TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐIỆN BIÊN
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH
*
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ MƯỜNG LAY, TỈNH ĐIỆN BIÊN.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Họ và tên học viên: ……
Lớp, khóa học: …..
Điện Biên, Ngày….. tháng 01 năm 2022
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐIỆN BIÊN
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH
*
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ MƯỜNG LAY, TỈNH ĐIỆN BIÊN.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Họ và tên:
Lớp: …..
Đơn vị công tác: ………………….
Điện Biên, Ngày….. tháng 01 năm 2022
MỤC LỤC
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của khóa luận
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận về công tác dân vận
1.1. Khái niệm công tác dân vận
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác dân vận
1.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận
Chương 2. Thực trạng công tác dân vận của đảng bộ thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên
2.1. Tổng quan về thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
2.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay,
tỉnh Điện Biên
2.3. Đánh giá thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ
thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng
bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ký hiệu
BCH
BTV
XHCN
CNCS
CNTB
4
4
5
9
16
16
16
24
26
26
27
30
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
TRANG
1
1
2
3
3
3
Nguyên nghĩa
Ban chấp hành
Ban thường vụ
Xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa tư bản
6
7
8
9
HĐND
UBND
MTTQ
QCDC
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Mặt trận Tổ quốc
Quy chế dân chủ
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân vận và cơng tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”. Vì vậy, thực hiện tốt
cơng tác dân vận là giải pháp cơ bản để xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan,
đơn vị, địa phương và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Vận dụng những quan điểm, tư tưởng đó, những năm qua dưới sự lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện
Biên luôn được coi trọng và đạt được những kết quả tích cực. Các chủ trương,
nghị quyết của Đảng về công tác dân vận được quán triệt, phổ biến sâu rộng tới
các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và được cụ thể hóa thành các chương trình,
kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện của địa phương và từng
đơn vị, như: Việc thực hành quy chế dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng ngày
càng được mở rộng, mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân được
thắt chặt .đặc biệt, trong tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện
chương trình xây dựng Nơng thơn mới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn
xã hội, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng, chính quyền, động
viên và huy động được sức lực, trí tuệ của Nhân dân, xây dựng cơ chế để nhân
dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn của cấp ủy các cấp; tham gia giám
sát Đảng, tham gia các công việc của Đảng; bảo đảm việc kiểm tra, giám sát của
tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân.
Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước thông qua pháp luật,
giám sát của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và Nhân dân; phát huy vai trò giám sát
của dư luận xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Duy trì và
nâng cao hiệu quả các hoạt động gặp gỡ, đối thoại giữa lãnh đạo thị xã với đoàn
viên, hội viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của thị xã đã nghỉ hưu, doanh nghiệp và
Nhân dân để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và lắng nghe ý kiến góp ý trong xây
dựng, phát triển thị xã Mường Lay.
1
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân vận hiện nay của
Đảng bộ thị xã Mường Lay, vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: Nhận
thức của một số cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức,
viên chức về cơng tác dân vận nói chung và cơng tác dân vận của cơ quan nhà
nước nói riêng chưa đầy đủ; ý thức, trách nhiệm, tác phong, lề lối làm việc của
một bộ phận cán bộ, cơng chức, viên chức cịn chưa cao, nặng về mệnh lệnh
hành chính, chưa coi trọng việc vận động, thuyết phục. Việc tổ chức quán triệt
các quan điểm của Đảng về công tác dân vận ở một số cơ quan, đơn vị có lúc
cịn chưa kịp thời.
Chính vì vậy, là người con của Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên,
tác giả chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên. Thực trạng và giải pháp” làm khóa luận tốt nghiệp
khóa học Trung cấp Lý luận Chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm phân tích thực trạng cơng tác dân vận
của Đảng bộ thị xã. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
Đảng bộ thị xã trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa các quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về dân vận và cơng tác dân vận hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ thị xã
Mường Lay trong nhiệm kỳ 2016-2021. Trên cơ sở đó những hạn chế và nguyên
nhân hạn chế, đề ra những giải pháp cơ bản để tăng cường và nâng cao hiệu quả
công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay, trong những năm tới đạt kết
quả cao hơn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác dân vận của Đảng bộ thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên
2
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài được thực hiện tại Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh
Điện Biên
- Về thời gian: Nghiên cứu thời gian từ 2016-2021, mục tiêu và phương
hướng nhiệm vụ 2022-2025.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lý luận: Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về dân vận và công tác dân vận
của Đảng bộ.
- Phương pháp thực tiễn: Sử dụng các phương pháp thu thập xử, lý thông
tin; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, so sánh, sử dụng số liệu về
công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ
2016-2021.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung khóa luận được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác dân vận
Chương 2: Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay,
tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2016-2021.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng bộ thị
xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên giai đoạn 2022 - 2025.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
1.1. Khái niệm công tác dân vận
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh có giải thích rằng: « Dân vận là hoạt động
thông qua hành động hoặc lời nói, chữ viết để vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào. » Từ việc vận động đó để
đóng góp sức dân thành lực lượng nhân dân và từ lực lượng nhân dân thành lực
lượng toàn dân, để cùng nhau tiếp sức, thực hành những công việc nên làm,
những công việc Chính phủ và đồn thể đã giao cho.
Từ giải thích của chủ tịch Hồ Chí Minh về khái niệm dân vận, chúng ta có
thể đưa ra câu trả lời về cơng tác dân vận là : Việc chính quyền, đồn thể những
người có chức trách, nhiệm vụ được nhà nước tin tưởng giao phó thực hiện các
nhiệm vụ về: khi dân có vấn đề chưa hiểu phải tìm mọi cách giải thích để dân
hiểu rõ, nắm được thơng tin và bản chất của vấn đề. Trước những vấn đề phải
có sự bàn bạc, lắng nghe, trao đổi hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân; khi thi
hành công việc, nhiệm vụ phải theo dõi, giúp đỡ, khuyến khích; khi thực hiện,
thi hành xong cùng dân rút kinh nghiệm, đưa ra bài học để những lần sau cố
gắng hoàn thành tốt hơn nữa.
Ngày nay cơng tác dân vận có nhiều sự thay đổi hơn so với trước kia. Nếu
trước kia dân vận nhiều khi là phải đến trực tiếp tại nhà để tuyên truyền, để giải
thích cho từng hộ dân hiểu thì nay cơng tác dân vận trở nên đơn giản mà mang
lại hiệu quả cao. Thông qua sự phát triển của công cụ thông tin, truyền thông mạnh
qua báo đài, ti vi, truyền thanh, mạng internet… thì thực sự việc truyền tải thơng
tin, chính sách, tun truyền, giáo dục của Đảng và nhà nước đến với nhân dân rất
nhanh chóng.
4
Nhưng khơng phải vì thế mà ta qn đi tính chất của công tác dân vận về
sự sâu sát, lắng nghe, bàn bạc, trao đổi cùng với người dân. Tùy theo mỗi đối
tượng, tầng lớp mà từ đó Đảng, nhà nước sẽ có những biện pháp, cách thức khác
nhau để phù hợp với nội dung truyền tải.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác dân vận
V.I. Lênin là lãnh tụ thiên tài, vĩ đại của cách mạng Nga và của phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế. Người đã để lại di sản khoa học và cách mạng to
lớn có giá trị lý luận, cũng như thực tiễn đối với nhân loại trong thế giới ngày
nay, đó là: Nhà nước và cách mạng, xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN, xây
dựng Đảng kiểu mới… Trong đó, Lê-nin đặc biệt coi trọng cơng tác quần chúng
Nhân dân trong quá trình tập hợp lực lượng tiến hành cách mạng XHCN. Những
luận điểm, nguyên lý về công tác vận động quần chúng Nhân dân của Lê-nin
vẫn cịn ngun giá trị và có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc đổi mới, phát triển
đất nước ta, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước tiến lên CNXH, thể hiện sâu sắc ở các nội dung sau:
Một là, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa và cách mạng vô sản, Lê-nin đã khẳng định rằng: “CNXH sinh động
và sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng Nhân dân”. Quần chúng Nhân
dân không chỉ là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội,
mà còn là một lực lượng cách mạng to lớn.
Hai là, trong công tác vận động quần chúng Nhân dân, Lê-nin quan tâm
đến lợi ích thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng, phát triển kinh
tế. Người viết: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng một xu, chừng
nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của
chính mình ngay những người lao động đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế”,
“Chúng ta nói rằng phải xây dựng ngành kinh tế quốc dân quan trọng trên cơ
sở sự quan tâm thiết thân của cá nhân. Sự quan tâm thiết thân của cá nhân có
tác dụng nâng cao sản xuất”.
Lê-nin cịn chỉ rõ: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải
5
bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua CNTB. Nhà nước, tiến lên
CNXH không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt tình
do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng
sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch tốn kinh
tế. Nếu khơng, các đồng chí sẽ khơng tiến lên CNCS được; nếu khơng, các đồng
chí sẽ khơng dẫn được hàng chục và hàng chục triệu người đến CNCS”
Để có phong trào quần chúng, động viên được tính tích cực chính trị, xã hội
và sáng tạo của quần chúng Nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đòi hỏi các cấp, các ngành, Mặt trận, các đoàn thể từ trung ương
đến cơ sở phải nắm chắc yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân, đặc
biệt về những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời giải quyết về chính sách, cơ chế
quản lý và có các biện pháp cụ thể nhằm chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng,
thiết thân của quần chúng Nhân dân, nhất là đối với người lao động.
Ba là, để cách mạng XHCN giành được thắng lợi, Lê-nin đặc biệt quan tâm
đến tổ chức và tập hợp quần chúng cách mạng, Người nhấn mạnh: “Tổ chức, tổ
chức và tổ chức! Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, chúng
tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên”. Vì thế Lê-nin đặc biệt chú ý việc giai cấp cơng
nhân phải tổ chức ra Cơng đồn: “Cơng đồn là trợ thủ của Đảng”, “là trường
học CNCS, là trường học dự bị cho vô sản học tập áp dụng chun chính vơ
sản, là sự tập hợp tất yếu của cơng nhân để làm cho việc quản lý tồn bộ nền
kinh tế trong nước tuần tự chuyển trước hết sang tay giai cấp công nhân (chứ
không phải sang ngành nghề cá biệt nào) rồi sang tay toàn thể những người lao
động”.
Lê-nin cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tổ chức ra các đoàn thể của thanh
niên, phụ nữ… để quy tụ sức mạnh của quần chúng theo lứa tuổi, giới tính; đặc
biệt quan tâm đến việc giáo dục lý tưởng CSCN cho thế hệ trẻ. Lê-nin cho rằng,
những công việc tổ chức như thế là của Đảng. Đảng “phải biết cách làm công
tác tuyên truyền, tổ chức, cổ động sao cho dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu nhất, rõ ràng
nhất và sinh động nhất, cả đối với các “phố”, thợ thuyền, nhà máy lẫn đối với
các vùng nông thôn”.
6
Bốn là, Lê-nin cũng chỉ ra rằng, sự liên hệ chặt chẽ với quần chúng Nhân
dân là điều kiện quan trọng nhất, căn bản nhất cho hoạt động của đảng cộng sản.
Lê-nin căn dặn: “Chúng ta khơng chấp chính bằng cách chia rẽ, mà bằng cách
tạo ra giữa tất cả mọi người lao động những mối liên hệ keo sơn về những
quyền lợi thiết thân và ý thức giai cấp”. Lê-nin coi trọng phương pháp thuyết
phục, giáo dục, nêu gương đối với quần chúng. Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu
cho các đảng cộng sản là “thuyết phục đa số Nhân dân thấy được sự đúng đắn
của cương lĩnh và sách lược của mình”. Lê-nin cho đây là nhiệm vụ chiến lược
quan trọng trong cả thời kỳ chưa có chính quyền và cả thời kỳ xây dựng CNXH:
“Việc giáo dục và rèn luyện quần chúng lao động là nhiệm vụ của cán bộ công
tác giáo dục của đảng cộng sản và của mọi cuộc cách mạng XHCN”.
Đồng thời, Lê-nin cũng phê phán cán bộ, đảng viên và các tổ chức của
Đảng khơng gương mẫu, khơng dùng hoặc “rất ít dùng những điển hình, những
tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong mọi lĩnh vực của đời sống để giáo dục
quần chúng”. Người yêu cầu: “Lấy kinh nghiệm lâu dài, lấy hàng chục ví dụ
thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc là một
biện pháp có hiệu quả khơng nhỏ”.
Lê-nin khuyến khích mở rộng dân chủ, công khai, làm cho tất cả mọi người
dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước, và cho rằng đó là một phương pháp
cơng tác quần chúng có tác dụng nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo
cách mạng của quần chúng. Người nhấn mạnh: “Một nước mạnh là nhờ ở sự
giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi
cái, quần chúng có thể phán đốn được về mọi cái và đi vào hành động một
cách có ý thức”. Những tư tưởng này của Lê-nin về công tác vận động quần
chúng và phương pháp công tác quần chúng đang soi rọi cho chúng ta trong
công tác dân vận hiện nay. Thực chất công tác dân vận là xây dựng mối quan hệ
gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; giữa Nhân dân với Đảng và
Nhà nước.
Năm là, vận dụng những tư tưởng, quan điểm của Lê-nin, chúng ta tiếp
tục xây dựng phong cách và phương thức công tác vận động quần chúng phù
7
hợp với u cầu của tình hình mới. Cơng tác vận động quần chúng không chỉ
phụ thuộc ở đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn mà cịn phụ thuộc ở
thái độ, phong cách, phương thức công tác của cán bộ, đảng viên, công chức
nhà nước. Phải quán triệt và kiên trì xây dựng quan điểm “dân là chủ”, “dân
làm chủ”, “cán bộ, đảng viên là công bộc của dân”, chống mọi biểu hiện quan
liêu, mệnh lệnh, hách dịch, cửa quyền với dân. Phải xây dựng phong cách dân
vận “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “nghe
dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Kế thừa kinh nghiệm của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và
giữ nước, vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ buổi đầu
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức sâu sắc vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử: “Dân là gốc của nước”, “cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định những nội
dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân
tộc và nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân, đề ra sách lược thu hút, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân làm thành lực lượng cách mạng đi theo lá cờ
tiên phong của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến công tác dân
vận, coi dân vận là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền,
các đồn thể chính trị - xã hội, cán bộ. Người đã chỉ ra rằng: “Tất cả cán bộ
chính quyền, tất cả cán bộ đồn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân
đều phải phụ trách dân vận”. Trong suốt quá trình lãnh đạo, với quan điểm sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng luôn xác định công tác
dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng,
là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Một trong những bài học quan trọng, góp
phần làm nên những thành tựu to lớn xuyên suốt chiều dài lịch sử là bài học
“Lấy dân làm gốc”, phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của
Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là tư tưởng xuyên
suốt góp phần cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, vượt qua mọi khó khăn và
8
đạt được nhiều thắng lợi. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong mọi công
việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là
gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên
trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế,
cơng cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, có tác động đến nhiều
người, nhiều giai tầng xã hội, với tinh thần cởi mở, dân chủ, cán bộ, đảng viên,
cơng chức ngày càng có điều kiện và cần thiết phải tiếp xúc, đối thoại, hướng
dẫn công việc cho dân, thật sự phục vụ Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, nói
phải đi đơi với làm, nói ít làm nhiều, thực sự gương mẫu trước quần chúng Nhân
dân. Nâng cao vai trò làm chủ của Nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội,
đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
bảo đảm an ninh quốc phịng, ổn định chính trị, nâng cao đời sống Nhân dân làm
cho đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý của Lê-nin về công tác quần chúng
Nhân dân của Đảng Cộng sản còn nguyên giá trị to lớn, đang tỏa sáng trong
công cuộc đổi mới đất nước ta. Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những
luận điểm tư tưởng của Lê-nin vào việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở tất cả các cấp, các
ngành, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ góp phần quan trọng,
hàng đầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật; thu hút và động viên được sức mạnh của Nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là thể hiện sự trung thành, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới.
1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình tổ
chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã luôn coi trọng công tác dân vận ,coi đây
là một nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược tập hợp nguồn lực để phát
triển đất nước của Đảng.
9
Ngay sau khi được thành lập, Đảng đã nhanh chóng tổ chức ra các đồn thể
cách mạng, hình thành bộ máy và cán bộ làm công tác dân vận. Từ tháng
10/1930, hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm:
Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế được
ra đời làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng
nhân dân tham gia các phong trào cách mạng, đấu tranh chống áp bức, bất cơng,
bóc lột, địi dân sinh, dân chủ ở khắp mọi nơi.
Trong những năm kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được mở rộng, thu hút thêm các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu nước không
đảng phái, không phân biệt giai cấp, tơn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Đảng
đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận
ln gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền của đất nước. Nhiều cán bộ,
chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên cường bám dân để thực hiện xuất
sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng, chở che, sẵn sàng hy sinh bảo
vệ cán bộ như con em trong gia đình.
Trong những năm tháng trường kỳ, gian lao đó, các phong trào thi đua yêu
nước, tiêu biểu như: “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một ly không dời”,
“Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Năm xung phong”, “Thóc khơng thiếu một cân,
qn khơng thiếu một người”… nhanh chóng được các tầng lớp nhân dân hưởng
ứng tích cực, tạo thành sức mạnh to lớn cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Hàng chục nghìn dân cơng hướng ra tiền tuyến vận tải lương thực, thực phẩm,
vũ khí phục vụ các chiến dịch, đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Hậu phương thi đua với tiền tuyến,
miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Công tác dân vận đã phát huy mạnh mẽ sức
người, sức của, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với tấm
lòng son sắt thủy chung, khơng gì lay chuyển được. Đó là động lực to lớn của cả
dân tộc, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc là thắng lợi
10
của đường lối mở rộng đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc. Đó là sự thành cơng của việc xây dựng lực lượng chính trị ngày càng rộng
rãi trong mặt trận và các đoàn thể, trong lực lượng vũ trang theo tư tưởng Bác
Hồ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, khơng để sót một người
dân nào, góp thành lực lượng tồn dân...”; phát huy cao nhất về lực lượng, trí tuệ
và của cải tạo thành sức mạnh tổng hợp để hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (1986), với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng đã khởi xướng sự
nghiệp đổi mới với bốn nội dung “đổi mới chủ trương, đổi mới tổ chức, đổi mới
cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”; trên cơ sở đó, giữ vững vai
trị lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước vượt qua khó khăn, phá thế bao vây cấm
vận, tiếp tục phát triển. Đường lối đổi mới của Đảng thể hiện rõ ý Đảng hợp
lòng dân, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng.
Nhằm phát huy sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc, tiến hành đổi mới toàn
diện và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng tiếp tục đổi mới
công tác dân vận. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI đã
ban hành Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 về “Đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” với 4
quan điểm chỉ đạo: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết
hợp hài hịa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ cơng dân; các hình
thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác quần chúng là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Nghị quyết 08B là bước chuyển kịp thời nhằm
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong tình hình mới, khắc phục
tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, chuyên
quyền, độc đoán, thiếu gương mẫu, làm giảm nhiệt tình cách mạng, hạn chế việc
phát huy khả năng to lớn của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Tư
tưởng này tiếp tục được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải
11
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII đến Đại hội XII, Đảng đã ban hành hệ
thống văn bản liên quan đến công tác dân vận: Về vận động các giới, giai tầng
xã hội; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; tăng cường
cơng tác dân vận của các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp; phát huy
vai trị nhân dân tham gia góp ý, giám sát, phản biện góp phần xây dựng chính
sách, pháp luật, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;
tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân... Đặc biệt,
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành
Nghị quyết 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới” tiếp tục khẳng định vai trị hết sức
quan trọng của cơng tác dân vận, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hội nhập, phát
triển nhanh và bền vững đất nước. Có thể nói, đây là hệ thống những chủ
trương, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo hết sức quan trọng đối với công
tác dân vận trong tiến trình cách mạng của Đảng.
Với tinh thần tăng cường và đổi mới trong công tác dân vận, cả hệ thống
chính trị đã hướng mạnh về cơ sở, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng,
hợp pháp của nhân dân, chăm lo toàn diện đời sống nhân dân; nâng cao ý thức,
trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là của người
đứng đầu trước nhân dân. Nhà nước tăng cường thể chế hóa, cụ thể hóa các nội
dung liên quan đến cơng tác dân vận, đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành các văn bản
pháp luật và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Qua đó, vừa phát huy tốt chế độ dân
chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của các cơ quan nhà
nước, chính quyền các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ
12
sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng,
thiết thực, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội tích cực đổi mới nội dung, phương thức vận động, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân; động viên nhân dân tham gia các cuộc vận động,
phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Nội dung các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước được gắn với
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phong
trào thi đua “Dân vận khéo” được phát động từ năm 2009, là một trong những
dấu ấn đổi mới công tác dân vận, trở thành trọng tâm của phong trào thi đua yêu
nước ngành Dân vận, được các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị tích
cực hưởng ứng. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” đã thúc đẩy nâng cao hiệu
quả các phong trào thi đua của các cấp, ngành trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Cơng tác dân vận đã góp phần rất quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, tạo cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày
nay.
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, những bài học kinh nghiệm quan
trọng trong công tác dân vận của Đảng được ghi nhận, đánh giá là, toàn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Trong mọi công việc của
Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện quan điểm “dân là
gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt
chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Đó cũng chính là những nội dung cốt lõi trong tác phẩm “Dân vận” của Bác Hồ.
Với tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045, Đại hội XIII của Đảng
(năm 2021) đã bổ sung nhiều nội dung mới về lãnh đạo đối với công tác dân
13
vận. Nghị quyết Đại hội đã đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân
trong chiến lược phát triển đất nước, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật; thực hiện phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội làm nịng cốt” để nhân dân làm chủ. Nghị quyết xác định rõ yêu cầu,
nhiệm vụ: Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức,
hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về cơng tác dân vận; có cơ
chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.
Để tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong giai đoạn mới
theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 30/7/2021, Bộ Chính trị đã ban
hành Quyết định số 23-QĐ/TW về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống
chính trị”. Quy chế quy định rõ trách nhiệm, cơ chế, phương thức công tác dân
vận của tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị phù hợp chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo 5 phương thức lãnh đạo,
thực hiện công tác dân vận của Đảng; bổ sung, cụ thể hóa quy định của Đảng về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người
đứng đầu đối với công tác dân vận; nêu rõ trách nhiệm phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội.
Tiểu kết chương 1:
Như vậy cơng tác dân vận là tồn bộ các hoạt động của Đảng nhằm tuyên
truyền, vận động thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức phong trào
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Với những vấn đề trình bày về vị trí, vai trị, nội dung và phương
thức tiến hành công tác dân vận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Đây chính là cơ sở lý luận để
14
tác giả khóa luận phân tích và đánh giá thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ
thị xã Mường Lay giai đoạn 2016-2021 tại chương 2.
15
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ THỊ
XÃ MƯỜNG LAY, TỈNH ĐIỆN BIÊN
2.1. Tổng quan về thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
Với diện tích hơn 11.266 ha, thị xã Mường Lay nằm ở phía Bắc tỉnh Điện
Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng 90 km về phía Bắc.
Trung tâm thị xã nằm trong thung lũng hẹp dài, ngã ba giao cắt của sông Đà,
sơng Nậm Na và suối Nậm Lay. Địa hình thị xã khá phức tạp với đồi núi cao, độ
dốc lớn và bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối nhiều.
Thị xã mang nét đặc trưng của khí hậu vùng Tây Bắc, tiêu biểu cho nơi đất
trời sông núi giao hoà. Dân cư chủ yếu là người Thái trắng, những mái nhà sàn
của người Thái quần cư vừa cổ xưa với kiến trúc truyền thống vừa hiện đại cùng
nếp sống cịn lưu giữ đậm đặc chất văn hóa truyền thống bản địa, đến độ có
người gọi là “mường Thái”.
Mường Lay được biết đến với các sản phẩm du lịch sông nước và lịng hồ
thủy điện; du lịch văn hố; du lịch lịch sử; du lịch khám phá… Không chỉ giàu
sản phẩm văn hóa vật thể, Mường Lay cịn rất phong phú văn hóa phi vật thể những nét văn hóa dân tộc truyền thống như các điệu múa nón, múa xịe, múa
khăn, đàn tính tẩu, văn hóa ẩm thực dân tộc, các mơn thể thao truyền thống ném
cịn, đẩy gậy, lễ Kin Pang Then, lễ hội đua thuyền đuôi én... Đây là điều kiện
thuận lợi để thị xã khai thác và phát huy các giá trị truyền thống của địa phương.
2.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh
Điện Biên
Trong nhiệm kỳ 2016-2021, Đảng bộ thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên đã
tổ chức các hoạt động dân vận với các nội dung công tác chủ yếu sau:
2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng
Ban Thường vụ Thị ủy tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với
công tác dân vận trong hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 25NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI); Kết luận số 1716
KL/TU, ngày 17-3-2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 10-NQ/TU về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
Chương trình, chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, dân tộc, tôn
giáo, công thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Hướng dẫn số 01HD/BDVTW, ngày 16/3/2021 của Ban Dân vận Trung ương; Hướng dẫn số 02HD/BDVTU, ngày 16/4/2021 của Ban Dân vận Tỉnh ủy Hướng dẫn một số
nhiệm vụ trọng tâm thực hiện QCDC ở cơ sở năm 2021.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị
quyết về công tác dân vận, dân tộc tôn giáo, quy chế dân chủ ở cơ sở. Báo cáo
kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tình hình cơng tác tơn giáo trên địa bàn thị
xã; báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Kết luận số 120-KL/TW, ngày 07/01/2016
của Bộ Chính trị; Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 08-KL/TW,
ngày 02/8/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về xây dựng cốt
cán trong tôn giáo; Báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị 18-CT/TW, ngày
10/01/2018.
Lãnh đạo MTTQ và các đồn thể chính trị xã hội tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, tiếp tục thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết
định 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị. Chỉ đạo MTTQ và các
đồn thể tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức, nhất là các chi hội ở địa bàn dân
cư, nâng cao chất lượng hoạt đông của các cấp hội. Tập trung đổi mới về nội
dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng,
chăm lo nhu cầu, lợi ích thiết thực của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Nhiều
cuộc vận động, phong trào thi đua do các cấp, các ngành phát động được Nhân
dân đồng tình hưởng ứng.
Chỉ đạo tiếp tục thực hiện các chương trình, hành động thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng khóa XIII, đại hội đảng bộ tỉnh, đảng bộ thị xã khóa XIV về
công tác dân vận. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV
và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016- 2026 thành công tốt đẹp.
Lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh COVID-19 đạt hiệu quả cao
17
theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, tỉnh để ra. Hướng dẫn nhân dân
thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống quy định “5 K” của Bộ y tế.
Cấp ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt triển khai các nội dung về công tác
dân vận đến các chi, đảng bộ, cán bộ, đảng viên và Nhân dân các dân tộc trên
địa bàn thị xã. Chỉ đạo Ban Dân vận Thị ủy, Khối dân vận các xã, phường; Mặt
trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội triển khai thực hiện các mơ hình
"Dân vận khéo" đến 03 xã, phường. Chỉ đạo quán triệt các nội dung, quan điểm
của Đảng về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện các mơ hình, điển
hình "Dân vận khéo"; chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội
gắn với các tiêu chí cơ bản để đánh giá điển hình "Dân vận khéo", vận động
đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị góp phần củng cố lòng tin của
Nhân dân với Đảng, Nhà nước tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục triển khai Quy định 11-QĐi/TW, ngày 18/02/2019 của Bộ Chính
trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong tiếp dân, đối thoại trực tiếp
với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân gắn với thực hiện Chỉ thị số
05- CT/TW, của Bộ Chính trị chuyên đề 2021; Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI, XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; Chỉ thị 35-CT/TW của Bộ Chính trị về
Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng; Quyết định 99-QĐ/TW,
ngày 03/10/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII về “Ban hành
Hướng dẫn khung để các cấc ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục
phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối,
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
2.2.2. Công tác dân vận của cơ quan nhà nước và phối hợp thực công
tác dân vận với Ban Dân vận, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị
* Công tác dân vận của Hội đồng Nhân dân:
Hội đồng nhân dân các cấp luôn bám sát các Chỉ thị, Nghị quyết, kế hoạch,
hướng dẫn của cấp trên, đã chủ động xây dựng và triển kế hoạch thực hiện công
tác Dân vận năm 2021; kịp thời triển khai, quán triệt các văn bản chỉ đạo của
Tỉnh ủy, Thị ủy về công tác dân vận đến tất cả các đại biểu HĐND thị xã,
18
Thường trực HĐND các xã, phường biết và tổ chức triển khai thực hiện. Qua đó,
đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, cơng chức, viên
chức và các tầng lớp Nhân dân về ý nghĩa, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác
dân vận trong tình hình mới, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, Đảng, chính quyền
và các tổ chức đồn thể xã hội trong việc phối hợp thực hiện công tác dân vận.
Phối hợp với Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thị xã tổ chức
được 21 Hội nghị tiếp xúc cử tri với người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026; có 917 cử tri tham dự; có 56 ý kiến, kiến
nghị phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri với người ứng cử. Tổ chức 03 hội
nghị tiếp xúc cử tri với đại biểu HĐND các cấp sau kỳ họp thứ 16 HĐND tỉnh
khóa XIV, kỳ họp thứ 12 HĐND thị xã khóa XIV có 200 cử tri, 19 ý kiến kiến
nghị; tổ chức 06 hội nghị tiếp xúc cử tri với đại biểu HĐND các cấp trước và sau
kỳ họp thứ hai HĐND thị xã khóa XV có 369 cử tri, 37 ý kiến kiến nghị; tổ chức
03 Hội nghị tiếp xúc cử tri với đại biểu HĐND tỉnh trước và sau kỳ họp thứ hai
HĐND tỉnh khóa XV có 199 cử tri, 04 ý kiến kiến nghị.
* Công tác dân vận của UBND các cấp:
Ủy ban nhân dân thị xã và UBND xã, phường đã đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai, minh bạch các
khoản thu, chi, các loại giấy tờ liên quan đến việc giải quyết thủ tục hành chính
theo quy định. Bộ phận một cửa, một cửa liên thông theo hướng hiện đại, kịp
thời giải quyết các công việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp. Tăng
cường thực hiện cơng tác cải cách hành chính trên địa bàn, hoạt động của bộ
phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa các cấp được thực hiện tốt, đã
tiếp nhận 873 hồ sơ. Trong đó đã giải quyết trả kết quả 867 hồ sơ, số đang giải
quyết 06 hồ sơ.
Ban Tiếp công dân thị xã đã tiếp nhận 10 đơn thư của công dân phản ánh,
kiến nghị, khiếu nại về các chế độ chính sách, an sinh xã hội. Kết quả, đã giải
quyết xong 05 đơn phản ánh kiến nghị và 01 đơn khiếu nại bằng hình thức trả
lời văn bản, đối thoại, trả lại cơng dân 01 đơn; cịn 03 đơn đang trong thời gian
19