chứ, em
mách đấy.” Anh ấy cười, năn nỉ… - Nàng bẽn lẽn thú
thật: “Nhờ cánh cửa ấy mà em mới lẻn ra gặp anh
được.” Tôi cười gật gù: “Thảo nào những tối anh Toản
có nhà, anh giả tiếng chim gọi mãi mà em chẳng ra.”
Đấy, chuyện tình tôi thơ mộng, éo le, gian nan và
cũng đầy hấp dẫn. Biết kể thế nào cho đủ đây? Biết
nói về nàng thế nào đây? Lan là Nhạc, là Nàng Thơ
của tôi. Từ khi yêu Lan tôi làm thơ. Nhờ thuộc nhiều
thơ hay của các thi sĩ tiền chiến nên tôi ảnh hưởng,
làm thơ cũng khá hay. Làm được bài nào tơi đều khoe

nàng. Thỉnh thoảng nàng góp ý và rất thích ngâm thơ
tơi. Hai tâm hồn đồng điệu cảm thấy không thể thiếu
nhau được nữa.
Nhưng khi tiến tới hôn nhân thì gia đình Lan khơng
đồng ý. Thoạt đầu tơi cũng không hiểu tại sao? Sau
mới lờ mờ hiểu ra những bức tường thành kiến. Tôi đã
gạt bỏ tất cả, chấp nhận mọi điều kiện cha nàng đưa
ra, nhưng ông vẫn im lặng, có thể dưới mắt ơng thì tơi
chỉ giả vờ, hay thuộc hạng xướng ca vô loại? Khi tôi
được Giải thơ của Cơng Đồn Cao Su, nàng khoe với
cha thì ơng đọc ngay hai câu thơ Nguyễn Bính: Nhất
kiêng cấm lấy chồng thi sĩ. / Nghèo lắm con ơi! Bạc
lắm con! Nàng kể làm tôi tự ái. Nàng ôm tôi vuốt ve:
“Cha lo cho em thôi. Anh cứ làm thơ đi, làm thơ cho
em ngâm nhé?” Tôi đã hết sức nhẫn nhịn, cố gắng,
thậm chí tìm cách mua chuộc tình cảm của gia đình
nàng, như giới thiệu anh nàng vừa tốt nghiệp kỹ sư
Lâm Nông về công ty, vừa làm chuyên môn vừa tham
gia văn nghệ. Anh nàng hát cải lương rất mùi. Mẹ
nàng hiền khơng nói gì. Nhưng cha nàng một hôm
bảo tôi: “Anh thông cảm, con Lan sắp lấy chồng. Tôi
đã hứa gả rồi.”
“Tuyệt vọng quá! Tôi hẹn gặp nàng, nói: “Khơng

14 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

cịn cách nào nữa! Nếu em thật tình yêu anh thì chúng
ta cùng trốn. Khi có con rồi chắc bố mẹ sẽ thương.”
Nàng đắn đo một chút rồi gật đầu: “Thì sống chết
có nhau. Nhưng chúng ta đi đâu? Làm gì để sống?”

- “Anh đã suy nghĩ tính tốn. Phải liều thôi. Phải hy
sinh em ạ. Anh sẽ bán thổ cư và bộ sườn nhà công
ty cấp cho - bán rẻ cũng được. Tạm thời mình về Thủ
Dầu Một thuê nhà, rồi tìm mua căn hộ nhỏ. Anh có
ơng sếp văn nghệ trên đó đỡ đầu. Hơm ơng ấy về
trao giải có nói sao anh khơng về tỉnh với tơi, hoạt
động văn nghệ rộng hơn. Cịn em thì xin làm cơng
nhân cũng dễ.” Hai chúng tôi quyết tâm, sắp xếp hẹn
nhau vào một ngày khoảng 12 giờ đêm…”
“Tối trước khi tôi hẹn Lan cùng trốn, tôi mua con
vịt quay và thùng bia nhâm nhi với mấy ơng bạn, nói
dối là trúng số trăm ngàn, thực ra ngầm chia tay,
nhưng mục đích chính là kéo anh của Lan vào bàn
để nàng dễ trốn qua cánh cửa bí mật. Chúng tơi đã
hẹn nhau sau rẫy, qua cầu treo Suối Đá là có đường
dẫn ra tỉnh lộ.
Giữa cuộc nhậu, Toản đi tiểu, khi trở vào bàn hỏi
tôi: “Anh định đi đâu mà cột sẵn ba-lơ sau xe vậy?”
Tơi nói cho qua: “À… Mai tớ đi Đồng Xồi đám giỗ,
chắc ở đó vài ngày…”
10 giờ rưỡi, ăn uống xong, bạn rủ đi karaoke, mọi
khi tôi cũng đi, nhưng hơm nay thối thác: “Mai tớ đi
sớm cho mát.”
Chẳng may sau đó Toản khơng đi hát mà thẳng về
nhà. Sau này anh ta kể khi mở cổng, chợt thấy thấp
thống bóng người, nhưng thấy con Ky khơng sủa
nên nghĩ mình trơng lầm. Đến khi vào phịng bằng lối
cửa bí mật rồi mới nghi nghi… Thử gõ cửa phịng em
gái, mãi khơng nghe trả lời. Toản nhớ lại lúc nãy thấy
ba-lô của tôi… Rồi nghĩ mọi khi tôi uống nhiệt tình, sao

hơm nay lại cầm chừng? Mà lại đứng ra mở tiệc?...
Nỗi nghi ngờ cảnh giác tăng lên. Tôi không ngờ Toản
về phe cha và ngầm theo dõi. Anh ta đập mạnh cửa
phòng Lan và kêu lớn.
Lúc ấy hơn 11 giờ, tôi đã giấu sẵn xe vào lùm cây.
Thấy cịn hơi sớm, tơi định chờ chút nữa rồi qua cầu
treo vào lều đón Lan. Bỗng tơi nghe tiếng kêu ơi ới,
tiếng quát gọi phía cuối rẫy nhà Lan. Tơi lo lắng, nghe
ngóng. Đúng là bên ấy có tiếng gọi và người lùng
sục… Im lặng một lúc… Tôi chưa hiểu tại sao? Đốn là
Lan bị gia đình phát hiện, nàng đang trốn, có thể đã
bị bắt? Nguy quá! Làm sao đây?...
Trời ơi! Đáng lẽ lúc ấy tôi phải tỉnh táo, phải can
đảm chạy qua cầu treo để cứu người u, thì tơi đã
sợ và ngần ngại, cứ núp đó mà đốn già đốn non.
Khơng ngờ Lan lúc cùng đường đã liều lĩnh băng
qua cầu treo để tìm tơi, phía sau có người đuổi theo.
Trong lúc hốt hoảng, vội vã, nàng đã trượt chân rơi
xuống!… Tôi nghe rõ tiếng Lan kêu thất thanh!... Lúc
ấy tôi quên hết sợ hãi, băng mình lội xuống suối cứu
Lan. Sau đó tơi cùng cha và anh Lan đưa nàng đi


cấp cứu.
Nhưng Lan không qua khỏi cậu ạ. Suối cạn
nhiều đá… Nàng mất trên tay tôi!”
Phan kể xong rồi ôm mặt khóc rưng rức, đấm
ngực gào lên: “Tại tơi rủ nàng đi. Tôi đã giết nàng!
Tôi giết đời tôi!...”
Đức nhăn mặt đứng lên. Phan gạt nước mắt,

chợt vớ lấy cuốn sổ, lẩm bẩm gì đó rồi cúi xuống
ghi nhanh, những con chữ hiện ra uốn lượn như
nhảy múa.
P.Đ.N

Kim Ngoan

Nợ
Mây nợ gió những lần đưa tiễn
Những chuyến ngao du tận chốn xa nào
Thuyền nợ biển những lời tình tự
Mãi âm vang say đắm, dâng trào
Trăng vàng nợ vần thơ rao bán
Từ tận cùng đau khổ của thi nhân
Dòng sông nợ hàng dừa êm ả
Đứng nghiêng mình chải tóc ngắmhoàng hôn
Đồng lúa chín nợ bàn tay cần mẫn
Người nông dân khuya sớm vun trồng
Mùa hạ nợ những hàng phượng vó
Gọi ve sầu trỗi khúc nhạc hoài mong
Mùa thu nợ rừng cây thay áo
Trải thảm vàng nhân thế ngẩn ngơ
Mùa xuân nợ mùa đông băng giá
Ủ men nồng bừng nở hoa mơ
Cảm ơn đời cho ai đã nợ ai
Cảm ơn đời cho ta đã nợ nhau
Cho em nợ anh một lời hẹn ước
Bởi ngại ngần nên giấu mãi trong tim...

Trịnh Anh Tuấn


Dấu chân nối tiếp
Hai mươi năm chóng vánh,
Cứ ngỡ mới hai năm!
Khi bố bước vào ngành,
Con còn trong bụng mẹ!
Đường lô mòn bao lối,
Dòng nhựa mới trào dâng,
Chảy quanh vành nôi ấm,
Con khôn lớn thêm dần.
Đường lô dài năm tháng,
Dấu chân bố in hằn.
Con ướm theo từng bước,
Có hiểu được tình cha!...
Hai mươi năm như đã
Thắm đậm nghóa tình sâu,
Cây cao su yêu đất,
Đất dâng mật cho người.
Dẫu khó nhọc, buồn, vui
Biết bao đời chăm chút,
Nay con đà nâng bước,
Tiếp nối bước bố đi.
Rồi, bố, con “Đồng chí!”,
Cùng chung sức dựng xây.
Hai mươi năm trồng cây,
Nay đến ngày hưởng phúc!
T.A.T

28/6/2016 - K.N
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 15



Chuyện của An
Đoản văn: ĐỖ MỸ LOAN

CAn sẽ trở lại trường, gặp lại thầy cơ và bè bạn

hỉ cịn một tuần lễ nữa thôi, mùa hè sẽ kết thúc.

sau mấy tháng nghỉ học. Năm học tới, An sẽ chính
thức là học sinh lớp năm. Nghĩ đến đây, cô bé nhẹ
mỉm cười, lòng rộn lên niềm vui sướng.
Nhưng rồi nụ cười lại nhanh chóng tắt lịm trên đơi
mơi An. Cái viễn cảnh đen tối thống trở về trong tâm
trí cơ bé. An nghĩ đến ba mình thật nhiều. Ba đã một
đời hy sinh cho An từ khi mẹ bị bệnh nặng qua đời.
Làm thân gà trống nuôi con, ba đã không nề gian khổ,
một nắng hai sương để nuôi  An khôn lớn.
An thương ba ghê lắm! Ba là người thân duy nhất
của An nên bao nhiêu tình thương cơ bé dồn hết cho
ba mình. Ba An bị tật bẩm sinh ở mắt nên không phải
đi bộ đội như những người đàn ơng ở xóm. Chính nhờ
vậy mà ba mới có thời gian kề cận chăm sóc, ni
dưỡng An sau ngày mẹ ra đi mãi mãi. Lúc ấy An nhớ
mình cịn bé lắm. An cứ khóc địi mẹ mà chưa biết thế
nào là nỗi buồn tang tóc.
Hai cha con sống cùng nhau trong một gian nhà
nhỏ cuối xóm. Phía trước nhà là hàng rào dâm bụt
lá xanh tươi, chen lẫn mấy cánh hoa đỏ rực như lửa
trơng thật ấm áp. Ba thích trồng cây cảnh nên nhà An

lúc nào cũng được trang hồng bởi hoa lá. Đằng sau
nhà là khoảng đất khơng rộng lắm. Ngồi một số cây
ăn quả như chuối, bịn bon, chơm chơm…, ba cịn
phân luống số đất cịn lại trồng mấy liếp rau sạch.
Ngày ngày, ba và An thay phiên tưới bón, chăm sóc
nên cây cối, rau cải xanh tốt lắm.
Cứ vài hôm, ba đốn mấy quày chuối sứ, chuối già,
cắt rau cải đem ra chợ bán, lấy tiền mua gạo, thịt…
Thỉnh thoảng ba mang cần câu ra bờ sông gần nhà câu
cá bống. Và nhiệm vụ của An là phụ ba làm cá rồi bắc
lên bếp lửa riu riu kho cho thấm. An cũng không quên
hái một mớ rau dền đem luộc. Nước rau dền thêm
chút bột nêm thành món canh An rất ưa thích. Cịn
rau dền chấm với cá bống kho ăn với cơm nóng thật
khơng gì ngon bằng. Đến bữa cơm, hai cha con vừa
ăn vừa chuyện trị rơm rả thật vui.
Ngồi việc trồng tỉa cây trái trong vườn, ba An còn
giúp phụ hồ ở một số cơng trình xây dựng. Nhờ tính
tình hiền lành, siêng việc nên ai cũng quý mến ba An.
Cuộc sống gia đình An thật ấm êm cho dù thiếu vắng
bàn tay dịu dàng của mẹ.
16 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

Riêng An, cơ bé cảm thấy cuộc sống có ba như
vậy là vơ cùng hạnh phúc. Cũng có đơi lúc cơ bé tủi
thân, thèm vịng tay u thương của mẹ, nhưng nhìn
dáng ba lầm lũi đi trong mưa gió, An khơng dám để
lộ cho ba biết, sợ ba buồn thêm. Thương ba, An chỉ
biết cố gắng vâng lời và học giỏi để ba vui lịng. Đêm
đêm, An ngồi vào góc học tập học hành, làm bài tập

cơ giáo cho về nhà.  Điều gì An không hiểu, cô bé nhờ
ba giảng lại. Suốt mấy năm liền, cô bé luôn đạt danh
hiệu học sinh giỏi, tích cực tham gia mọi phong trào
của Đội đề ra. An là niềm vinh dự của ba, cô bé tin
chắc như thế. Cứ mỗi đợt sơ kết học kỳ hay tổng kết
năm học, An đều mang về gói phần thưởng xinh xắn
để khoe với ba. Ba ơm An vào lịng, ánh mắt lấp lánh
niềm vui. An nhìn ba, lịng đầy yêu mến và biết ơn.
Cuộc sống của hai cha con An sẽ vơ cùng hạnh
phúc nếu như khơng có buổi sáng đầy xui rủi ấy. Trong
khi ba cùng các chú cơng nhân leo lên giàn giáo thì
đột nhiên ba bị choáng, té từ trên cao xuống. Ba được
đưa ngay đến trạm xá gần nhà và sau đó chuyển bệnh
viện tuyến trên do vết gãy ở xương chân khá nặng. Ba
phải nằm viện mất cả tuần lễ. Thời gian ấy, cô bé phải
túc trực cạnh giường bệnh chăm sóc ba. Thấy An nhỏ
nhắn và yếu đuối, ai cũng thương. Mỗi khi ba có việc
cần phải di chuyển như đi chụp X quang hoặc siêu
âm, các cô chú thân nhân của các bệnh nhân nằm cùng
phịng với ba ln sẵn sàng giúp đỡ.
Chuyện tiền nong chi phí cho bệnh viện thực sự là
nỗi lo lắng của ba và cả An nữa. Tiền hỗ trợ của chủ
cơng trình, và số tiền ba dành dụm bấy lâu đã cạn dần.
Việc đi lại của ba vẫn cịn khó khăn. Đơi nạng lúc nào
cũng bên cạnh ba. Thế là mọi việc lớn nhỏ trong gia
đình, một mình An phải cáng đáng. Nhìn An gầy guộc,
ốm yếu phải quần quật việc bếp núc, giặt giũ cho hai
cha con… đến việc chăm sóc, thu hoạch rau trái ngồi
vườn, ai cũng khơng khỏi xót lịng. Ngước nhìn tờ lịch
trên tường,  An nhẩm tính và giật mình: Ngày đăng ký



Văn Trạch

Nỗi niềm cùng thu
Chiếc lá rụng xuống chiều
Thu buồn như mắc lỗi
Nghe tiếng chim quốc gọi
Mây rối trời hiu hiu

Thu chầm chậm qua đó
Heo may ướt nỗi niềm
Trong gió chiều hoang hoải
Tóc chừng có bạc thêm
Bao thu đã qua đi
Nhiêu thu còn quay lại
Hai tay cầm câu hỏi
Ném vào thu – Tiếng cười!
7/2016 - V.T

nhập học cũng chỉ cịn mấy hôm nữa mà thôi. Nghĩ
đến bao khoản tiền phải đóng đầu năm học, mặt cơ bé
buồn hiu và trĩu nặng lo âu.
Mấy năm trước, gần đến ngày khai giảng năm học
mới, ba thường sắm cho An hai bộ đồng phục. Năm
nay chắc cô bé phải mặc quần áo cũ của năm lớp Bốn.
Rồi đến dụng cụ học tập, sách giáo khoa lớp Năm,
cơ bé cũng chưa sắm sửa gì cả. May là hôm lễ bế
giảng năm học, An nhận được hai phần thưởng. Một
phần thưởng với thành tích là học sinh xuất sắc trong

học tập và phần còn lại do An đã tích cực trong cơng
tác Đội. Hai phần thưởng tính ra hơn chục quyển vở.
Chiếc cặp da, cây bút máy, bút chì và thước kẻ An xài
vẫn cịn tốt lắm. Ngày mai, nhất định cô bé sẽ mang
tất cả ra kiểm tra lại.

Theo lời dặn của bác sĩ, sáng hôm nay ba phải đến
bệnh viện tái khám. Bên chủ đầu tư cơng trình đã nhờ
chú tài xế đánh xe chở giúp cho ba. Đến nơi, chú ấy
phụ đưa ba vào chỗ ngồi rồi trở ra cổng coi xe. Một
mình An chạy đi đăng ký, đưa ba đi chụp X quang và
đợi đến lượt khám. Nhìn kết quả chụp X quang, bác sĩ
khẽ mỉm cười làm An nghe yên tâm hơn. Với gương
mặt phúc hậu, bác sĩ báo cho biết chân ba An đã phục
hồi khá tốt và hy vọng chừng hai tuần lễ nữa sẽ tháo
bột. Niềm vui như òa vỡ. Mặt ba An dãn ra. Bao nhiêu
đau đớn giờ như tan biến. Nghĩ đến ngày ba tháo bột,
đi lại bình thường, cơ bé mừng ghê lắm!
Trưa về đến nhà, bụng đói mà bếp núc lạnh tanh,
hai cha con tự thưởng mỗi người một tơ mì Lẩu Thái
chua cay. Vừa ăn An vừa hít hà, nụ cười hạnh phúc trở
lại rộn ràng trong gian nhà nhỏ. Nắng lung linh trên
giàn hoa dâm bụt trước cửa làm An thấy cảnh vật như
gần gũi, yêu thương hẳn lên.

Ăn trưa xong, An leo lên chiếc võng mắc ở hàng
hiên làm một giấc say sưa. Cô bé như lạc vào khu
vườn cổ tích có ong bướm rập rờn bay lượn bên những
cánh hoa rực rỡ sắc màu. Gió nhè nhẹ thổi làm mấy
sợi tóc bay bay khiến An giật mình mở chồng mắt.

Trên chiếc ghế đẩu bắc ngoài hiên nhà, ba đang loay
hoay lau chùi chiếc cặp da của An.  Bên cạnh ba là
chiếc bút máy và bình mực tím. Ba đã giúp con rửa lại
ống mực cho khỏi nghẹt. Thật xúc động trước sự quan
tâm lo lắng của ba, An nghe cay cay khóe mắt. Cơ bé
kể cho ba nghe dự định của mình trong năm học mới,
ln cả việc sẽ mặc lại bộ đồng phục năm cũ. Hai cha
con say sưa trị chuyện mãi đến khi có tiếng gọi cửa
của ai văng vẳng ngoài cổng rào. An chạy vội ra đón
khách. Cơ bé ngỡ ngàng khi thấy trước mắt là cô giáo
chủ nhiệm năm học vừa qua. Bên cô là các bạn Cỏ
May, Mây Trắng, và Trăng Khuyết… Mấy nhỏ bạn
chung lớp và cùng tổ học nhóm với An. An mời cô
và các bạn vào nhà. Cô giáo cho biết hai tháng nay cô
về quê vừa trở lại trường nên giờ mới hay tin ba An
bị nạn. Cô đại diện tập thể giáo viên trường ghé thăm
ba An, báo tin An được Hội đồng nhà trường xét miễn
giảm các khoản phí đầu năm cho học sinh có hồn
cảnh khó khăn.
Cả ba và An đều xúc động khơng nói được thành
lời. Nỗi lo âu trĩu nặng mấy ngày qua giờ thật nhẹ
nhỏm, sáng bừng niềm hy vọng. Tiễn cô giáo và các
bạn ra về khá lâu mà An vẫn đứng lặng người trước
cổng. Hồng hơn đã xuống. Nắng đã nhạt dần. Tiếng
bầy chim gọi đàn về tổ ríu rít một khoảng trời. An
chợt nhớ đến bữa cơm chiều chưa nấu và ba chân bốn
cẳng cơ bé chạy vội vào nhà.
Đ.M.L

VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 17



Ngọc Hùng

Lê Minh Vũ

Viết cho tháng tám
Tặng An Nhiên và Gia An

Tháng tám mùa thu
Ba gom mây trắng kết thành nhung nhớ
Bầu trời trong xanh chớm lạnh heo may
Nụ cười thiên thần trên môi con rạng rỡ
Nghe ấm nồng tình yêu ban mai.
Tháng tám mùa thu
Dành cho chúng ta những ngày vui bất tận
Ba nắm tay con nghe yên ấm lạ thường
Vòm trời xanh thắm mộng yêu thương
Những khát khao cháy tràn hy vọng
Gió mùa khẽ hát khúc thu xa.
Tháng tám lung linh
Thơ mềm như nhánh liễu rũ ven hồ ngày áo trắng
Ký ức một thời
Sân trường đầy hoa nắng
Chỉ mùa thu chứng kiến gã trai khờ
Và khung trời xanh ước mơ.
Tháng tám nên thơ
Những thanh âm ngân trong chiều
Chật ngăn ký ức cuộc đời
Tháng tám ánh lên những gam màu kỷ niệm

Hạnh phúc tỏa từ ánh nhìn thánh thiện
Lung linh những vì sao...
08/2016 - L.M.V

18 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

Chớm thu
Thoáng nắng thu về trên tóc em
Từng sợi heo may từng sợi mềm
Nắng ngã êm đềm vào chân tóc
Nhuộm màu thu nhạt phai sắc xanh
Mưa thu chớm về trên tóc em
Từng giọt ngâu nhàn nhạt nhuốm sầu
Lất phất giọt dài đan giọt vắn
Trắng mái đầu điểm sương bụi ngâu
Con đường bốn mùa ta đi đó
Đã thấy lưa thưa lá úa vàng
Đã nghe chiều buồn se sắt gió
Thu vơi đầy... tâm tư miên man
Xuân đã lùi sâu vào xa lắm
Chồi non là cành nhánh lâu rồi
Mùa đơm hoa trái giờ xưa cũ
Lá úa cành trơ thu tiếp ngôi
Vẫn biết hạ đi thu sẽ đến
Mà thu sang vẫn lắm ngỡ ngàng
Dòng sông đời khúc bồi khúc lở
Nắng mưa thu bồi lở... meânh mang...
L.N.H



Phan Thành Minh

Mã i mã i tuổ i hai mươi

Chiều đi về phía gian lao
Vẫy tay là nói thêm bao nhiêu điều
Xe anh vượt suối băng đèo
Hiểm nguy em hoá cọc tiêu chỉ đường
Mắt em là cả đại dương
Đắm chìm anh với yêu thương vô bờ
Không nhau thêm thắm mong chờ
Cách ngăn đã có câu thơ bắc cầu

Chiến trường ăm ắp thương đau
Đạn bom nào biết ngày sau là gì
Điệp trùng tiếp nối quân đi
Một thôi... em ước... lắm khi không thành
Trường Sơn núi gánh trời xanh
Trăng non mắc võng trên cành ng trang
Tử sinh đã kịp sẵn sàng
Thù treo đầu súng hờn oan xé trời
Mãi xanh hoài tuổi đôi mươi
Mãi thương hoài với nụ cười em xưa
Trắng trời Tân Uyên gió mưa
Áo anh rách bởi anh chưa kịp về.
P.T.M

Quang Thám

Mưa trên đồi cỏ may

Ta tìm về nơi ấy
Ôi ! Lối xưa hao gầy
Hỏi gió người...đâu thấy
Gió cũng buồn thương vay

Trăng Khuyết

Anh có về . .. Mù a thu?
Anh có về... mang theo mùa thu mới
Nhuộm vàng chiều em gởi mấy vần thơ
Giữa hư không đếm từng giọt thương chờ
Trời cuối hạ bơ vơ ngàn nỗi nhớ.
Xưa anh kể... chuyện mưa Tần gió Sở
Chuyện ly tình một thû bến Tương giang
Nỗi sầu rơi thương tình khúc lỡ làng
Gieo oan trái ngỡ ngàng bao ước vọng.
Anh có về... ngang đồi xưa gió lộng
Giữ giùm em chút mộng thû tương tư
Thû se mây cột lại tiếng tạ từ
Sợ ly biệt làm hư hao tình ái.
Anh có về... chở thu miền hoang tái
Lấp mộ sầu hong lại xác phượng xưa
Khúc du miên lạc ngõ ngách đêm thừa
Để tình em... em đưa thu vào mộng.
T.K

Mưa trên đồi cỏ may
Nắng mềm như trang giấy
Cảnh chiều, ôi đẹp vậy!
Sao nỗi buồn lên cay


Em bây giờ bỏ ta
Con đường quen thành lạ
Tình em như chiếc lá
Cuối thu tàn bay xa

Thương mùa xưa xanh lá
Má em hồng cánh hoa
Lòng ta xao xuyến quá
Đá cũng vui màu ngà

Tim anh giờ cỏ úa
Sầu rêu xanh bốn mùa
Đêm cầu lên ngôi Chúa
Xin nỗi buồn thôi mưa!
Q.T
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 19


NHỮNG
MẦM
XANH
Bút ký: LỆ HỒNG
Cơ PHẠM THỊ TIỀN - Trưởng phịng Giáo dục - Đào tạo thị xã Bến Cát

T

rong không khí vui tươi, phấn khởi của buổi họp
mặt đầu xuân, cơ Phạm Thị Tiền (Trưởng Phịng
Giáo Dục - Đào Tạo thị xã Bến Cát) hân hoan nhậm chức.

Những hoài bão ước mơ như chấp cánh hiện về...
Sinh ra và lớn lên trên quê Dĩ An, nhưng ngày ra trường
cô giáo trẻ Phạm Thị Tiền được phân về phục vụ ngành giáo
dục tại quê hương Bến Cát anh hùng, nơi đây trở thành q
hương thứ hai của cơ, từ đó cuộc đời cô gắn liền với vùng đất
này, như được kết duyên và trở thành con dâu Bến Cát. Cô
Phạm Thị Tiền đã nỗ hết mình vì sự nghiệp giáo dục hơn 35
năm qua. Và trong vai trò lãnh đạo ngành giáo dục Bến Cát cô
Tiền luôn quan tâm công tác xây dựng, bồi dưỡng cho cán bộ
nòng cốt cũng như giáo viên đứng lớp... Cơ tích cực tổ chức
phát triển tồn diện các bộ mơn, trong đó có mơn Ngữ Văn.
Thời gian trước đây không lâu, mỗi khi tổ chức các
“Lớp bồi dưỡng môn Ngữ văn” cô Phạm Thị Tiền thường
mời người thầy cũ của mình là cơ Mai Lam (Cựu giảng viên
trường CĐSP Bình Dương) đến dự với vai trị khách mời vinh
dự. Và cơ Mai Lam như người thắp lửa cho “Vườn Ươm Văn
Học” ngày càng xanh mát. Cơ Mai Lam rất vui và hài lịng
khi thấy học trị của mình đã trân trọng, nâng niu, chăm sóc
“Vườn Ươm” để phát triển những “Mầm xanh” cho thế hệ kế
thừa. Cơ Mai Lam đóng góp ý kiến về phong trào thi đua để
phát huy tài năng trẻ cho “Vườn Ươm” ngày càng xanh tươi
rực rỡ.
Nhớ lại những năm trước đây tôi được cô Phạm Thị Tuyền
mời đi thực địa ở làng tre Phú An. Chính nơi ấy đã giúp tôi
viết lên nhạc phẩm “Làng tre Phú An” - bài hát trên đã nhanh
chóng gắn liền với các em học sinh ở nơi này.Điều ấy đối với
tôi rất sung sướng và vinh dự.
Cơ Phạm Thị Tiền nói với tơi bằng lời tâm sự thân thương:
“Chị ơi! Mình ước mơ ngành Giáo dục - Đào tạo Bến Cát có
được một Vườn ươm Văn học, để các mầm xanh phát triển

thành đội ngũ kế thừa, phục vụ tốt bộ môn Ngữ Văn, cũng
20 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

nhằm phát hiện và bồi dưỡng các học sinh năng
khiếu, chị ạ!”
Tôi nghe mà cảm động, tôi tiếp lời cô: “Dạ
vâng! Điều ấy, cô Tiền có thể thực hiện được
mà! Bởi cơ đã rất quan tâm đến việc “Bồi
dưỡng Ngữ Văn” cho “Tổ mạng lưới”. Thế
nào việc đó cũng thành cơng. “Vườn ươm Văn
học” sẽ có nhiều mầm xanh, trở thành những
cây bút trẻ sung sức đầy hứa hẹn.
Bây giờ, bên cạnh cô Phạm Thị Tiền cịn
có Phó trưởng Phịng Giáo dục - Đào tạo là
Nhà thơ Lê Minh Vũ (vừa đạt giải III thơ Giải
thưởng Văn học Nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ
lần V, do Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương
tổ chức (2011 - 2015) với tác phẩm: “Chào
thành phố mới buổi nắng mai”) Thầy Lê Minh
Vũ là cây bút tài năng của Hội Văn học Nghệ
thuật Bình Dương, là chủ nhiệm “Chi hội Văn
học”. Nhiều năm liền, thầy Vũ đều có giải
thưởng trong các Hội thi. Thầy luôn quan tâm
đến thế hệ kế thừa. Chắc chắn quê hương Bến
Cát sẽ có thêm nhiều cây bút nữa tiếp theo các
anh chị như Thủy Trúc, Đào Văn Đạt, Kim
Ngoan, Lệ Hồng, Nguyễn Văn Ân, Ngô Văn
Khanh và thầy Lê Khắc Tri (ngành Âm nhạc)...
cùng một số các anh chị khác như các nhà thơ
Vĩnh Xuyên, Hịa Bình, Nguyễn Kim Phụng và

nhiều anh chị em khác nữa trong câu lạc bộ
Thơ Tân Định.
Trước sự đổi mới của quê hương Bến Cát Bến Vàng và Ban lãnh đạo của ngành Giáo dục
- Đào tạo, thị xã Bến Cát hứa hẹn một “Vườn
ươm Văn học” với những “mầm xanh” mạnh
mẽ vươn lên trong tương lai rất gần.
L.H


Huyền thoại về cõi “Thiên thai”
trong thi ca Việt Nam

VÕ HUYỀN TRÂN

G

iống như huyền thoại về
chiếc lá diêu bông diệu
kỳ ngàn đời mãi xanh trong văn
học Việt Nam, dù bất cứ ai có lý
trí đều ý thức được sẽ khơng bao
giờ tìm thấy trong hiện thực nhưng
lại mang đến niềm tin bao thế hệ
thanh niên một thời. Huyền thoại
về cõi Thiên thai cũng vậy, vì có
bắt nguồn lâu đời hơn nên từ lâu
đã trở thành nguồn cảm hứng bất
tận cho các thế hệ thi nhân Việt
Nam. Bởi dường như trong thực
tại, mỗi khi vấp phải khổ đau bất

hạnh hay điều gì bất như ý, con
người thường mơ về một thế giới
khác, đó sẽ là nơi có thể làm họ
cảm thấy hạnh phúc dù chỉ là trong
giây phút. Lần về lịch sử văn học
Việt Nam thật khơng khó để chúng
ta bắt gặp những câu thơ, ý thơ lấy
từ huyền thoại bất hủ này.
Đây là huyền thoại vốn xuất
phát từ Trung Quốc; sách chép
rằng Thiên thai là tên một hòn núi
thuộc huyện Thiên thai, tỉnh Chiết
Giang ở Trung Hoa.
Sách “Thần tiên truyện” chép:
Đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh
bình (58 sau DL) có hai chàng nho
sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu
quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Đoan
Ngọ cũng gọi Đoan dương (mùng 5
tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người
ta thường vào núi Thiên thai hái
thuốc chữa bệnh. Hai chàng Lưu,
Nguyễn cùng đi, nhưng chẳng may
bị lạc, khơng tìm được lối về.
Vơ vẩn trong núi gần tháng trời
mà khơng tìm được lối ra. Lương
thực mang theo đã hết đành phải

hái những quả đào chín mọng hai
bên bờ suối hay ven chân núi để

ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà
uống. Nhìn dịng nước trong núi
chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn
thấy có những hột cơm vừng và
lá rau tươi lững lờ trôi, nên đốn
chắc cách chỗ người ở khơng xa
nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường
nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi
liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy
cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực
kỳ đẹp đẽ. Đương ngẩn ngơ đứng
nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất
thanh tao:
- Lưu, Nguyễn hai chàng sao
mà đến chậm thế!
Nghe gọi đích danh mình, hai
chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa
lúc ấy hai cơ gái rẽ hoa đi ra. Thực
là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen
biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần
mời hai chàng vào động, và xưng
tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên.
Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng
rỡ vì được gặp người- lại người
đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.
Đến động bước vào nhìn thấy
chung quanh tồn trang trí cực kỳ
mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi
hương. Đến bữa cơm, hai nàng
dọn cơm vừng và nem dê rừng

mùi vị thơm phức, mời hai chàng
dùng. Tối lại, một đồn mỹ nữ đem
mâm đào chín và rượu ngọt đến,
đoạn múa hát dưng đào và rượu,
chúc tụng “Chúng em xin có lời
mừng tân lang và tân giai nhân nên
duyên cầm sắt”. Nói xong, họ lại
họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm
y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển,

giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn
rực rỡ kết tựu ngũ sắc, hai chàng
Lưu, Nguyễn say sưa cho mình
hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.
Đến khuya, tiệc tàn khách về.
Hai nàng Ngọc Kiều và Giáng
Tiên mời hai chàng Lưu Thần và
Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc
tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng
giữa hai nàng và hai chàng bền
duyên giai ngẫu.
Say mê cảnh đẹp, đầm ấm
trong tình vợ chồng, hai chàng
Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn
cảnh trần gian.
Ở đây ngày ngày tháng tháng,
tiết trời ấm áp hơn xuân, không
Hạ, không Thu, không Đông, đâu
đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm
muôn màu nhởn nhơ bay lượn,

chim hót véo von, trời trong mây
thanh gió mát đượm mùi hương
phảng phất quanh mình. Nhưng
thời gian hai năm trơi qua, cảnh
dầu đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm
ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm
lượn, chim hót... cũng khơng sao
xố được nỗi nhớ q nhà, nên hai
chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm,
hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại.
Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng,
không cho về. Nhưng lòng mơ nhớ
cố hương ray rứt người lữ thứ, hai
chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không
lưu chồng được, hai nàng ngậm
ngùi, thở dài bảo:
- Nhờ hồng phúc tiền thân
mà hai chàng được cùng chị em
chúng tôi kết duyên chồng vợ,
kẻ tiên người tục hoà hợp chốn
Thiên Thai. Tưởng rằng dun ưa
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 21


Lê Thị Bạch Huệ

Trung thu mộng ước tuổi thơ

Trống dồn lân tung điệu múa
Rồng bay vũ khúc tuyệt vời

Dòng người huyên thuyên cười nói
Trẻ thơ tươi tắn vành môi!

Thu về gợi nhiều nỗi nhớ
Tuổi thơ gắn bó quê nghèo
Trường xa cầu tre lắc lẻo
Trong chiều nước cuốn...lá reo!

Trăng rằm ánh vàng soi lối
Áo hoa ôi đẹp biết bao
Rước đèn tưng bừng ngày hội
Chứa chan hạnh phúc ngọt ngào!

Gió đùa mây bay trắng xóa
Sông như dải lụa uốn trôi
Mẹ về nắng vương trên má
Nhịp cầu nâng bước chân người!

Sông đêm ngập đèn hoa giấy
Lung linh sáng rực góc trời
Trung Thu nhớ hoài thû ấy!
Đếm sao mộng ước mẹ vui.
L.T.B.H

phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một
chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn
trần chưa dứt nên mới luyến nhớ
đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen,
kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ luỵ, hai
chàng có trở về chốn trần gian thì

liễu cũ hoa xưa chắc khơng cịn
được như ngày trước nữa. Chia ly
ai chẳng não lịng nhưng nghiệp
chướng khó mà diệt nổi.
Thế rồi hai nàng tiễn chân hai
chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận
xuống núi. Nhìn xa xa khói lam phủ
nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai
chàng ra khỏi núi Thiên Thai, chẳng
mấy chốc xuống núi về quê cũ.
Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia
nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước.
Làng xóm tồn người xa lạ, khơng
cịn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu,
Nguyễn là người đồng hương nữa.
Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ
có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay
một cách lạ kỳ. Lối cũ khơng cịn.
Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già
cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ đã xa
lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng
gặp một cụ già tuổi đã gần trăm, hai
chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm.
Cụ già bèn kể lại cách đây độ 400
22 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

năm, cụ có một ơng tổ bảy đời tên
Nguyễn Triệu. Nhân tiết Đoan Ngọ
cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái
thuốc rồi biệt tích. Bấy giời Lưu

Thần, Nguyễn Triệu mới biết một
ngày trên tiên giới bằng một năm ở
trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối
tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên
thai. Nhưng thảm thay, đi vòng vo,
quanh quẩn... cuối cùng lại lủi thủi
trở về, vì lối xưa đã lạc mất rồi. Ở
quê cũ cho đến đời Tấn Võ đế (265275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu
mới bỏ đi, khơng ai cịn gặp nữa.
Huyền thoại này sau đó đã trở
thành nguồn cảm hứng chung cho
những thi nhân, cả Trung Quốc lẫn
Việt Nam. Trung Quốc có chùm
thơ về Thiên thai của Tào Đường,
tự Nghiêu Tân, người Quế Châu
(tỉnh Quảng Tây). Ơng vốn là một
đạo sĩ, nên thơ ơng mang tâm trạng
nhàn dật, thốt ly, có tư tưởng “lạc
thiên tri mệnh”, đầy phong cách
thanh cao, lồng trong cảnh tiên thơ
mộng, trầm lặng và êm đềm, hư hư
thật thật, chan chứa khí vị Đạo học.
Thơ ơng miêu tả cảnh thiên nhiên
cây cỏ sơng núi như một bức tranh
sơn thủy hữu tình, với màu sắc

êm ái hài hòa, đã tạo nên sự thanh
thốt tâm hồn. Ơng để lại những thi
phẩm được truyền tụng khá nhiều,
đó là: Đại Du Tiên Thi và Tiểu Du

Tiên Thi. Chùm thơ “Thiên thai”
của Tào Đường gồm có 5 bài thuộc
loại thơ “du tiên” miêu tả sự gặp
gỡ và cách biệt giữa Lưu Thần,
Nguyễn Triệu cùng hai nàng tiên ở
núi Thiên Thai, gồm: Lưu Nguyễn
du Thiên thai, Lưu Nguyễn động
trung ngộ tiên tử, Tiên tử tống Lưu
Nguyễn xuất động, Tiên tử động
trung hữu hoài Lưu Nguyễn, Lưu
Nguyễn tái đáo Thiên thai bất phục
kiến chư tiên tử.
Ở Việt Nam, huyền thoại này
xuất hiện trong những câu chuyện
dân gian, bắt nguồn từ câu chuyện
“Động Bích Đào” với chàng Từ
Thức. Động ở xã Trị Nội, huyện
Nga Sơn, bên mặt núi Trần Phù
thuộc tỉnh Thanh Hoá.
Tương truyền đời nhà Trần,
niên hiệu Quang Thái (1388 1398) có ơng Từ Thức làm quan
Tể huyện Tiên du (tỉnh Bắc Ninh).
Bên cạnh huyện có một ngơi chùa
có trồng một cây mẫu đơn. Mỗi khi
nở hoa thì người các nơi đổ đến, xe


ngựa dập dìu.
Trong khi mọi người nhìn ngắm
hoa đẹp, bỗng có một thiếu nữ

dung nhan diễm lệ bước đến, đưa
tay ve vuốt lấy hoa. Nhưng chẳng
may khi vịn lấy một cành mẫu đơn
thì cành giịn bị gãy. Người giữ hoa
giữ nàng lại, bắt đền. Nàng khơng
có vật gì đền. Và mãi đến tối cũng
khơng có người quen đến nhận.
Nàng khóc. Từ Thức thấy thế động
lịng thương xót, liền cởi áo bạch
cẩm cừu đưa cho nàng chuộc tội,
để được thả về.
Một thời gian sau vì khơng
muốn ràng buộc bởi lợi danh, Từ
Thức trả ấn từ quan về ở huyện
Tống Sơn. Rồi ngày ngày, Từ với
một con thuyền, một bầu rượu, túi
thơ chu du khắp danh lam thắng
cảnh. Một hơm nhìn thấy cửa biển
Thần Phù có đám mây năm sắc
kết tụ hình hoa sen, Từ vội chèo
thuyền đến, thấy một hòn núi rất
đẹp, lòng sinh cảm khái, nhân đề
một bài thơ. Từ đề thơ xong nhưng
bỡ ngỡ chưa biết đường nào đi,
thoạt thấy vách đá tách mở ra một
chỗ tròn khoảng trên một thước.
Từ đi bộ chen mình vào, nhưng
được vài bước thì vách đá khép kín
lại. Đi được vài dặm thấy sườn đá
đứng thẳng như bức tường. Từ lần

leo lên, mỗi bước thấy đường càng
rộng. Đến chót núi thì thấy có ánh
mặt trời chiếu xuống. Nhìn quanh
bốn phía thấy một dãy lâu đài cực
kỳ lộng lẫy như tranh vẽ. Từ đương
lấy làm ngạc nhiên, bỗng thấy có
một đồng nữ áo xanh đến bảo:
- Phu nhân tôi xin mời tướng
công vào!
Từ mừng rỡ vâng lời. Thẳng
vào thì thấy một phu nhân đương
ngồi trên giường trạm thất bảo, bên
cạnh có đặt một cái tháp nhỏ bằng
đàn hương. Phu nhân mời Từ ngồi
ung dung bảo:
- Đây là hang động thứ sáu
trong số 36 động ở Phù Lai. Ta đây
là Ngụy phu nhân địa tiên Nam

nhạc, nghe nhà ngươi có cao nghĩa
hay cứu trợ người khốn đốn nên
mới cho rước đến đây.
Đoạn, phu nhân gọi một cơ gái
đến. Từ liếc nhìn, nhận ra là thiếu
nữ làm gãy hoa ngày trước. Phu
nhân chỉ cô gái, bảo Từ:
- Đó là con ta tên Giáng Hương.
Khi truớc nhờ ngươi cứu việc làm
gãy hoa, ơn ấy không quên nên ta
muốn kết làm giai ngẫu để trả.

Từ rất vui mừng. Ngay trong
đêm ấy, phu nhân truyền thắp đèn
mở phụng, trải phụng, trải chiếu vũ
rồng, cho Từ cùng Giáng Hương
làm lễ giao bơi.
Thấm thốt đã được một năm.
Nhưng cảnh tiên khơng khuây
khoả được lòng trần, Từ bỗng dưng
động lòng nhớ cố hương nên ngỏ
ý với Giáng Hương cho về thăm.
Biết không giữ được, nàng đành
thưa với mẹ. Phu nhân biết Từ còn
nặng lòng trần nên bằng lòng, cho
Từ một chiếc xe bằng mây “Cẩm
xa vân” để đưa về. Riêng Giáng
Hương giao cho Từ một phong
thư, dặn về đến nhà hãy mở ra xem
Đến nhà, nhìn quanh cảnh cũ
khơng cịn như xưa, thành qch
nhân dân khơng cịn như trước,
duy cảnh núi sơng thì cịn như độ
nào. Từ đem tên họ mình mà hỏi
thăm người già, thì có người bảo:
- Thuở tơi nghe nói ơng cụ tam
đại nhà tơi cũng tên họ như ồng, đi
vào núi mất đến nay có gần trăm
năm rồi
Từ Thức bấy giờ mới bỡ ngỡ, bùi
ngùi, muốn lên xe mây để về chốn
cũ thì xe đã hố thành con tường

loan bay mất. Buồn tủi, Từ mở thư
của Giáng Hương xem, chỉ có câu
ngắn ngủi: “Kết loan lữ ư vân trung,
tiền duyên dĩ đoạn; phỏng trên sơn
ư hải thượng, hậu hội vơ nhân”. Ý
nói, dun trước kết đơi loan phụng
cùng nhau nay đã đoạn tuyệt rồi;
ngày sau muốn tìm lại núi tiên cũng
khơng được nữa.
Tuyệt vọng hồn tồn. Từ đó,

Từ Thức mặc áo Khinh cừu, đội
nón lá vào núi Hồng Sơn ở huyện
Nơng Cống (tỉnh Thanh Hố) rồi
biệt tích.
Ở Việt Nam, người ta hay hịa
lẫn tích truyện này với tích Lưu
Nguyễn nhập thiên thai làm một,
để nói lên ước vọng được thoát
khỏi thế giới phàm trần đầy đau
khổ, hệ lụy. Ngồi ra, trong văn
chương, các thi nhân cịn dùng
huyền thoại này để ngẫu dụ cho
chuyện tình u đơi lứa. Trong dân
gian có câu ca dao:
Trèo lên trái núi Thiên Thai
Gặp hai con phượng ăn xồi trên cây
Đơi ta được gặp nhau đây
Khác gì chim phượng gặp cây ngơ


đồng
Truyện Kiều của Nguyễn Du
có 4 câu diễn tả nhân lúc cha mẹ
và hai em vắng nhà, Kiều đánh bạo
sang phòng văn của Kim Trọng:
Lần theo núi giả đi vịng
Cuối tường dường có nẻo thơng

mới vào
Xắn tay mở khố động đào
Rẽ mây trơng tỏ lối vào Thiên Thai


(Câu 389 đến 392)

Câu thơ ý nói khi Kiều và Kim
Trọng gặp nhau thì cái phịng văn
của chàng Kim đối với đơi bạn tình
son trẻ tài sắc này nào có khác gì
động Thiên Thai.
Song song với tích Lưu Nguyễn
nhập thiên thai, cịn có điển tích kể
về Động đào nguyên, cũng nói về
chuyện có một người lạc vào động
hoa đào.
Theo “Đào hoa nguyên ký”
của Đào Tiềm (365 - 427), một
nhà thơ văn đời Đồng Tấn, có một
ngư phủ huyện Vũ Lăng, một hôm
chèo thuyền đi ngược theo bờ suối.

Càng đi xa chừng nào thì thấy
càng có nhiều hoa đào trơi theo
dịng nước đổ xuống. Đến một
qng bỗng thấy trước mặt hiện
ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 23


rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say
sưa, thích thú. Nghĩ rằng có người
ở gần đấy nên bỏ thuyền lên bờ.
Vượt qua rừng đào đến một ngọn
núi, dưới chân núi có một cái hang
nhỏ hẹp vừa một người chui được,
bên trong thấy thống có ánh sáng.
Gợi tính tị mị, ngư phủ lách
mình vào cửa hang. Lúc đầu cửa
hang cịn hẹp, sau rộng dần. Rồi cả
một thế giới hiện ra: ruộng vườn
tươi tốt, thôn ấp, nhà cửa liên tiếp
nhau. Gà gáy, chó sủa nghe rõ mồn
một. Trai gái đều say sưa công việc
đồng áng . Trên mặt mọi người
hiện vẻ vui tươi, chất phát, hồn
nhiên. Người già, trẻ con đều có
vẻ ung dung, thanh thản. Họ thấy
ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi
làm sao đến được chốn này? Ngư
phủ trình bày sự thật. Các phụ lão
đem vợ con ra chào mừng khách

lạ, dọn cơm rượu thịnh soạn đãi
đằng. Ngư phủ ăn uống lấy làm
ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính
chất khác thường. Các phụ lão lại
nói: “Đây là động Đào Nguyên. Tổ
tiên chúng tôi tránh học đời Tần,
đem cả gia đình vào ở đây, từ đó
cách biệt với bên ngoài...”
Cuối cùng họ dặn ngư phủ: sau
khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho
ai biết có họ ở đây. Lão ngư phủ ở
chơi một hôm rồi cáo biệt. Ngư phủ
cho mình may mắn gặp được tiên.
Khi trở về nhiều người đến thăm
hỏi, trước đó cịn tìm cách giấu
quanh. Chuyện thấu đến quan Thái
thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật
cả việc lại. Có tính hiếu kỳ, viên
Thái thú sai người đi theo ngư phủ
tìm lại động Đào Nguyên nhưng bị
lạc đường đành phải trở về.
Huyền thoại về Động hoa đào
không thiên về nói chuyện đơi lứa
vui vầy hạnh phúc mà đó là một thế
giới tách hẳn bên ngồi, mọi người
có một cuộc sống tự do, tự trị và
hoàn toàn hạnh phúc. Điều này đối
lập với thế giới nhiễu nhương, bất
công, loạn lạc bên ngồi, là nơi
những người bình dân khát khao

24 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

hướng đến để lánh đời. Nhiều thi
nhân đã lấy các huyền thoại này
nhập làm một, mỗi lần nhắc đến
Thiên Thai là có suối hoa đào, có
các vị tiên nữ với điệu múa thần
kỳ, say đắm lịng người. Đó là giấc
mơ thốt tục để trốn tránh, chối bỏ
cảnh sống thực tại mong tìm về
chốn Bồng Lai tiên cảnh.
Trong văn học Việt Nam hiện
đại có rất nhiều thi sĩ sử dụng tích
truyện này làm cảm hứng sáng tác
của mình. Chữ “Thiên thai” là một
biểu tượng để diễn tả cảnh tiên hư
ảo nhưng là một chốn rất thanh
bình, đẹp đẽ mà ai cũng mơ ước
một lần ghé chân.
Thi hào Nguyễn Du trong thi
tập Nam Trung Tạp Ngâm có bài
thơ Vọng Thiên Thai Tự nói về
núi Thiên Thai ở phía đơng thành
Huế. Bài thơ sáng tác vào thời gian
1805-1812 khi Ơng được thăng
hàm Đơng các học sĩ, làm quan ở
kinh đô 5 năm .
Vọng Thiên Thai Tự
Thiên Thai sơn tại đế thành đông
Cách nhất điều giang tự bất thông

Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung
Thi sĩ Đơng Hồ (1906-1969),
ngồi những bài thơ nhẹ nhàng,
trữ tình man mác, nguồn thơ cảm
hứng từ người yêu trong mộng, đôi
khi người thơ cũng ngây ngất giữa
mộng và thực, tỉnh và mơ. Cái tư
tưởng thốt tục với niềm mơ ước
hồi vọng đơi tình nhân son trẻ
được lên chốn thiên thai để chung
hưởng nguồn hạnh phúc vô biên,
tuổi xuân xanh muôn đời bất diệt:
Cung nguyệt lầu mây, ta với ai
Làm đôi tiên khách ở Thiên thai
Ngàn xuân thu vẫn còn xinh trẻ
Cười cợt hoa chiều, giỡn gió mai

Rồi đến bài thơ Tống biệt của
Tản Đà cũng cùng một chủ đề
đó. Thi sĩ Tản Đà, từ cảm hứng
câu chuyện Thiên thai mà sáng
tác bài Tống Biệt. Tuy nhiên cảm
hứng chung trong Tống biệt vẫn
là tâm trạng ngơ ngẩn trước sự
chia ly, là sự thất vọng, bơ vơ của

con người trước cuộc đời thực. Ở
một nơi chốn thần tiên sung sướng
nhất, con người xa quê lâu ngày
vẫn mang một hoài bão hướng
về cội nguồn, nơi quê cha đất tổ,
vẫn mong muốn một ngày trở về,
nhưng cuối cùng lại là viễn ảnh
sầu thương, chẳng ai nhận ra mình.
Tống biệt là một đoạn trích trong
vở ca kịch Thiên thai (1916-1917),
sau rút ra in vào tập Khối tình con
(1918) như một bài thơ riêng biệt
bên cạnh các bài thơ khác:
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai,
Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm

ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai…
Trong bài Tiếng sáo Thiên thai,
Thế Lữ đã tạo dựng một khung
cảnh Thiên thai thốt tục ngay giữa
cõi trần ơ trọc phù phiếm, để giải
thốt tâm hồn. Nhưng cõi Thiên
thai của ơng cũng chỉ là biểu tượng
của cái đẹp tâm linh, ảo diệu và
thanh khiết:
Trời cao, xanh ngắt. -- Ơ kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,

Lại theo giịng suối bên người

Tiên Nga.
Từ đó về sau, huyền thoại về
cõi Thiên thai trở thành cảm hứng
chung cho những sáng tác có phong
vị tiêu dao, thốt tục. Hàn Mạc Tử
là một thi sĩ phiêu du với mộng
ảo, lãng đãng trong chiêm bao của
sương khói vơ hình cũng đã dệt nên
một trời mộng ước về một thế giới
nên thơ trong tập thơ Dun kỳ
ngộ của mình, trong đó có 4 nhân
vật là: Suối, Chim, Chàng và Nàng
đối thoại với nhau. Ở đó ơng đã đề


cập đến những nơi chốn hư ảo như
Đào Nguyên, Thiên Thai… Giọng
điệu thơ có những lúc bâng khuâng
êm ái, những khi náo nức, rạo rực,
đôi khi là nỗi thiết tha khắc khoải
một cách lạ lùng.
Nắng cao ý muốn lan tràn
Ở đây vắng vẻ cây ngàn suối reo
Chim ơi hót khúc tương giao
Có người thục nữ lần vào Thiên

Thai
Thế giới thơ của Hàn Mạc Tử

là nơi hội tụ của tượng trưng, siêu
thực, huyền diệu, tâm linh, của
khát khao, ước vọng, của đau đớn,
cuồng điên và đam mê. Bài thơ Mơ
duyên của Hàn Mạc Tử là chuỗi
liên kết lãng mạn siêu hình, dẫn
dắt từ ảo mộng này đến ảo mộng
khác, chập chờn ẩn hiện những
chốn thiên tiên.
Xong rồi đôi ta qua Đào Nguyên
Em làm rượu ngọt, anh làm men
Tiên cô không đợi dun mời mọc
Say thơi gị má đỏ rần lên.
Cũng từ hai chữ “Đào nguyên”
đó mà nhiều thi nhân Việt Nam đã
đưa vào những dịng thơ trữ tình
thuần khiết, với những ngơn ngữ
biến hóa lạ lùng. Thi sĩ Bích Khê
đã vẽ nên những hình ảnh gợi cảm
hư hư thật thật, những sắc màu
lung linh diệu ảo, những thanh
âm trầm bổng hư huyền. Đó một
thế giới thơ nhập nhịa đầy tượng
trưng, bằng những xúc cảm trước
cõi vơ hình:
Hai mắt ấy chói hào quang sáng

ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng


liêng,
Hớp nhiều trăng cho niềm trinh rất

ngớp
Say nhạc hường nổi bổng giữa đào

nguyên.


(Cặp Mắt)

Nhà thơ tình Nguyên Sa qua
ngọn bút tài hoa, đã chọn một ẩn
dụ cao q, sang trọng và vơ cùng
dun dáng khi so sánh “Mỗi ngón
tay em, Anh vẫn gọi là một cửa

đào nguyên...”, dựng lên một hình
tượng thơ kỳ lạ, dạt dào mỹ cảm,
cho cảnh vật lưu luyến và đất trời
giao duyên:
Chúng mình lại đi
Trên con đường chạy dài hoa cỏ
Là những đồn phịng ngự của tình

u
Mỗi ngón tay em
Anh vẫn gọi là một cửa đào nguyên



(Có Phải Em Về Đêm Nay)

Vũ Hồng Chương trong tập
thơ Say của mình cũng từng lấy
ý tưởng về huyền thoại cõi Thiên
thai để tìm qn trong tận cùng của
cảm giác.
Trăng nhơ liềm bạc núi Thiên Thai
Ta nhớ chiều xưa Vọng mỹ đài
Cặp mắt là đây, tiền kiếp nhé
Vành cong cong vẽ nguyệt sơ khai


(Hương Rừng)

Khơng chỉ có vậy, thế giới thơ
của Bùi Giáng là bủa vây giữa
những khối sầu không dứt, cái
cay đắng ngậm ngùi của thế thái
nhân tình, của bản thể đau thương,
không phải lúc nào cũng ngông
cuồng khác lạ, mà đôi khi giọng
điệu thơ của ông rất tha thiết dịu
dàng, và khao khát trữ tình :
Buồn phố thị cũng xa bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như

hươu
Bờ cõi dựng xn xanh em cịn đó
Bến đào ngun anh khốc áo


khinh cừu


(Những nhánh mai)

Đằng sau huyền thoại về cõi
Thiên thai với mong muốn thốt
tục, tìm về một thế giới hồn mỹ
tốt đẹp, ta cịn thấy ẩn chứa đằng
sau đó cốt truyện về nhân vật đi
tìm. Bởi khi biết được Thiên thai
là một nơi chốn tốt đẹp, các chủ
thể trữ tình ln muốn tìm kiếm
cho riêng mình một thế giới như
thế để được hịa mình, được tận
hưởng những cảm xúc ngất ngây
trong dịu ảo... Có khi chỉ là sự

chạm đến bằng cảm giác, bằng
linh giác trong những phút hồn thơ
dâng ngất ngây như trong những
bài thơ mang khuynh hướng tượng
trưng của Bích Khê, Vũ Hồng
Chương hay Hàn Mặc Tử. Tuy biết
rằng đó chỉ là một biểu tượng đẹp,
kết hợp từ cảm quan và nhận thức
mơ hồ, trừu tượng, mang tính chất
ước lệ lý tưởng, nhằm diễn tả một
nơi chốn thần tiên hạnh phúc muôn

đời, một thế giới huyền thoại thần
kỳ mà chắc chắn khơng có thật trên
cõi đời thường này. Các thi nhân
thường dùng hình ảnh tươi mát ấy
đem vào những dịng thơ trữ tình
để muốn nói lên cái khát khao hạnh
phúc của tình yêu nam nữ với một
tình ý thanh cao, trong sáng. Hình
ảnh đó cuối cùng cũng chỉ là một
ảo tưởng, gợi ra những cảm xúc
nghệ thuật thanh khiết lành mạnh,
những hình ảnh tươi mát rạng rỡ,
đề cao cái đẹp của tình u trai gái
đa dạng và phong phú.
Đây khơng hẳn là một yếu tố
kỳ ảo tác giả muốn đan cài vào tác
phẩm để tạo hiệu ứng văn học, mà
là một huyền thoại có tính huyền
dịu để nói lên giấc mơ thoát tục
của con người hiện đại. Bởi trong
đời sống thực tế vốn có q nhiều
thứ khơng như ý, con người khơng
cịn cảm nhận được ý nghĩa cũng
như những niềm vui mà thế nhân
này ban đến, thậm chí muốn sống
con người luôn phải đối mặt với
vô vàn bất trắc. Rất nhiều thế hệ
thanh niên có cảm giác “sinh bất
phùng thời”, là một người lạc lõng
bơ vơ trước cõi đời. Có lẽ đó là

một trong những lý do khiến các
thi nhân muốn gửi mình vào một
thế giới khác dù chỉ là một thống.
V.H.T

VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 25


Lời mẹ dạy
Hồi ký: Nhà giáo ưu tú LÊ ĐỨC HÂN

TPhan Đình Phùng, cách nhà 20km. Sợ tơi đi

ơi được lên Hà Tĩnh học cấp III ở Trường

bộ mỗi ngày 40 cây số (cả đi và về) sẽ hại sức khỏe
không học được, mẹ thu xếp cho tôi ở trọ nhà cô Thụ
tại làng Đông Sơn, xã Đông Sơn, huyện Thạch Hà.
Nhà cô Thụ nằm giữa vùng bán sơn địa, có núi đồi,
có rừng thưa, sơng suối… Đa số dân chúng làm nơng,
trồng khoai sắn làm lương thực chính.
Cùng trọ với tơi là hai bạn tên Hào và Đình. Cuối
tuần ba chúng tơi mới về nhà, sau đó mỗi đứa mang
theo một ký gạo, hai mủng khoai hoặc sắn để góp nấu
ăn chung. Ba đứa phân chia nhiệm vụ: Hào được giao
làm thủ quỹ, chủ kho gạo. Đính nấu cơm qt nhà, dọn
dẹp vệ sinh. Cịn tơi lên trại Chiện lấy củi, cây khô,
lá khô… về chụm bếp. Lâu lâu chúng tôi lại thay đổi
công việc cho nhau để đỡ chán.
Trại Chiện là trang trại trồng chè, trồng sắn, khoai

môn, khoai sọ, v.v… Từ nhà cô Thụ đến trại Chiện
khoảng 15km, nơi ấy giáp cửa rừng. Cứ thứ 7 là tôi
nghỉ học, tôi nhận nhiệm vụ đi xa lấy củi cũng có mục
đích là vào trại Chiện mua 10 bó chè tươi, rồi gánh
thẳng về nhà mình, đi khoảng 20 giờ là đến nhà. Sáng
hôm sau chị tôi mang ra chợ bán, kiếm chút tiền lãi
mua gạo và khoai, để chiều chủ nhật tôi tay xách nách
mang địu lương thực lên nhà trọ, sáng thứ hai lại tiếp
tục đến trường.
Bạn Hịa lớp trưởng và bạn Dung bí thư đồn trong
lớp thường nhắc nhở tôi không được bỏ học ngày thứ
7. Nếu vắng mặt nhiều quá sẽ bị xếp hạnh kiểm xấu,
thậm chí khơng được lên lớp.
Một sáng, thầy Cường dạy môn Lượng giác gọi
tôi lên bảng kiểm tra, tôi không thuộc bài, bị thầy cho
điểm 1. Đến giờ Tốn tơi lại bị thầy Ân kêu lên: Điểm
2. Các thầy để ý tôi rồi!
Bọn con gái trong lớp vừa thương hại vừa trách
tơi, rì rầm bàn tán đủ chuyện: “Thằng Hân tồn bị
điểm xấu! Sắp thi học kỳ rồi, khơng biết nó có qua
nổi khơng?” - “Nó có học đâu mà có điểm tốt.” - “Tao
thấy nó rời trường là ra đồng, ra sông, đi rừng lấy củi,
đặt trúm bắt lương, thả câu…” - “Ừ, sáng sớm mình
thường thấy Hân loanh quanh ở chợ. Khi bắt được vài
26 ° VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG

con cá con lươn, hay tơm tép gì nó đều đem ra chợ
bán, sau đó mới vào lớp học.” - “Nó đến trường đến
lớp cho có, học qua loa thế thì sao mà lên lớp nổi
nhỉ?” - “Học như thế chỉ uổng! Ở nhà giúp mẹ cịn

hơn.” v.v…
Tơi nghe hết, đốn hiểu được những lời xì xào bàn
tán về mình của các bạn trong lớp. Buồn quá! Nhưng
biết làm sao bây giờ? Nhà mình ba mất sớm, anh chị
em đơng, lại q nghèo, đứa đi ở, đứa đi mót lúa mót
khoai, nhưng chỉ được phần nhỏ, phần lớn gánh nặng
trút lên vai mẹ. Chúng tôi mỗi ngày mỗi lớn, ăn uống
nhiều hơn, tiền học hành bút mực cũng nhiều hơn.
Mẹ tất bật ngược xi bn bán có khi hai ba hơm bà
khơng về nhà. Khi về thì mẹ lại quần quật chăm sóc
các con, hỏi han cho tiền đứa này mua sách vở, đứa
kia tiền ăn, tiền học phí v.v… Bao nhiêu là tiền!
Đêm khuya, mẹ thức vá từng manh áo, tấm quần,
chằm đi chằm lại quần áo cho con mặc đi học. Những
thứ đó đối với nhiều nhà thì chắc họ quăng làm giẻ
rách. Nhưng mẹ tơi vẫn cố giữ lại để vá víu, lấy quần
áo của đứa lớn cho đứa nhỏ mặc, nam nữ mặc chung
cũng được, đành vậy chứ biết làm sao!? Phải lo cái ăn
cái học trước đã rồi mới đến những thứ khác.
Đặc biệt trước mùa khai trường, mẹ tơi thức suốt
đêm để đóng tập vở cho các con chuẩn bị vào niên
học mới. Khơng đủ tiền mua tập vở mới, mẹ tồn mua
giấy bồi màu vàng ngà loại 2 loại 3… Rồi cặm cụi sắp
xếp cắt xén, khâu đóng từng cuốn tập cho các con. Có
đêm buồn ngủ quá, mẹ đâm kim cả vào ngón tay, máu
nhỏ ra thấm vào những trang giấy tập, mẹ vội vã lau
đi mà nước mắt chảy quanh…
Sáng ra, mẹ chia tập vở cho các con, có cả nhãn
vở, mẹ đã nắn nót ghi tên từng đứa con của mình trên
đó. Chúng tơi sung sướng nhận những cuốn vở do

chính tay mẹ đóng. Mẹ vừa động viên vừa an ủi:
- Nhà mình nghèo. Mẹ đã cố gắng hết sức, các con
đừng phân bì so sánh với bạn bè mà buồn tủi. Tập vở
có xấu một tí nhưng quan trọng nhất vẫn là điểm đẹp.
Các con cố học nhé?


Chúng tơi cảm động trước tấm lịng của mẹ, những
lời mẹ dạy bảo ln thấm thía, tình cảm và đầy ý
nghĩa. Tôi ghi nhớ lời mẹ, rồi nhớ lại những lời bàn
tán của bạn học, có phần chê trách dè bĩu, mà thấy hổ
thẹn, tự kiểm điểm nhìn lại mình.
Ừ, mình đã từng học giỏi, học giỏi mới được tuyển
thẳng lên cấp II chứ. Mẹ đã rất mừng và hy vọng vào
mình. Thế mà khi được lên huyện học rồi, mình lại
quá lo về miếng ăn cái mặc mà chểnh mảng sự học,
để đến nỗi này!
Chẳng qua mình thấy mẹ khổ quá, nên muốn đỡ
đần mẹ và chị phần nào. Nhưng mẹ có cần đâu, mẹ
chỉ muốn mình học giỏi. Mình mà khơng được lên lớp
chắc mẹ buồn và thất vọng lắm! Bị học lại sẽ tốn kém
và mất thời gian. Phải làm sao đây?...
Khơng được! Mình phải chấn chỉnh lại, khơng bỏ
học ngày thứ 7 nữa. À mình sẽ đến trại Chiện vào
buổi sáng chủ nhật để mua chè gánh về nhà. Cứ để
chè đấy, rồi các chị sẽ từ từ bán, coi như tiền lãi dành
mua lương thực cho tuần sau. Có thế mà mình nghĩ
khơng ra!
Nhìn những cuốn tập cuốn vở mà mẹ đã bỏ công
sức khâu đóng cho mình. Trong đó có biết bao lo lắng,

hy vọng, chứa chan tình cảm của người mẹ thương
con. Trong những tập vở đó thấm đẫm mồ hơi nước
mắt, có cả máu của mẹ nữa! Mình khơng được phụ
tấm lịng bao la trời biển ấy.
Còn bạn bè ấy à! Các bạn tốt mới lo cho mình.
Mình sẽ gắng học để theo kịp các bạn, để được lên
lớp, để thầy cô khỏi phiền. Mình học cho mình chứ ai.
Phải học để nên người hữu dụng.
Từng đêm, mẹ đã nhẩn nha thủ thỉ dạy bảo chúng
tơi:
- Gia đình mình giờ khơng cịn chút tài sản, khơng
cịn manh ruộng mảnh vườn nào, chỉ quanh quẩn sống
tạm bợ qua ngày, thì muốn thốt khỏi cảnh đói nghèo,
ngu dốt, các con chỉ cịn cách phải học, phải tạm quên
những khó khăn nhỏ nhặt mà chú trọng vào việc học
hành, để sau này mới có hy vọng tìm được việc làm
mà sống với đời.
Tơi đã suy nghĩ những lời mẹ dạy, chí tình chí lý,
quyết tâm cố gắng học giỏi trở lại. Học kỳ sau tôi lên
hạng cao, được thầy cô và bạn bè thương yêu q
mến. Người tơi gầy rộc đi vì thiếu ăn thiếu ngủ, nhưng
không sao, miễn không đổ bệnh là được - tơi nghĩ thế.
Mẹ ơi! Chính những lời mẹ dạy đã động viên nâng
đỡ và vực con đứng lên.
L.Đ.H

Phùng Hiếu

Hương bưởi đường
Hương bưởi đường ru gió

Hương bưởi đường ru đêm
Hoa bưởi đường rơi xuống
Bước chân em qua thềm
Sinh từ trong thiếu thốn
Không giận hờn quê hương
Thủy chung từ hương bưởi
Tân Uyên đất ngọt lành
Em là người con gái
Ươm bưởi đường thêm xanh
Cho bười đường sai trái
Đung đưa quả nặng cành
Ai bảo từ gian khó
Sỏi đá chẳng được chi?
Em người cho anh hiểu
Bàn tay ta diệu kỳ
Ai đã từng phiêu lãng
Khắp mọi miền Bình Dương
Trộm nghe lời hương bưởi
Dừng chân bước độc hành.
Hương bưởi đường bát ngàt
Tự thêm mình phù sa
Hương bưởi đường kiêu hãnh
Nghe hương đêm nhớ nhà.
P.H
VĂN NGHỆ BÌNH DƯƠNG ° 27


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×