TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐIỆN BIÊN
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH
*
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP CƠNG TÁC XỐ
ĐĨI, GIẢM NGHÈO Ở THỊ XÃ MƯỜNG LAY,
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Họ và tên học viên: ……
Lớp, khóa học: …..
Điện Biên, Ngày….. tháng 01 năm 2022
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐIỆN BIÊN
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH
*
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP CƠNG TÁC XỐ
ĐĨI, GIẢM NGHÈO Ở THỊ XÃ MƯỜNG LAY,
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Họ và tên:
Lớp: …..
Đơn vị công tác: ………………….
Điện Biên, Ngày….. tháng 01 năm 2022
MỤC LỤC
MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của khóa luận
B.PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận về cơng tác xóa đói, giảm nghèo
1.1. Những vấn đề chung
1.2. Quan điểm về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo
Chương 2. Thực trạng cơng tác xóa đói, giảm nghèo ở thị
xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
2.1. Khái quát về các chính sách, chỉ đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo của Đảng bộ thị xã Mường Lay
2.2. Thực trạng công tác xóa đói, giảm nghèo ở thị xã Mường
Lay, tỉnh Điện Biên
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói,
giảm nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm
nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm
nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRANG
1
1
2
3
3
3
4
4
4
6
13
13
14
24
24
25
29
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
Ký hiệu
BCH
BTV
ĐB
NXB
TW
XĐGN
Nguyên nghĩa
Ban chấp hành
Ban thường vụ
Đảng bộ
Nhà xuất bản
Trung ương
Xóa đói giảm nghèo
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính tồn cầu. Hiện nay trên thế giới có
khoảng 1,3 tỷ người sống trong cảnh đói nghèo (chiếm khoảng 18% dân số) và
kể cả nước có thu nhập cao vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo
nàn cả về vật chất và tinh thần. Trong khi đó đến cuối năm 2020 Việt Nam còn
gần 2 triệu hộ nghèo (chiếm khoảng 7% tổng số hộ dân). Đói nghèo khơng chỉ
làm cho hàng triệu người khơng có cơ hội được hưởng những thành quả văn
minh tiến bộ của lồi người mà cịn gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đói nghèo ln đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã
hội, bệnh tật phát triển, mất trật tự an ninh chính trị.
Cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam ta ln đặt
con người là vị trí trung tâm của sự phát triển, coi xóa giảm nghèo (XĐGN) là
một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Kết
quả là trong vòng 3 thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn
trong cơng tác xóa đói, giảm nghèo, được cộng đồng Quốc tế công nhận và đánh
giá cao. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam năm 1993 là 58,1% đã giảm nhanh chóng
xuống cịn 28,9% năm 2002 và cịn khoảng 7% vào năm 2018. Có được sự
thành cơng như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến cơng tác xóa
đói, giảm nghèo, coi xóa đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị
quan trọng. Nhiều chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo đã được thực hiện
kết hợp với các chính sách phát triển khác đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo,
thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và các dân tộc.
Mặc dù tỷ lệ nghèo trên cả nước đã giảm, ở một số vùng miền, địa phương tỷ lệ
hộ nghèo vẫn còn cao do điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn cũng như
cơng tác giảm nghèo được thực hiện chưa hiệu quả. Tỉnh Điện Biên, đặc biệt
huyện Mường Lay là một trường hợp như vậy.
Trong những năm qua, thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, với sự
phấn đấu, nỗ lực khơng ngừng các cấp, các ngành và Nhân dân trong huyện,
1
Mường Lay đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cơng tác giảm
nghèo đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Tỷ lệ hộ nghèo cịn cao và
tình trạng tái nghèo còn phổ biến. Vấn đề giảm nghèo đạt mục tiêu của tỉnh và
huyện đề ra là cực kỳ khó khăn. Vì vậy việc phân tích, đánh giá, đồng thời
nghiên cứu đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm giảm nghèo có hiệu quả trên địa
bàn huyện Mường Lay là nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, là người con của thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên, tác giả
chọn đề tài “Thực trạng, giải pháp công tác xố đói , giảm nghèo ở thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên” làm khóa luận tốt nghiệp khóa học Trung cấp Lý
luận Chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm phân tích thực trạng, tìm kiến những hạn
chế ngun nhân để xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xố đói, giảm
nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên..
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu đề tài nhằm phân tích thực trạng, để xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả cơng tác xố đói, giảm nghèo theo lý tưởng của Đảng, tư tưởng Hồ Chí
Mình, Chủ nghĩa Mác- Lê Nin.
- Đánh giá đúng thực trạng cơng tác xố đói, giảm nghèo của chính quyền
thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2016-2020, từ đó vận dụng những
lý luận đã được học vào thực tiễn ở cơ sở để đề ra những giải pháp cơ bản để
nâng cao hiệu quả cơng tác xố đói, giảm nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện
Biên nhiệm kỳ tới đạt kết quả cao hơn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả
cơng tác xố đói, giảm nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Về không gian: Đề tài được thực hiện tại thị xã Mường Lay, tỉnh Điện
2
Biên
-Về thời gian: Nghiên cứu thời gian từ 2016-2020, mục tiêu và phương
hướng nhiệm vụ đến năm 2025.
-Về nội dung: Chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan đến thực
trạng, giải pháp cơng tác xố đói, giảm nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh Điện
Biên..
4. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp lý luận: Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về xóa đói, giảm nghèo và cơng tác
xóa đói giảm nghèo của chính quyền địa phương.
-Phương pháp thực tiễn: Sử dụng các phương pháp thu thập xử, lý thông
tin;phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, so sánh, sử dụng số liệu và
nội dung báo cáo về về xóa đói, giảm nghèo và cơng tác xóa đói giảm nghèo của
chính quyền thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2016-2020.Đồng thời
nghiên cứu và sử dụng các văn bản của Đảng, Nhà nước và các cấp có liên quan
đến về xóa đói, giảm nghèo và cơng tác xóa đói giảm nghèo để giải quyết các
vấn đề của đề tài.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo,
khóa luận được kết cấu chia thành 3 nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cơng tác xóa đói, giảm nghèo
Chương 2: Thực trạng cơng tác cơng tác xố đói, giảm nghèo ở thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác xố đói, giảm nghèo ở thị
xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO
1.1. Những vấn đề chung
1.1.1. Khái niệm nghèo đói
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm
quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo. Chính vì vậy, thời gian qua Chính
phủ đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động xóa đói giảm nghèo cả về phương diện
lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm đói nghèo của Việt
Nam cũng được xác định là một vấn đề cần được quan tâm. Quan niệm về đói
nghèo ở Việt Nam khá phong phú. Nó được thay đổi và ngày một gần với quan
niệm đói nghèo của thế giới.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị thống nhất dùng khái niệm
nghèo đói theo nghĩa hẹp như sau:
Hộ đói là hộ cơm khơng đủ ăn, áo khơng đủ mặc, con cái thất học, ốm đau
khơng có tiền chữa trị, nhà ở rách nát (nếu theo thu nhập thì các hộ này chỉ có
thu nhập bình qn đầu người của loại hộ này quy ra gạo dưới 25 kg/tháng ở
thành thị, 20 kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du, dưới 15 kg/tháng ở
nông thôn miền núi).
Huyện nghèo là huyện có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, khơng có hoặc có
rất ít những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí theo tỉ lệ mù chữ cao.
1.1.2. Chuẩn đói nghèo
Căn cứ vào mức sống thực tế và trình độ phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), từ năm 1993 đến nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã 6 lần cơng
bố tiêu chí cụ thể để đánh giá hộ nghèo. Các tiêu chí này cũng thay đổi theo thời
gian điều tra cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập quốc gia.
Chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg
ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 như sau:
4
- Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Tóm lại, đến nay quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam đã ngày càng phản
ánh đúng bản chất của đói nghèo. Nếu như nhu cầu hỗ trợ của người nghèo vào
những năm 90 của thế kỷ 20 chỉ giới hạn đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm”, thì ngày
nay, người nghèo cịn có nhu cầu được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa...
1.1.3. Tính tất yếu khách quan phải xóa đói, giảm nghèo
Xóa đói, giảm nghèo là một mục tiêu trọng yếu, mang bản chất cách mạng
vì dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hịa bình, ấn no”,
nằm trong tổng thể mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa “Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh”. Trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6
vấn đề cấp bách, trong đó cứu đói là một nhiệm vụ hàng đầu.
Xóa đói giảm nghèo là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người
nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh
lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân
cư.
Xuất phát từ vai trị quan trọng đó, từ trước tới nay, Đảng, Nhà nước xác
định xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu, biện pháp cần tiến hành kiên trì, bền bỉ
trong một thời gian dài. Xóa đói, giảm nghèo vừa nâng cao chất lượng nguồn
lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; vừa góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội; giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa các nhóm
dân cư; vừa thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang hướng tới.
5
1.2. Quan điểm về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo
Lần tìm trong các tác phẩm trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ
tìm thấy những tư tưởng của Người về xóa đói giảm nghèo, và những tư tưởng
đó được đề cập từ rất sớm.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng Người đã ln chăm lo đến đời sống
nhân dân: hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi hễ dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân khơng
được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi. Ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, Người xem đói nghèo cũng là một thứ giặc nguy hiểm như
giặc dốt, giặc ngoại xâm, vì vậy Người đã sớm phát động cuộc vận động thi đua
ái quốc kêu gọi toàn dân bằng nhiều phương pháp cách thức khác nhau để giúp
nhân dân như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nhường cơm xẻ áo, quyên
góp gạo cứu đói...
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Người đã chủ
trương đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, ngay hồi ấy Người đã có tư tưởng về xóa đói giảm nghèo. Trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03-9-1945, Người đã nêu sáu vấn đề cấp bách
trong đó cứu đói là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Người nói: nhân
dân đang đói. Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác
của bọn Pháp, Nhật. Những người sắp chết đói nay cũng bị đói, Chính phủ ta
phải làm thế nào cho họ sống.
Người nêu ra biện pháp khắc phục: Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động
một chiến dịch tăng gia sản xuất, tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Tuần gạo
tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo.
Vậy, xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội, Người kêu gọi
toàn dân đoàn kết phát huy tinh thần nhân ái, giá trị truyền thống của dân tộc “lá
lành đùm lá rách'' để giúp đỡ nhân nhân vượt qua đói nghèo. Khi chính quyền về
6
tay nhân dân rồi phải làm sao cho nhân dân thấy được giá trị của tự do bình đẳng
thực sự đó mới là nội dung đích thực của độc lập tự do, theo Người: ''Nước nhà
đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn cịn đói nghèo cực khổ thì độc lập tự do
khơng có ích gì''.
Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo
cứu đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào
''Tuần lễ vàng''. Người đã huy động sức mạnh to lớn của toàn thể đồng bào vào
cuộc vận động đầy ý nghĩa này để cứu giúp dân nghèo và xây dựng đất nước.
Ngay buổi đầu thành lập nước và trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống
thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ''Bao giờ bọn Pháp khơng trở lại
nữa, đồng bào Kinh sẽ rảnh rang giúp đồng bào Thổ, Mán nhiều hơn. Chính phủ
sẽ giúp đồng bào Thổ, Mán như giúp các dân tộc nhỏ khác được có đủ ruộng
làm, đủ trâu bò cày''.
Người thường lưu ý rằng: việc chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc coi
như việc đánh thắng giặc nghèo khổ lạc hậu. Người chỉ dẫn phải đẩy mạnh tăng
gia sản xuất đi liền với tiết kiệm, làm nhiều tiêu ít, làm chóng tiêu chậm, tức là đủ.
Điều mới mẻ trong tư tưởng của Người về xóa đói giảm nghèo đó là, đi
kèm với tăng gia sản xuất phải thực hành tiết kiệm, có vậy mới đảm bảo chắc
chắn lâu dài cơng cuộc xố đói. Đến nay tư tưởng này vẫn còn giữ nguyên giá
trị, hiện nay chúng ta hình thành quỹ xóa đói giảm nghèo, giúp người đói nghèo
là áp dụng những trường hợp cụ thể với một bộ phận dân cư đặc biệt. Đó là
những biện pháp tình thế nhất thời mang tính nhân đạo, còn về lâu dài phải
hướng dẫn họ cách thức làm ăn, trợ giúp về vốn, kỹ thuật... để họ tự vươn lên
thoát nghèo, cho họ cần câu và hướng dẫn cách câu mới là biện pháp lâu dài bởi
chỉ có phát triển sản xuất mới có thể xóa đói giảm nghèo một cách hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao sức mạnh của dân, Người yêu cầu: đem tài
dân, sức dân mà giải phóng cho dân.
Theo Người, xóa đói giảm nghèo là: ''Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm”.
Vậy là, mọi thành viên trong xã hội không ngừng phấn đấu vươn lên vượt
7
qua cửa ải đói nghèo, Người quan niệm xã hội mà chúng ta xây dựng là ''dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh''. Nó xa lạ với đói nghèo
bần cùng, lạc hậu, là xã hội giàu về kinh tế, lành mạnh về văn hóa xã hội, quan
niệm này hàm chứa ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất, hướng đến
phát triển tồn diện con người.
Theo Người một dân tộc dốt cũng là một dân tộc yếu, giặc dốt cũng là một
trong ba thứ giặc nguy hiểm nó sẽ kìm hãm sự phát triển, Người chỉ ra rằng: ăn
no mặc ấm phải đi liền với học hành tiến bộ, xã hội phải ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng phải đi liền với tinh thần ngày càng tốt. Qua đó chúng ta thấy
rằng ý nghĩa sâu xa trong tư tưởng xố đói giảm nghèo của Người là bên cạnh
xố đói giảm nghèo về vật chất phải chú ý cả xóa đói giảm nghèo về tinh thần,
không nên phiến diện một chiều chỉ tập trung về kinh tế, mà bỏ quên văn hóa
tinh thần, lúc ấy sẽ xuất hiện nguy cơ, lực cản nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát
triển. Tư tưởng này đến nay vẫn thể hiện rõ tính thời sự của nó: Phát triển bền
vững phải bao hàm cả vật chất và tinh thần. Đó là giá trị to lớn trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa đói giảm nghèo mà chúng ta cần vận dụng
sáng tạo trong điều kiện tình hình mới, phấn đấu đạt mục tiêu chung: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về xóa đói giảm nghèo
Trong sự nghiệp đổi mới, xóa đói giảm nghèo trở thành một chủ trương
lớn, xuyên suốt của Đảng qua nhiều nhiệm kỳ, với những nội dung và giải pháp
thích hợp trong từng giai đoạn, và cho đến hiện nay. Đại hội lần thứ VI Đảng đã
đánh dấu một bước quan trọng trong đổi mới nhận thức về các vấn đề xã hội và
giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có nội dung quan trọng về đẩy mạnh xóa
đói giàm nghèo. Lần đầu tiên Đảng đã đặt giải quyết các vấn đế xã hội lên tầm
chính sách xã hội trong tương quan với chính sách phát triển kinh tế. Cương lĩnh
1991 của Đảng đã chỉ rõ: Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy
nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ cơng dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời
8
sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm
lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Các đại Hội VII, VIII, IX, X của Đảng tiếp tục đổi mới nhận thức về vấn đề
xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó xác định xóa đói giảm nghèo là
một nhiệm vụ rất quan trọng, một cấu thành hữu cơ cúa hệ thống chính sách
phát triển xã hội. Chỉ rõ hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo
những quan điểm sau: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Các chính
sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện
công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Cương lĩnh năm 2011 cùng với Nghị quyết Đại hội XI (năm 2011) tiếp tục
làm rõ hơn nhận thức, quan điểm về các vấn đề xã hội và quyết các vấn đề xã
hội, về xóa đói giửm nghèo. Trong đó nêu rõ: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”; trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội; phát triển hài hồ đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa
vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và
cộng đồng xã hội. Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc
làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa nghèo
bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các
tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách
đối với người và gia đình có cơng với nước. Chăm lo đời sống những người cao
tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi…Đại hội XII của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh: phải đẩy mạnh cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân,
thực hiện có hiệu quả xóa đói giảm nghèo, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và
có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
9
số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo
phấn đấu tự vươn lên thốt nghèo bền vững. Khuyến khích nâng cao khả năng tự
đảm bảo an sinh xã hội của người dân. Tiếp tục hồn thiện chính sách, khuyến
khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Thực
hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, đảm bảo mức sống tối
thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế,
nhà ở, nước sạch, thông tin… Đồng thời, từ đại hội XI, XII, Đảng đã đề ra chủ
trương phát triển nhanh - bền vững, trong đó vấn đề xóa đói giảm nghèo được
đặt ở tầm cao hơn - xóa đói giảm nghèo bền vững trong tổng thể mục tiêu phát
triển bền vững Quốc gia (mục tiêu Thiên niên kỷ) theo đề xuất của Liên Hợp
Quốc.
Với những nhận thức và quan điểm chỉ đạo như trên, Đảng đã lãnh đạo Nhà
nước cụ thể hóa và thể chế hóa thành hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách,
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo phù hợp
trong từng giai đoạn.
Chương trình Quốc gia xố đói, giảm nghèo và các chương trình xóa đói
giảm nghèo thành phần được tập trung vào giải quyết 4 nhiệm vụ trọng tâm: Một
là, hỗ trợ phát triển sản xuất thơng qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín
dụng ưu đãi, khuyến nơng - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; xây dựng quy
hoạch sản xuất, đời sống ở các vùng dân cư, bảo đảm cho đồng bào ổn định có đủ
điều kiện sản xuất, cơ sở hạ tầng, định canh, định cư ổn định lâu dài, nhân rộng
các mơ hình giảm nghèo có hiệu quả, bền vững; hai là, giúp người nghèo tăng khả
năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở,
nước sinh hoạt…, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, bảo đảm các
yêu cầu cấp thiết về ăn, mặc, ở, chữa bệnh, học hành; ba là, xây dựng kết cấu hạ
tầng thiết yếu, trước hết là mở mang đường giao thông, thủy lợi, điện, trường học,
trạm y tế, thông tin liên lạc, truyền thông, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội phát triển,
cải thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng đời sống nhân dân; bốn là,
từng bước xây dựng các trung tâm cụm xã thành các tụ điểm kinh tế - văn hóa xã hội, từ đó đưa ánh sáng văn minh đến các thôn, bản; nâng cao năng lực giảm
10
nghèo, kích thích nền kinh tế phát triển làm nền tảng cho xóa đói, giảm nghèo bền
vững.
Trên cơ sở những thành quả đạt được trong cơng tác xóa đói, giảm nghèo,
nhất là xóa đói và giảm nghèo cùng cực trong giai đoạn 1986 - 2011, vấn đề
xóa đói giảm nghèo được nâng lên tầm cao hơn - hướng tới giảm nghèo bền
vững, do đó Quốc hội Việt Nam đã thơng qua Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2012 - 2015. Cùng với đó, Quốc hội cịn
thơng qua 15 Chương trình mục tiêu quốc gia khác đều có những nội dung liên
quan và hỗ trợ cho cơng tác giảm nghèo bền vững. Trong đó “Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng thơn mới” giai đoạn 2010 -2020, với mục
tiêu “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nơng
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; mơi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện, Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia cấp trung ương do một Phó Thủ tướng
Chính phủ làm Trưởng ban; ở địa phương Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia ở địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban[10].
Thủ tướng Chính phủ ban hành chức năng, nhiện vụ, quyền hạn, quy chế hoạt
động của Ban chỉ đạo.
Chương trình, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo được đưa vào nghị quyết của
đại hội đảng các cấp từ Trung ương xuống cơ sở; coi đây là một nhiệm vụ lãnh
đạo trọng yếu của các cấp ủy đảng. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,
Chính phủ và Ủy ban nhân các cấp có trách nhiệm cụ thể hóa, thể chế hóa các
mục tiêu xóa đói giảm nghèo thành các cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp
với điều kiện của từng vùng và từng đối tượng, để chỉ đạo tổ chức thực hiện; ban
11
hành cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện. Trong q trình thực
hiện cơng cuộc xáo đói giảm nghèo, đã có những thay đổi quan trọng trong thể
chế lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, chuyển từ phương thức chỉ đạo tập
trung cao và “cứng” mọi mặt từ Trung ương xuống cơ sở, sang phương thức
phân công, phân cấp rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của từng cấp; phát huy
cao tính chủ động sáng tạo của các cấp địa phương, cơ sở. Đặc biệt, đã coi trọng
và phát huy cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội các
cấp, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư ở cơ sở hình
thành các phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, khơng để ai bị bỏ lại
phía sau”, huy động các nguồn lực, tham gia thực hiện và giám sát, kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện các chính sách, chương trình dự án. Xác định rõ cơ chế
tự chủ - tự quản, thực hiện dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết - Dân bàn
- Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra, giám sát - Dân thụ hưởng” dưới sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là một bước tiến sáng tạo theo đúng theo
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dễ vạn lần khơng Dân cũng chịu, khó vạn
lần Dân liệu cũng xong”, “đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân”.
Trong gần 35 năm qua, với đường lối, chủ trương, chính sách và các giải
pháp đúng đắn, phù hợp, sự lãnh đạo - chỉ đạo thường xuyên của Đảng và nhà
nước, sự đồng tâm, đồng sức của cả xã hội và nhân dân, kết hợp các nguồn lực
ngày càng tăng của của Nhà nước với các nguồn lực xã hội, cơng tác xóa đói
giảm giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào,
được thế giới ghi nhận và ca ngợi như một điển hình sáng
Như vậy, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng tồn diện và đưa ra những chủ
trương, biện pháp thiết thực để xố đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu
nghèo trên cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng gắn
liền với phát triển văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối tượng yếu
thế; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có
những chính sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết
12
vấn đề xố đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu nghèo mang tầm quốc gia
được quốc tế ủng hộ và đánh giá cao. Thơng qua các chương trình xố đói giảm
nghèo, hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu người thốt khỏi đói nghèo, vươn
lên làm giàu; góp phần hạn chế phân hố giàu nghèo, thực hiện cơng bằng, bình
đẳng và tiến bộ xã hội.
Chương 2
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở
THỊ XÃ MƯỜNG LAY, TỈNH ĐIỆN BIÊN
2.1. Khái quát về các chính sách, chỉ đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo
của Đảng bộ thị xã Mường Lay
Thực hiện Nghị quyết số 32/NQ-HĐND ngày 14-10-2016 của HĐND tỉnh
Điện Biên về việc phê duyệt Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn
2016-2020; Quyết định số 1440/QĐ-UBND ngày 15-11-2016 của UBND tỉnh
Điện Biên về việc phê duyệt Chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Điện
Biên, giai đoạn 2016-2020. UBND thị xã Mường Lay tiếp tục chỉ đạo thực
hiện đồng bộ các giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo, ban hành các văn bản triển khai thực hiện như: Công văn số 63/UBNDLĐTBXH ngày 24-01-2017 về việc triển khai chính sách giảm nghèo và an
sinh xã hội theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch
số 272/KH-UBND ngày 16-3-2017 về triển khai thực hiện Chương trình giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn thị xã Mường Lay; Công văn
số 477/UBND-LĐTBXH ngày 18-4-2017 về việc triển khai thực hiện Quyết
định số 238/QĐ-UBND ngày 31-3-2017 của UBND tỉnh Điện Biên về việc quy
định tạm thời về cơ chế tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất, đa dạng
hóa sinh kế và nhân rộng mơ hình giảm nghèo thuộc chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Điện Biên giai đoạn 2017-2020; Công văn
số 1427/UBND-LĐTBXH ngày 26-9-2017 về việc rà sốt, tích hợp chính sách
giảm nghèo giai đoạn 2017-2018; Kế hoạch số 254/KH-UBND ngày 27-022018 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm
13
2018 và giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn thị xã Mường Lay; Kế hoạch số
387/KH-UBND ngày 11-3-2019 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững năm 2019..
2.2. Thực trạng cơng tác xóa đói, giảm nghèo ở thị xã Mường Lay, tỉnh
Điện Biên
2.2.1. Những kết quả đạt được
2.2.1.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
Ban Chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo thị xã Mường Lay được thành lập tại
Quyết định số 109/QĐ-UBND ngày 30/5/2014 của UBND thị xã Mường Lay và
được kiện toàn tại Quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 02/4/2017. Ban Chỉ đạo
có trách nhiệm chỉ đạo, triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xóa
đói, giảm nghèo và Đề án xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn
thị xã.
Ban chỉ đạo gồm có 18 thành viên, trong đó, Trưởng ban là Phó Chủ tịch
UBND thị xã, 2 Phó ban là Cán bộ Phịng Lao động - Thương binh và Xã hội Phó ban thường trực; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thị xã - Phó ban, cịn
các ủy viên là các cán bộ chun mơn của thị xã như: Cán bộ văn phòng thống
kê; Cán bộ kế tốn ngân sách; Cán bộ Văn hố thơng tin; Trưởng trạm y tế; Chủ
tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nơng dân; Bí thư Đồn Thanh niên;
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ và tổ trưởng 6 Tổ dân
phố. Các thành viên Ban chỉ đạo đã có sự phối hợp, đưa ra nhiều giải pháp thiết
thực, hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện..
Để tổ chức triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, thị xã
Mường Lay đã chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của cấp mình. Các kế hoạch hành động cụ thể
được thể hiện dựa trên 160 văn bản, trong đó có 14 Nghị định của Chính phủ; 40
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 27 văn bản phê duyệt các đề án, giải pháp;
26 văn bản liên tịch giữa các Bộ. Ngoài ra trên cơ sở tình hình thực tế, thị xã
Mường Lay đã chủ động xây dựng và ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện các
chính sách xóa đói, giảm nghèo ở địa phương mình.
14
Đảng bộ chính quyền và nhân dân thị xã Mường Lay đã thực hiện đồng bộ
và tổng hợp nhiều nguồn lực, nhiều giải pháp đầu tư cho cơng tác xóa đói, giảm
nghèo. Tập trung chỉ đạo cơng tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn trên cơ sở
tận dụng tối đa nguồn lực từ các Chương trình hỗ trợ, lồng ghép các nguồn vốn
khác để từng bước khắc phục những khó khăn, nâng cao năng lực quản lý và tổ
chức sản xuất, phát triển hệ thống giáo dục, dạy nghề, nâng cao dân trí (giáo
dục, dạy nghề, nâng cao mặt bằng dân trí; tăng cường dạy nghề gắn với tạo việc
làm; đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở; đào tạo cán bộ tại
chỗ...). Đặc biệt là hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm tăng thu nhập.
Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo
cịn được gửi đến các tổ chức chính trị - xã hội để phối hợp thực hiện. Các tổ
chức đoàn thể xã hội sau khi nhận được kế hoạch cũng phải căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ và những điều kiện hiện có của cơ quan, đơn vị mình để xây
dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cho phù hợp với cơ quan, tổ chức mình. Các
văn bản, kế hoạch hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách xóa đói, giảm
nghèo đã được các cấp chính quyền địa phương quan tâm xây dựng để đưa giải
pháp vào đời sống thực tiễn. Tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
giải pháp về xóa đói, giảm nghèo bền vững và các kế hoạch tổ chức triển khai
thực hiện, nhìn chung là kịp thời, bám sát với mục tiêu và nội dung của giải
pháp. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn có hiện tượng vì chạy theo thành tích nên
đã ban hành những văn bản và kế hoạch tổ chức thực hiện chưa phù hợp với
những điều kiện về nguồn lực của địa phương. Mặt khác, trong q trình quản lý
điều hành cịn lỏng lẻo nên đã dẫn đến tình trạng thất thốt và lãng phí các
nguồn lực của nhà nước và khơng thu hút được nguồn lực tại chỗ cho xóa đói,
giảm nghèo.
2.2.1.2. Kết quả thực hiện giai đoạn 2016-2020
Kết quả rà soát, tích hợp, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ chính sách:
Sau khi triển khai rà sốt, tích hợp chính sách giảm nghèo giai đoạn 20162020, UBND thị xã đã đề nghị UBND tỉnh kiến nghị với Chính phủ, các Bộ
15
ngành liên quan tích hợp chính sách giai đoạn 2016-2020: Tích hợp chính sách
hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non (tích hợp Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg
ngày 26-10-2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số chính sách phát
triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày
09-02-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010-2015).
Chính sách hỗ trợ giáo dục và đào tạo:
- Thực hiện tốt chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ
ăn trưa cho trẻ mầm non, hỗ trợ gạo cho học sinh ở xã, bản đặc biệt khó khăn
với tổng kinh phí 4.040.061.896 đồng và 25.010 kg gạo cho 4.766 lượt học sinh
theo chính sách hiện hành, giúp các em có điều kiện tốt hơn để yên tâm học tập,
hạn chế thấp nhất trường hợp con em hộ nghèo trong độ tuổi phải bỏ học hoặc
nghỉ học vì lý do mưu sinh của gia đình.
- Chính sách hỗ trợ ăn trưa cho 1.402 lượt trẻ 3-5 tuổi theo Quyết định số
239/2010/QĐ-TTg;
Quyết
định
số
60/2011/QĐ-TTg;
Nghị
định
số
06/2018/NĐ-CP ngày 05-01-2018 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ ăn
trưa đối với trẻ em mẫu giáo và chính sách đối với giáo viên mầm non, với số
tiền 1.267.445.796 đồng.
- Thực hiện miễn, giảm học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày
02-10-2015 của Chính phủ về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm 2020-2021 cho 1.047 lượt học sinh,
với số tiền 235.648.000 đồng.
- Hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP cho 2.033 lượt
học sinh, với số tiền 1.583.130.100 đồng.
- Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thơng ở xã, bản đặc biệt khó
khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18-7-2016 của Chính phủ quy
định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thơng ở xã, thơn đặc biệt khó
khăn cho 278 học sinh, với số tiền 933.342.000 đồng và 25.010 kg gạo.
- Chế độ hỗ trợ học sinh khuyết tật theo Thông tư số 42/2013/TTLT-BGD
16
ĐT-BLĐTBXH- BTC ngày 31-12-2013 quy định chính sách về giáo dục đối với
người khuyết tật cho 06 lượt học sinh, số tiền 20.496.000 đồng.
Chính sách hỗ trợ về y tế:
Giai đoạn 2016-2020, thị xã đã tổ chức triển khai kịp thời chính sách đóng,
hỗ trợ đóng thẻ BHYT cho 22.593 lượt đối tượng (trong đó: Hộ nghèo 3.466
lượt, hộ cận nghèo 235 lượt, dân tộc thiểu số 18.892 lượt). Đảm bảo 100% đối
tượng thuộc diện được thụ hưởng được cấp thẻ BHYT miễn phí. Cơng tác khám,
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân được tổ chức thực hiện
tốt; hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh được hoàn thiện, Trung tâm y tế, các Trạm
Y tế xã, phường được đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới; đội ngũ y, bác sỹ, nhân
viên y tế tăng về số lượng và chất lượng chuyên môn; tổ chức khám, chữa bệnh
cho trên 45.254 lượt người, tổng kinh phí 28.203.664.491 đồng.
Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo:
Giai đoạn 2016-2020, giải quyết cho 2.585 lượt hộ vay vốn, tổng doanh số
cho vay 107.487 triệu đồng (139 hộ nghèo với số tiền cho vay 5.258 triệu đồng
201 hộ cận nghèo với số tiền cho vay 10.340 triệu đồng; 06 học sinh, sinh viên
với kinh phí 98 triệu đồng; cho vay giải quyết việc làm 527 hộ với số vốn
27.641 triệu đồng; cho vay 748 hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại vùng khó
khăn, số vốn 33.359 triệu đồng).
Nhìn chung các các hộ vay vốn đều sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát
huy hiệu quả.
Chính sách hỗ trợ tiền điện:
Giai đoạn 2016-2020, thị xã đã hỗ trợ tiền điện cho 1.266 hộ, kinh phí hỗ
trợ 711.664.000 đồng.
1.6. Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
- Giai đoạn 2011-2020, thị xã triển khai 16 mơ hình phát triển sản xuất,
tổng kinh phí triển khai 1.748.117.234 đồng, trong đó:
+ 15 mơ hình phát triển trồng trọt, kinh phí hỗ trợ: 1.736.117.234 đồng.
+ 01 mơ hình máy cấy Văn Lang, kinh phí thực hiện: 12.000.000 đồng
- Triển khai Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Vịt an toàn sinh
học giai đoạn 2019-2021: Quy mô 3.960 con, 90 hộ tham gia, với tổng kinh phí
17
hỗ trợ 134.700.000 đồng.
- Từ năm 2016 đến năm 2019 thực hiện hỗ trợ giống lúa cho 817 hộ, kinh
phí 173.214.544 đồng.
Ngoài ra, thị xã đã tiến hành mở các lớp tập huấn kỹ thuật và tập huấn mơ
hình về chăn ni, trồng trọt... (bình qn 10 lớp/năm cho 300 lượt người tham
gia/năm tập huấn về kỹ thuật phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng vật ni, tổng
kinh phí thực hiện là 14.450.000 đồng. Thông qua các buổi tập huấn và các mơ
hình giúp bà con nơng dân nắm bắt được các biện pháp kỹ thuật chăn nuôi, trồng
trọt, chăm sóc và bảo vệ giống cây trồng có giá trị vào sản xuất, góp phần tăng
thu nhập, xóa đói giảm nghèo…
Chính sách trợ giúp pháp lý:
- Giai đoạn 2016-2020, đã tổ chức 07 lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật trợ giúp pháp lý cho 600 lượt người tham gia với nội dung tuyên
truyền phổ biến văn bản luật Tố tụng hành chính, Luật Phổ biến giáo dục pháp
luật, Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Lao động sửa đổi... cấp phát hơn 400
bộ tài liệu.
- Kết hợp trợ giúp pháp lý lưu động với phổ biến pháp luật chuyên đề. Duy
trì sinh hoạt thường xuyên 01 Câu lạc bộ Phụ nữ với pháp luật gồm 40 thành
viên và 02 Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý gồm 90 thành viên.
- Tổ chức 288 lượt phát thanh truyền thông về trợ giúp pháp lý tại 04 bản
vùng cao trên địa bàn thị xã.
1.8. Chính sách hỗ trợ về nhà ở
- Giai đoạn 2016-2020, thị xã đã huy động các nguồn lực để hỗ trợ làm nhà
mới, sửa chữa nhà ở cho 88 hộ người có cơng, hộ nghèo, kinh phí:
2.270.000.000 đồng. Trong đó:
+ Người có cơng: 61 hộ, kinh phí 1.710.000.000 đồng,
+ Hộ nghèo: 27 hộ, kinh phí 560.000.000 đồng.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ theo Quyết định số 1179/QĐ-UBND ngày
14-7-2009 của UBND tỉnh Điện Biên về việc phê duyệt dự án định canh, định
cư tập trung điểm Hua Huổi Luông A xã Lay Nưa giai đoạn 2008-2010: 07 hộ,
kinh phí 119.000.000 đồng. Trong đó:
18
+ Hỗ trợ làm nhà: 105.000.000 đồng;
+ Hỗ trợ di chuyển: 14.000.000 đồng.
1.9. Chính sách hỗ trợ về lao động - việc làm
- Dự án vay vốn giải quyết việc làm:
Giai đoạn 2016-2020, đã phân bổ vốn vay từ nguồn Quỹ quốc gia hỗ trợ
việc làm: 27.641 triệu đồng; duy trì và tạo việc làm mới cho 527 lao động.
Nhìn chung các Chương trình tín dụng ưu đãi đã góp phần hỗ trợ các hộ
nghèo, hộ dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập. Các hộ vay vốn đều sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát huy hiệu quả.
- Đào tạo nghề: Tuyển mới, dạy nghề 1.736 lao động, cơ bản số lao động
được dạy nghề khi học xong đều được hỗ trợ vay vốn có việc làm ổn định, góp
phần nâng cao đời sống, ổn định quốc phịng an ninh. Kinh phí thực hiện đào tạo
nghề cho lao động nông thôn là 843.433.691 đồng.
Kết quả đào tạo đã góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn thị từ
41% (năm 2016) lên 48% (năm 2019).
Như vậy, có thể thấy cơng tác xóa đói, giảm nghèo ở thị xã Mường Lay,
tỉnh Điện Biên đã đạt được những ưu điểm như sau:
Thứ nhất, nhìn chung chương trình MTQG xóa đói, giảm nghèo về lĩnh vực
dạy nghề, tạo việc là và xuất khẩu lao động trong đó chương trình cho vay vốn
xuất khẩu lao động đã phát huy được hiệu quả, tạo điều kiện cho các đối tượng
là hộ nghèo, hộ chính sách cho con, em đi xuất khẩu lao động có thu nhập ổn
định và gửi tiền về cho gia đình để trả nợ, trả lãi đầy đủ, ngoài ra đầu tư vào sản
xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với số hộ nghèo được đào tạo nghề và tạo việc làm
đã biết phát huy áp dụng khoa học kỹ thuật vào lao động sản xuất của gia đình
và địa phương, đồng thời với số vốn vay hàng năm đã góp phần cải thiện đời
sống, đã thực sự chuyển biến nhận thức, tìm ra phương thức làm ăn có hiệu quả,
đã tác động tích cực đến đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng nghèo, vùng khó
khăn, từ cuộc sống tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hố, góp phần ổn định xã
hội, phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống của người dân, giảm dần
khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, xóa đói, giảm nghèo bền vững.
19
Thứ hai, Các chương trình giảm nghèo đã được triển khai một cách đồng
bộ với nhiều giải pháp hiệu quả, nhất là các chính sách liên quan trực tiếp đến
đầu tư cơ sở hạ tầng, vay vốn phát triển sản xuất, dạy nghề cho lao động nông
thôn, hỗ trợ các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sinh hoạt, ... từng
bước cải thiện đời sống cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, Hàng năm, UBND thị xã căn cứ chức năng, nhiệm vụ của các đơn
vị, chủ động phân bổ nguồn vốn cho công tác giảm nghèo phù hợp với từng địa
bàn và chức năng của các phòng, ban đơn vị thực hiện. Lồng ghép các nguồn
vốn chương trình phát triển kinh tế - xã hội chung của thị xã với các nguồn vốn,
chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo để tổ chức thực hiện có hiệu quả, đúng
mục tiêu đối với các dự án, chương trình được phê duyệt.
Kết quả của từng chính sách thể hiện kết quả thực hiện giải pháp và tính
hiệu quả trong các chính sách xóa đói, giảm nghèo của chính quyền địa phương.
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả trên, hoạt động xóa đói, giảm nghèo ở thị xã
Mường Lay vẫn cịn có một số tồn tại, hạn chế cần phải được khắc phục trong
thời gian tới như:
Thứ nhất, kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu
nghèo chưa được thu hẹp. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh nhưng nhiều nơi tỷ
lệ nghèo vẫn còn trên 20%; Tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao. Mặc dù mục
tiêu, giải pháp, kế hoạch đã có, các chính sách hỗ trợ triển khai kịp thời nhưng
địa phương vẫn còn lúng túng trong triển khai thực hiện. Kết quả thực hiện xóa
đói, giảm nghèo cịn hạn chế so với thực tiễn của tỉnh, cơng tác xóa đói, giảm
nghèo cho người dân vẫn cịn nhiều khó khăn, nan giải.
Thứ hai, chưa khai thác, huy động được nhiều nguồn lực tại chỗ, chưa phát
huy được nội lực trong dân và chính người nghèo; quan điểm trông chờ, ỷ lại
vào nguồn vốn ngân sách vẫn còn tồn tại ở địa phương và người nghèo.
Thứ ba, việc phân cấp bố trí kế hoạch cụ thể nguồn lực cho mục tiêu xóa
đói, giảm nghèo là hồn toàn phù hợp, tuy nhiên hiện nay lại thiếu chế tài về cơ
chế quản lý, giám sát việc bố trí, sử dụng vốn cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo,
20