Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN đề tài pháp luật về mang thai hộ với việc bảo vệ quyền lợi trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.55 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: Pháp luật về mang thai hộ với việc bảo vệ
quyền lợi trẻ em
Mơn Luật Hơn nhân và Gia đình
Giảng viên: Lê Thị Mận
Nhóm: 01
Lớp: DS44A
DANH SÁCH NHĨM
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Tên
Bùi Thị Phương Ngọc
Phan Bảo Ngọc
Phạm Thị Hồng Nhật
Lê Ý Nhi
Nguyễn Thái Linh Nhi
Phạm Hồng Uyển Nhi
Trần Thị Thu Nhi
Nguyễn Thị Kim Phụng
Phan Thị Thanh Tâm



MSSV
1953801012171
1953801012174
1953801012186
1953801012191
1953801012194
1953801012197
1953801012198
1953801012212
1953801012236

1

Ghi chú

Nhóm trưởng


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng các trường hợp vô sinh,
hiếm muộn xảy ra ngày càng nhiều trên thực tế. Việc các cặp vợ chồng muốn được làm
cha làm mẹ và có một gia đình của chính mình với những đứa con của họ là nhu cầu
thiết yếu của mỗi cặp vợ chồng cũng như của xã hội. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến

hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi cá nhân, nền tảng gia đình chính là mầm móng xây
dựng xã hội mà gia đình hạnh phúc thì xã hội mới trở nên tốt đẹp được. Dù việc phát
triển khoa học công nghệ trên thế giới đã đạt đến trình độ cao và kỹ thuật về hỗ trợ
sinh sản khá phát triển tuy nhiên vẫn cịn tồn đọng những khó khăn nhất định xong
việc giải quyết vấn đề về sinh sản đối với những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn vẫn
chưa được giải quyết triệt để. Theo Tổ chức Y tế thế giới, khu vực châu Á - Thái Bình
Dương là nơi có tỷ lệ sinh thấp nhất và tỷ lệ vô sinh cao nhất. Cách đây không lâu,
nhiều chuyên gia đã lo sợ về một sự bùng nổ dân số không thể kiểm soát được, tuy
nhiên quỹ đạo này đã đảo chiều khá nhanh và ít nhất 60 quốc gia hiện đã có tỉ lệ sinh
thấp hơn đáng kể so với mức độ cần duy trì 1. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự báo:
Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim
mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có
Việt Nam. Theo Kết quả nghiên cứu do Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Đại học Y
Hà Nội tiến hành cho thấy, tỷ lệ vô sinh tại Việt Nam đang gia tăng, đáng báo động là
có khoảng 50% cặp vợ chồng vơ sinh có độ tuổi dưới 30 2. Để cải thiện tình trạng này
thì mang thai hộ là một trong những giải pháp hiệu quả mà nhiều người lựa chọn.
Trước đây, mang thai hộ là vấn đề bị pháp luật nghiêm cấm tuy nhiên tình trạng mang
thai hộ ngày nay đã được pháp luật các quốc gia dự liệu và quy định cụ thể vào các
văn bản quy phạm pháp luật để tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm
muộn được làm cha làm mẹ như mong muốn. Tuy nhiên, không phải ở quốc gia nào
quy định về mang thai hộ cũng thuận lợi và dễ dàng. Quy định về mang thai hộ ở Việt
Nam đã được Quốc hội thông qua lần đầu tiên và được ghi nhận trong Luật HNGĐ
2014, đáp ứng nhu cầu chính đáng của những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Luật
HNGĐ 2014 quy định cụ thể nội dung liên quan đến chế định mang thai hộ, tránh sự
lạm dụng quy định của pháp luật vào mục đích đẻ thuê chỉ để kiếm lợi hay phục vụ
cho những kẻ buôn bán người và nội tạng. Và câu hỏi đặt ra là liệu chế định mang thai
hộ này đã thực sự áp dụng được vào thực tiễn một các triệt để hay chưa, hay cịn có
1 Bài viết “Tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam đang gia tăng”, Trang tin điệt tử Đảng Bộ Thành phố Hồ Chí Minh,
/>2 Bài viết: “Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo”, />
3



những bất cập nào tồn tại hay không và liệu những quy định về mang thai hộ của pháp
luật Việt Nam đã thực sự bảo vệ được quyền lợi của các bên, nêu được đầy đủ nghĩa
vụ của các bên trong mang thai hộ và những quy định này đã bảo vệ được quyền lợi
của những đứa trẻ sinh ra và lớn lên bằng chế định mang thai hộ này hay chưa. Chính
vì vậy nên nhóm tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về mang thai hộ với việc bảo vệ
quyền lợi trẻ em” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề về mang thai hộ là một vấn đề quan trọng và vô cùng cấp thiết hiện nay,
tuy nhiên vẫn còn khá mới mẻ và chưa có nhiều đề tài nghiên cứu và vấn đề này, do đó
việc tìm hiểu về mang thai hộ hiện này cịn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Tiêu biểu
có các bài viết, luận văn mà nhóm tác giả tìm hiểu được đã đi vào nghiên cứu về chế
định mang thai hộ:
- Khóa luật tốt nghiệp “Mang thai hộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Minh Thái - ngành Luật Kinh tế Viện Đại học Mở Hà Nội. Khóa
luận đã nêu nêu được một số vấn đề lý luận xoay quanh chế định mang thai hộ
từ đó đưa ra đánh giá về tính thực tiễn của chế định mang thai hộ.
- Luận văn Thạc sĩ “Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014” của tác
giả Phạm Thị Hương Giang – khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội chuyên
ngành Dân sự và tố tụng dân sự. Luận văn đã nghiên cứu phân tích và làm rõ
nội dung quy định về vấn đề mang thai hộ trong Luật Hôn nhân và gia định năm
2014 và đánh giá tính cụ thể và sát thực tiễn của quy định pháp luật về chế định
mang thai hộ.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hương – khoa Luật Dân sự, trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 13/02/2001. Bài viết đã đề cập tới nhiều khía cạnh pháp lý của việc mang
thai hộ; từ những phân tích về việc xác định cha, mẹ, con đến việc cần thiết phải
quy định về thỏa thuận mang thai hộ, điều kiện của các bên trong quan hệ mang
thai hộ.

- Cịn có các bài viết được đăn trên các tạp chí như: Bài viết “Quy định về mang
thai hộ - một nội dung mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” của tác
giả Nguyễn Quế Anh đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 8 (281) năm
2015; Bài viết “Quy định về mang thai hộ - điểm mới trong Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2014” của tác giả Nguyễn Văn Lâm đăng trên tạp chí Quản lý Nhà
nước – Học viện Hành chính số 237; Bài viết “Một số vấn đề về thực hiện quy
định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam” của tác giả Ths.Trần
Đức Thắng đăng trên tạp chí Nghề Luật số 2 năm 2016.

4


-

Có thể kể đến những bài viết như: “Mang thai hộ: nên cho phép để kiểm soát
tốt” trên báo phunuonline.com.vn ngày 17/8/2013; “Chính thức cho phép mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo” trên báo ngày 19/06/2014;
“Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ th cịn diễn ra?” trên trang web
ngày 12/07/2014. Các bài viết này đều cho thấy
được thực trạng của việc mang thai hộ ở Việt Nam, nêu lên được về nhwungx
vấn đề xoay quanh chế định này và cũng nêu ra một số hạn chế của pháp luật,
đánh giá sơ bộ về các quy định mới của pháp luật chứ chưa đi sâu vào nghiên
cứu, phân tích, đánh giá để làm rõ hơn về những quy định mà pháp luật đưa ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về mang thai hộ với việc
bảo vệ quyền lợi trẻ em, các quy định của pháp luật về mang thai hộ và khả năng áp
dụng quy định về mang thai hộ vào thực tiễn hiện nay cùng một số kiến nghị pháp luật
về chế định này.
Phạm vi nghiên cứu: chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về mang
thai hộ theo pháp luật Việt Nam, nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung

đề tài chứ không phải toàn bộ những vấn đề xoay quanh về mang thai hộ.
4. Mục đích của đề tài
Đề tài đi nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận của mang thai hộ, những quy
định của pháp luật hiện hành đối với việc mang thai hộ nhằm tiếp cận vấn đề mang
thai hộ một cách cụ thể. Đồng thời, có cái nhìn khái qt, tồn diện, sâu sắc về vấn đề
này, góp phần hồn thiện quy định về mang thai hộ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu, nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp chứng minh để đưa ra các dẫn chứng, chứng minh.
- Phương pháp tổng hợp thống kê tài liệu.
- Phương pháp phân tích, giải thích.
6. Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận gồm phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về mang thai hộ.
Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Chương 3: Thực trạng mang thai hộ tại Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị về
việc mang thai hộ.

5


Chương 1: Lý luận chung về mang thai hộ
1.1 Khái niệm chung về mang thai hộ
1.1.1 Khái niệm mang thai hộ
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm mang thai hộ được hiểu là: “Mang thai hộ (tiếng
Anh: surrogacy) là việc một người phụ nữ mang thai và sinh con thay cho người khác.
Người nhận. con là cha mẹ của đứa trẻ, chứ không phải người mang thai hộ. Nhiều ca
mang thai hộ thực hiện bằng cách cấy trứng đã thụ tinh của cặp cha mẹ vào tử cung
của người mang thai hộ. Thơng thường việc này cần phải có sự dàn xếp và thỏa thuận

giữa người thuê và người được thuê 3”. Làm mẹ là thiên chức cao quý của người phụ
nữ, ai cũng có quyền làm mẹ, mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, tất cả vì cái
thiên chức ấy. Nhưng đơi khi, cha mẹ có thể vì nhiều lý do như bị vô sinh hoặc điều
kiện sức khỏe khơng cho phép, ở nữ giới có thể mắc các bệnh lý về phụ khoa như hội
chứng buồng trứng đa nang, rối loạn hệ thống miễn dịch, u xơ tử cung,... Nam giới có
thể mắc các bệnh như giãn tĩnh mạch thừng tinh, bệnh lý tại tinh hoàn, viêm nhiễm
đường sinh dục, tinh trùng yếu, ung thư,...Ở những trường hợp này, họ phải thuê người
khác để sinh con hộ mình, họ thực sự mong muốn thực hiện được trách nhiệm làm cha,
làm mẹ của mình, mong muốn trao tình yêu thương cho những đứa con của mình. Cho
nên, việc mang thai hộ một phần đã bù đắp được những thiếu thốn mà những người
như họ mới hiểu được. Nhưng cũng có những trường hợp phụ nữ khơng bị vơ sinh
nhưng ngại mang thai, có một số người đã từng mang thai nhưng vì lí do ngồi ý muốn
bị xảy thai, hoặc một số người bị trầm cảm khi mang thai. Cho nên họ cảm thấy sợ khi
nghĩ đến việc tiếp tục mang thai, họ bị ám ảnh về tâm lý. Họ sẵn sàng chi trả một số
tiền cho bọn buôn người để buộc phụ nữ khác mang thai hộ mình, hoặc cũng có những
đường dây bn người đã th người mang thai hộ, sau đó tước đoạt đứa trẻ để đem
bán cho người khác. Hành động này xét về mặt pháp lý lẫn nhân đạo đều là hành vi
đáng lên án. Do vậy, mang thai hộ là một hoạt động rất dễ bị lợi dụng để kiếm lợi
nhuận, hoặc thực hiện buôn bán phụ nữ và trẻ em, nên cần phải quy định rất chặt chẽ
về điều kiện thực hiện (cấm thực hiện vì mục đích thương mại, cấm thực hiện với
người độc thân, chỉ cho phép họ hàng mang thai hộ cho nhau).
Mang thai hộ là một việc làm đầy tính nhân đạo nhưng khơng phải ai cũng thực
hiện được. Do vậy, pháp luật Việt Nam quy định chặt chẽ về điều kiện mang thai hộ tại
khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ 2014 nêu rõ cặp vợ chồng vơ sinh có quyền nhờ mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo, và cặp vợ chồng này phải đáp ứng 03 điều kiện sau:
- Có xác nhận của tổ chức y tế về việc người vợ không thể mang thai và sinh con
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
- Vợ chồng đang khơng có con chung
- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý
3 Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, />

6


Những điều kiện này là yêu cầu bắt buộc mà những người tìm đến mang thai hộ
phải đáp ứng, bởi vì việc mang thai hộ có thể dẫn tới những tranh chấp phức tạp về
quyền nuôi con, cũng như gây ra nhiều vấn đề về đạo đức. Đặc biệt, nếu thủ tục và
điều kiện mang thai hộ không chặt chẽ, việc này có thể bị lợi dụng để kiếm lợi nhuận,
biến phụ nữ và trẻ em thành món hàng để mua bán (buôn người), thiên chức làm mẹ và
giá trị về tình mẫu tử của con người sẽ bị biến dạng và chà đạp. Theo Luật HNGĐ
2014 quy định thì chúng ta có thể dựa vào mục đích của việc mang thai hộ để phân
loại, mang thai hộ được chia thành hai loại: mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và
mang thai hộ vì mục đích thương mại.
1.1.2 Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Theo Luật HNGĐ hiện hành, cụ thể tại khoản 22 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 thì
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, khơng vì mục
đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai
và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người
vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung
của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên thông
qua thỏa thuận và được xác lập bằng văn bản. Hình thức mang thai hộ này quy định rất
chặt chẽ về điều kiện của từng bên về thỏa thuận mang thai hộ cụ thể là thỏa thuận
phải được lập thành văn bản và có cơng chứng; khi lập thỏa thuận thì vợ chồng bên
nhờ mang thai hộ có thể ủy quyền cho nhau, văn bản ủy quyền phải có cơng chứng,
khơng được ủy quyền cho người khác xác lập thỏa thuận, về thủ tục đề nghị thực hiện
kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định cụ thể tại Điều 14 Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm và điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Nghị định 10/2015/NĐ-CP).
1.1.3 Mang thai hộ vì mục đích thương mại
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo - cái tên cũng cho thấy rằng việc mang thai hộ

chỉ với mục đích hỗ trợ cho những cặp vợ chồng khơng có khả năng tự sinh con; vậy
mà mục đích cao đẹp đó đang bị biến tướng trở thành mang thai hộ vì mục đích
thương mại. Theo Luật HNGĐ 2014 tại khoản 23 Điều 3 thì mang thai hộ vì mục đích
thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Làm mẹ là thiên
chức cao quý, mà thiên chức cao quý thật sự không đánh đổi được bằng tiền, nhiều
người sẵn sàng chấp nhận mang thai hộ để đổi lấy số tiền cho việc mang thai đó. Đứa
bé được sinh ra như một sản phẩm của giao dịch mua bán trái phép vì mục đích kinh
tế, điều này trái với đạo đức con người, trái với luật pháp Việt Nam. Hiện nay, tình
trạng bn bán trẻ em đang là vấn đề nhức nhối, theo báo cáo của Bộ Công an, trong 5
7


năm (2012-2017), có khoảng hơn 3.000 nạn nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán,
trong đó, 90% nạn nhân bị bán sang Trung Quốc. Số nạn nhân bị mua bán và nghi vấn
bị mua bán là 3.090 người, trong đó, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em (chiếm trên 90%) 4.
Người có hành vi thực hiện mang thai hộ vì mục đích thương mại, tùy theo tính chất,
mức độ và hậu quả xảy ra, có thể bị xử lý hành chính, thậm chí phải chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật.
Mang thai hộ là một chủ đề được quan tâm nhiều trong những năm gần đây, Luật
HNGĐ 2014 đã bắt kịp thực tiễn khi chính thức ban hành quy định cho phép mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo. Với những điều luật đầy tính nhân văn, quyền và nghĩa vụ
của người mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ đều được bảo vệ. Cũng từ
đây mở ra nhiều cơ hội cho các bậc làm cha, làm mẹ thực hiện được trọng trách cao
quý của mình, đem lại hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Chính thức cho phép mang thai hộ
bằng hình thức nhân đạo đã mở ra nhiều cơ hội cho những cặp vợ chồng mong mỏi có
con và cũng là cơ chế pháp lý cần thiết để tránh việc mang thai hộ biến tướng thành
“đẻ thuê” (hay còn gọi là mang thai hộ vì mục đích thương mại).
1.2 Trình tự thủ tục mang thai hộ:
Việc thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải đáp ứng điều kiện trình tự, thủ tục

theo quy định của pháp luật hiện nay.
Trình tự thực hiện việc mang thai hộ được quy định tại Điều 11 Nghị định
10/2015 NĐ-CP như sau: Cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân gửi hồ sơ đề
nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được thực hiện các kỹ thuật này. Về hồ sơ mang thai hộ, đối tượng muốn sử dụng
phươnng thức mang thai hộ phải chuẩn bị bộ hồ sơ gửi đến một trong những cơ sở y tế
có đủ điều kiện về mang thai hộ, bao gồm các loại giấy tờ được quy định hướng dẫn
tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 10/2015 NĐ-CP. Vì vậy, để được phép tiến hành mang
thai hộ các cặp vợ chồng phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo các quy định trên và gửi đến
cơ sở được pháp thực hiện thủ thuật này như Bệnh viện Phụ sản Trung ương; Bệnh
viện Đa khoa Trung ương Huế; Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TP Hồ Chí Minh… Trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ sở được cho phép thực
hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai
hộ, trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng văn bản,
đồng thời nêu rõ lý do.
Ngoài ra, Luật HNGĐ 2014 tạo cơ chế pháp lý khá hoàn chỉnh cho việc mang
thai hộ, quy định cho phép mang thai hộ khi bảo đảm các điều kiện: Khơng vì mục

4 Bài viết “Tình hình tội phạm mua bán người trong giai đoạn hiện nay và một số giải pháp phịng ngừa”, Cổng
thơng tin điện tử Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao, />
8


đích thương, chỉ cho phép với những người cùng trong dịng họ hoặc chứng minh có
họ hàng 3 đời. Các quy định này nhằm tránh xảy ra các tranh chấp phát sinh như điều
kiện của người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ (tuổi, sức khỏe, số lần mang
thai…); quyền và nghĩa vụ của các bên (trong đó có trường hợp tai biến sản khoa đối
với người nhờ mang thai hộ (nếu có), trách nhiệm của các bên trong trường hợp đứa
trẻ sinh ra bị khuyết tật, dị tật; thủ tục hành chính; biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
1.3 Ý nghĩa của việc mang thai hộ:

Việc mang thai hộ ngày nay mang ý nghĩa theo nhiều góc độ từ phương diện xã
hội, đến y học và pháp lý. Về góc độ xã hội mang thai hộ được hiểu là một hiện tượng
tồn tại và phát triển sự sống con người. Về y học mang thai hộ được hiểu là việc một
người phụ nữ mang thai và sinh con cho một cặp vợ chồng vơ sinh có áp dụng phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Cho dù việc mang thai hộ mang ý nghĩa ở góc độ nào
đi nữa thì đây cũng được xem là một bước đột phá trong công tác lập pháp, mở ra
niềm hy vọng mới cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn không thể sinh con.
Mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của các cặp vợ chồng mong
muốn được thực hiện quyền làm cha mẹ. Thậm chí ở một số quốc gia phạm vi mang
thai hộ rất rộng, không chỉ là việc dành cho cặp vợ chồng khơng có khả năng sinh sản
mà cịn dành cho những ơng bố bà mẹ đơn thân có nhu cầu làm cha làm mẹ. Mang thai
hộ có thể nhìn nhận theo góc độ tích cực lẫn tiêu cực, cụ thể như thơng thường người
nhờ mang thai hộ sẽ tìm kiếm những người đang có nhu cầu về kinh tế và có thể giúp
đỡ họ, đổi lại họ có thể hỗ trợ ngược lại cho người được nhờ mang thai hộ. Giúp bảo
vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em. Tạo khung pháp lý an toàn trong các giao dịch mang
thai hộ và có cơ chế phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương
mại như hiện nay, tranh chấp có thể phát sinh, đồng thời khơng tránh khỏi phát sinh
việc mang thai hộ vì mục đích thương mại.

9


Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo.
2.1 Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Để việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được tiến hành trên cơ sở tự nguyện,
bảo vệ quyền con người và tránh hành vi mang thai hộ diễn ra trái pháp luật thì người
mang thai hộ và người được nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng các
điều kiện nhất định về mặt hình thức và nội dung. Cụ thể tại Điều 95 Luật HNGĐ
2014 là các điều kiện về nội dung, quy định về điều kiện riêng của các bên về điều

kiện, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khi thỏa thuận từ khi bắt đầu sử dụng biện pháp
hỗ trợ kỹ thuật mang thai hộ đến khi sinh con và các sự kiện pháp lý xảy ra sau này
giữa các bên. Cịn về mặt hình thức bằng văn bản phải công chứng được quy định cụ
thể tại Điều 96 Luật HNGĐ 2014.
Điều 95 Luật HNGĐ 2014 đã quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo phải đáp ứng bốn điều kiện sau:
Thứ nhất, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện giữa các bên và được thành lập bằng văn bản.
Thứ hai, điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ là vợ chồng phải đáp ứng điều
kiện tại khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ 2014.
Thứ ba, điều kiện đối với người mang thai hộ phải đáp ứng theo khoản 3 Luật
HNGĐ 2014.
Thứ tư, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khơng được trái với quy định của
pháp luật về sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.
Ngoài ra, tại Điều 96 Luật HNGĐ 2014 cũng quy định về thỏa thuận mang thai hộ
phải đáp ứng các quy định về mặt hình thức. Đây cũng là một trong những điều kiện
quan trọng để cơng nhận tính hợp pháp việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Để
tránh sau này nếu có bất kì sự kiện pháp lý nào phát sinh thì các bên có căn cứ xác
định các quyền và nghĩa vụ theo đúng thỏa thuận ban đầu.
2.1.1 Thực hiện trên cơ sở giữa các bên và thành lập bằng văn bản
Tính tự nguyện là điều kiện quan trọng trong chế định về điều kiện mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ là hành vi ảnh hưởng trực tiếp tới quyền
nhân thân của các bên đặc biệt là người được nhờ mang thai hộ. Nó ảnh hưởng khơng
ít đến sức khỏe người mang thai và có khả năng nguy hiểm đến tính mạng. Do đó cần
phải tự nguyện thỏa thuận trong trường hợp này, tránh hành vi bị ép buộc hay vì mục
đích sinh lợi nào khác. Điều kiện về tính tự nguyện được quy định cụ thể tại khoản 1
Điều 95 Luật HNGĐ 2014. Theo đó quy định “việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và phải thành lập thành văn
bản”. Với quy định này lại đặt ra cho chúng ta câu hỏi rằng, vậy “cơ sở tự nguyện”
10



được xác định như thế nào giữa các bên và cách thức thành lập bằng văn bản cụ thể ra
sao? Để giải thích cho vấn đề trên thì tại Điều 96 Luật HNGĐ 2014 đã nên ra thỏa
thuận và điều kiện về văn bản một cách cụ thể. Thỏa thuận này được thành lập dựa
trên cơ sở tự nguyện giữa các bên. Nghĩa là bên nhờ mang thai hộ và người mang thai
hộ thống nhất với nhau về mọi thỏa thuận mà không bị ép buộc hoặc cưỡng chế với bất
kì cách thức nào, và đương nhiên phải có văn bản theo đúng quy định của pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 96 Luật HNGĐ 2014 có qui định thỏa thuận về mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo giữa người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ phải có các
nội dung cơ bản sau:
a) Thơng tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều
kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này;
b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của
Luật này;
c) Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để đảm
bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh
con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối
với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các
quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo
thỏa thuận.
Nhìn chung, các nội dung cơ bản trên trong thỏa thuận giữa các bên chỉ mang tính
gợi mở cho các bên có căn cứ xác lập các thỏa thuận riêng, còn việc thỏa thuận cụ thể
như thế nào là do ý chí giữa các bên.
Ngồi ra, thỏa thuận về việc mang thai hộ được lập thành văn bản phải đáp ứng
quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ 2014: Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải
được lập thành văn bản có cơng chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai
hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về thỏa
thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có cơng chứng. Việc ủy quyền cho

người thứ ba khơng có giá trị pháp lý. Như vậy, việc ủy quyền chỉ cho phép ủy quyền
cho vợ hoặc chồng của hai bên và không chấp nhận việc ủy quyền cho người thứ ba.
Bởi lẽ đối với hành vi mang thai hộ, ý chí của các bên là vơ cùng quan trọng, cho nên
không thể tùy tiện ủy quyền cho bất cứ cá nhân nào khác nhằm đảm bảo tính tự
nguyện giữa các bên.
Đối với thỏa thuận giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ với cơ sở y tế
thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác
nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này. Theo đó, cặp vợ chồng vơ sinh phải

11


nộp đơn đề nghị đến cơ sở y tế có thẩm quyền để được thực hiện kỹ thuật mang thai
hộ:
- Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì cặp vợ chồng vô sinh
gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này.
- Điều 13 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định 03 cơ sở y tế sau có thẩm quyền
thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

Bệnh viện Phụ sản trung ương;

Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;

Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.2 Điều kiện đối với người mang thai hộ:
Việc mang thai hộ là hành vi liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân của mỗi
người. Pháp luật Việt Nam cho phép việc mang thai hộ nhưng phải vì mục đích nhân
đạo. Tuy nhiên, để quản lý chặt chẽ việc mang thai hộ, tránh việc mang thai hộ vì mục
đích thương mại, xem con người như công cụ sinh sản thì tại khoản 2 Điều 95 Luật

HNGĐ 2014 quy định về điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ như sau: “2. Vợ
chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có xác
nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; b) Vợ chồng đang khơng có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”
Thứ nhất, có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đây là quy định
khá nghiêm ngặt, bởi tránh trường hợp dù người vợ có khả năng mang thai nhưng vì
nhiều lí do cá nhân như sợ mang thai, không muốn mang thai, ... mà thuê người khác
mang thai hộ.
Thứ hai, vợ chồng đang khơng có con chung: Quy định này còn gây khá nhiều
tranh cãi bởi việc vợ chồng có một con chung nhưng người vợ lại mất khả năng sinh
sản hoặc người con chung của vợ chồng mắc bệnh hiểm nghèo, ... Việc quy định vợ
chồng phải đang khơng có con chung thì mới được phép nhờ người mang thai hộ đôi
khi lại là quy định gây ra cản trở trong những trường hợp trên, không phù hợp với thực
tế.
Thứ ba, đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý: Việc quy định vợ chồng phải được
tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý trước khi nhờ mang thai hộ giúp vợ chồng có cái hình
dung cụ thể và chuẩn bị tinh thần một cách tốt nhất để đón nhận đứa con chung bằng
phương pháp nhờ người mang thai hộ. Bởi trên thực tế, rất nhiều cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ, khi nhận con lại có cảm giác khơng như ý muốn vì khơng mang nặng đẻ
đau thì tình mẫu tử có thể khó nảy sinh được. Về mặc pháp lý, vợ chồng nhờ mang thai
12


hộ cần nắm vững để khi có bất kì sự kiện pháp lý nào phát sinh giữa bên nhờ mang
thai và bên được nhờ mang thai thì cũng sẽ có cơ sở và căn cứ để bảo vệ quyền của
mình
Nhìn chung, các điều kiện của vợ chồng người nhờ mang thai hộ trên cũng tương
đối ngắn gọn và dễ tiếp cận. Tuy nhiên cần có quy định rõ ràng hơn về nguyện vọng và

mục đích của việc nhờ mang thai hộ. Và người nhờ mang thai hộ có đủ điều kiện vật
chất và tình u thương để ni dạy đứa con khơng do vợ chồng tạo ra hay khơng? Có
thể một lúc nào đó, hành vi mang thai hộ vì mục đích nhân đạo lại đi ngược với bản
chất nhân đạo vốn có của nó.
2.1.3 Điều kiện người được nhờ mang thai hộ:
Người được nhờ mang thai hộ là người trực tiếp chịu ảnh hưởng của việc mang
thai hộ về mặt sức khỏe và tinh thần. Cụ thể khi mang thai người được nhờ mang thai
hộ bị tổn hại về sức khoẻ, phải trải qua các giai đoạn khác nhau của thai kì, cho nên
điều kiện mang thai hộ phải vô cùng chặt chẽ. Theo khoản 3 Điều 95 Luật HNGĐ
2014 thì người được nhờ mang thai hộ phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ: Sở dĩ luật quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng
hàng bên vợ hoặc bên chồng bởi tránh trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương
mại. Khái niệm người thân thít cùng hàng ở đây được hiểu như anh chị em họ của bên
vợ hoặc chồng. Tuy nhiên qui định này cũng một phần làm giảm đi cơ hội tìm người
nhờ mang thai hộ, bởi lẽ nếu chỉ giới hạn trong họ hàng thân thít thì rất ít ai đồng ý.
Trong khi vợ chồng người nhờ mang thai hộ lại khao khát có một đứa con nhưng
khơng có khả năng sinh con rất cần nhờ người mang thai hộ. Do đó, mặc dù việc mang
thai hộ theo pháp luật quy định là vì mục đích nhân đạo cấm mục đích thương mại
nhưng thiết nghĩ cần phải có cái nhìn thống hơn về vấn đề này.
Người được nhờ mang thai hộ phải là người đã từng sinh con và chỉ được mang
thai hộ một lần, ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về
khả năng mang thai hộ: quy định này hoàn toàn hợp lý và nhân văn để bảo vệ sức khỏe
cho người được nhờ mang thai hộ, tránh lạm dụng việc mang thai hộ cho mục đích
thương mại.
Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn
bản của người chồng: đây là một điều kiện hết sức cần thiết để người vợ được phép
mang thai hộ. Nếu chưa có sự đồng ý của chồng bằng văn bản mà tự ý mang thai hộ là
vi phạm quy định về điều kiện được mang thai hộ, vi phạm quy định pháp luật.
Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý: người phụ nữ khi mang thai hộ cần được

tư vấn về tâm lý, sức khỏe...như là quy trình thực hiện mang thai hộ, khả năng bị đa
mang thai, khả năng có sự phản đối khơng đồng tình từ phía gia đình hoặc bạn bè
13


trong thời gian mang thai hộ, các nguy cơ, biến chứng xảy ra khi mang thai như sảy
thai, thai ngoài tử cung, băng huyết sau sinh và một số kiến thức sinh sản khác trước
khi tiến hành. Điều này đảm bảo sức khỏe cho cả người phụ nữ mang thai hộ và cả đứa
bé được sinh bằng phương pháp mang thai hộ. Về mặt tâm lý, đây là vấn đề rất đáng
suy nghĩ. Mặc dù mang thai hộ bằng phương pháp kỹ thuật y tế, tuy nhiên cũng phải
mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày để sinh ra con thì việc chuẩn bị một tâm lý
vững là hết sức cần thiết. Tránh trường hợp ngoài ý muốn là người được nhờ mang thai
hộ không chấp nhận giao con và vi phạm các thỏa thuận ban đầu.
2.1.4 Điều kiện về sinh con bằng bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản:
Tại khoản 4 Điều 95 Luật HNGĐ 2014 quy định: Việc mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo khơng được trái với qui định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản. “Kỹ thuật sinh sản” ở đây là việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của
người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự
nguyện mang để mang thai và sinh con. Theo quy định của Điều này thì việc mang
thai hộ khơng được trái với quy định của pháp luật về kỹ thuật mang thai này, nghĩa
rằng phải tuân theo quy định của các điều kiện về tính nhân đạo và hình thức tại những
điều khoản đã phân tích trên. Khơng được sử dụng phương pháp nào khác ví dụ như:
cố tình cấy ghép mà khơng được sự đồng ý từ phía vợ hoặc chồng người nhờ mang
thai hộ, không dùng biện pháp hỗ trợ sinh sản để mang thai hộ mà dùng biện pháp
truyền thống như việc “đẻ thuê”, ... Nếu vi phạm các điều kiện trên thì sẽ bị chịu trách
nhiệm hành chính và hình sự về mang thai hộ theo quy định của pháp luật hiện hành.
Cụ thể:
Khoản 1 Điều 60 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ
quy định: “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, sinh sản vơ tính, mang

thai hộ vì mục đích thương mại”. Đồng thời, người vi phạm còn bị ap dụng biện pháp
khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 2 của Điều này là “buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này”.
- Xử lý hình sự: Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội tổ chức
mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau:
“1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
14


c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm”.
Căn cứ quy định nêu trên, người có hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại
có thể bị xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền tối đa là 10 triệu đồng. Người tổ
chức mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể bị xử lý hình sự, với mức hình phạt
cao nhất là 05 năm tù.
Nhìn chung, các điều kiện trên là tương đối cần thiết để hành vi mang thai hộ được
bảo vệ từ phía pháp luật khi có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra. Các điều kiện này cũng
góp phần hạn chế sự tự do trong việc mang thai hộ nhằm tránh được các hành vi mang
thai hộ vì mục đích thương mại, trái với tính nhân đạo. Tuy nhiên đó chỉ là mặt về lý
thuyết, trên thực tế hành vi mang thai hộ vẫn ngầm diễn ra, cho nên pháp luật Việt
Nam cần có những quy định nới rộng hơn về việc mang thai hộ này.

2.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
2.2.1 Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ
Bên cạnh những quy định về mục đích và điều kiện mang thai hộ là quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ. Để việc mang thai hộ được tiến
hành thì pháp luật quy định vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có văn bản thỏa thuận về
việc áp dụng kỹ thuật này đối với cả vợ chồng của người được nhờ mang thai hộ. Vì
vậy, khi đứa trẻ mang thai hộ được sinh ra, khoản 1 Điều 97 Luật HNGĐ 20145 quy
định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng người mang thai hộ như sau: “Người mang
thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc
chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc, ni dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ
cho bên nhờ mang thai hộ”. Điều này cho thấy Luật HNGĐ 2014 cũng đã quy định rất
chi tiết về thời điểm chấm dứt quyền, nghĩa vụ chăm sóc con như cha mẹ của cặp vợ
chồng được nhờ mang thai hộ là từ thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
Đây là một quy định hợp lý, đảm bảo tính nhân văn. Bởi vì, quy định này sẽ đảm bảo
tốt về sức khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh những trường hợp bên nhờ
mang thai hộ khơng quan tâm chăm sóc vì cho đó khơng phải là con đẻ của mình sẽ
dẫn đến những hậu quả không tốt cho đứa trẻ.
Kèm theo đó, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các
quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy

5 khoản 1 Điều 97 Luật HNGĐ năm 2014

15


định của Bộ Y tế tại khoản 2 Điều 97 Luật HNGĐ 2014 6 và sẽ được hưởng các chế độ
thai sản theo luật định ở khoản 3 Điều 97 Luật HNGĐ 20147.
Mặc khác, quy định tại khoản 4 Điều 97 Luật HNGĐ 2014 8 về quyền quyết
định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai trên thực tế đã có vụ
việc liên quan gây tranh cãi: “Đó là trường hợp một cặp vợ chồng người Australia

không thể thụ thai một cách tự nhiên nên đã tìm người mang thai hộ bên Thái Lan. Chị
Pattharamon Chanbua, 21 tuổi, một phụ nữ bán đồ ăn dạo đã có 2 con sống ở thị trấn
ven biển Sri Racha, cách Thủ đô Bangkok 90km là người được chọn. Cặp vợ chồng
người Úc đã trả 16.000 USD cho Pattharamon để chị mang thai hộ. “Số tiền đó là rất
lớn đối với tơi. Với số tiền đó, chúng tơi có thể cho con cái đi học và trả nợ”,
Pattharamon chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn ở Chonburi. Theo lời Pattharamon kể
với hãng tin ABC, chị mang thai song sinh, đến tháng thứ 4 thì kiểm tra phát hiện bé
trai mắc chứng Down. Sau khi biết tin này, cặp vợ chồng người Úc đã yêu cầu chị phá
thai. Là người theo đạo Phật, Pattharamon từ chối đề nghị đó. Khi cặp song sinh
được sinh ra tại Bangkok, cặp vợ chồng giấu tên đã đưa bé gái khỏe mạnh về và từ
chối nhận bé trai Gammy. Đáng nói là Gammy, hiện 7 tháng tuổi đang ốm rất nặng
bởi bệnh tim bẩm sinh”9. Như vậy, nếu trong trường hợp tương tự xảy ra, người mang
thai hộ không đồng ý từ bỏ thai, bất chấp lời khuyên của bác sĩ cũng như yêu cầu của
bên nhờ mang thai hộ để sinh ra đứa trẻ dị tật không khỏe mạnh. Điều này không chỉ là
nỗi đau cho người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ mà còn là sự thiệt thòi cho
đứa trẻ khơng được phát triển bình thường, tăng thêm gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Để hạn chế những trường hợp đau lịng trên, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể
liên quan đến việc có sự can thiệp của cơ quan y tế, bên nhờ mang thai hộ trong trường
hợp thai nhi có vấn đề dị tật, phát triển khơng bình thường để các bên có thể ngồi thỏa
thuận với nhau trong trường hợp này, tránh những xung đột đáng tiếc xảy ra.
Và cuối cùng là việc bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai
hộ có quyền u cầu Tịa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con ở khoản 5 Điều 97
Luật HNGĐ 201410.
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ
Song bên nhờ mang thai hộ cũng có quyền và nghĩa vụ tương ứng với bên
mang thai hộ. Điều đó được quy định cụ thể ở Điều 98 Luật HNGĐ 2014 11 như sau:

6 khoản 2 Điều 97 Luật HNGĐ năm 2014
7 khoản 3 Điều 97 Luật HNGĐ năm 2014
8 khoản 1 Điều 97 Luật HNGĐ năm 2014

9 Tham khảo bài viết: “Rắc rồi từ một hợp đồng mang thai hộ”, Nguồn: Website: ngày truy cập: 20/8/2018
10 khoản 5 Điều 97 Luật HNGĐ năm 2014
11 Điều 98 Luật HNGĐ năm 2014

16


1. Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc
chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con
phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng
chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời
điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ
mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về ni dưỡng, chăm sóc con thì
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy
định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi
thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo
quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
4. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên
nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự
và luật khác có liên quan.
5. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ
có quyền u cầu Tịa án buộc bên mang thai hộ giao con.
Ở khoản 1 và 2 Điều này bên nhờ mang thai hộ phải có nghĩa vụ trả tất cả các
chi phí cho bên mang thai hộ để đảm bảo sức khỏe sinh sản theo luật định cũng như có
trách nhiệm khi con được sinh ra. Song bên nhờ mang thai hộ không được từ chối
nhận con dù trong bất cứ trường hợp nào thì cũng phải bảo vệ quyền lợi của trẻ em về
nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, cấp dưỡng đến được hưởng thừa kế theo khoản 3 nêu
trên. Điển hình như Luật HNGĐ 2014 đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa các thành viên

trong gia đình ở khoản 4 Điều này nhằm hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền công
dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
(Chương V - Quan hệ giữa cha, mẹ và con). Luật cũng chú ý bảo vệ quyền của trẻ em
trong những vụ việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật và
trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết
hơn thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền,
nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn (Điều 12 và Điều 14). Bên cạnh đó, nhằm bảo
đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em, Luật còn ghi nhận nguyên tắc giao con dưới 36 tháng
tuổi cho mẹ trực tiếp ni dưỡng, trẻ em từ đủ 7 tuổi có quyền được bày tỏ ý kiến
mong muốn được sống chung với cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn hoặc
thay đổi người trực tiếp nuôi con (Điều 81).
Cũng như bên mang thai hộ thì bên nhờ mang thai hộ cũng có quyền u cầu
Tịa án trong trường hợp mà bên mang hộ từ chối nuôi con.
17


Tóm lại, việc đưa ra cụ thể quyền và nghĩa vụ của cả hai bên như trên là rất cần
thiết nhưng vẫn cịn có một số bất cập trong đó. Để tránh xảy ra trường hợp vì muốn
tiếp tục thai kỳ nên người mang thai hộ đã sinh ra đứa trẻ bị dị tật, luật cần quy định sự
thỏa thuận của vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ, chứ khơng nên giao
quyền đó cho người mang thai hộ như hiện nay. Đồng thời, cũng cần phải dự liệu thêm
trường hợp vợ chồng người nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và người mang thai hộ
muốn nhận con để làm cơ sở pháp lý giải quyết nếu có phát sinh. Vì chế định mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự là giải pháp tốt, thân thiện và ít tranh chấp nhằm
giúp cho các cặp vợ chồng vơ sinh đáp ứng nhu cầu có được một đứa con theo nguyện
vọng chính đáng thì người làm luật cần nghiên cứu và hoàn thiện thêm quy định pháp
luật trong thời gian tới. Có như vậy, pháp luật điều chỉnh về quan hệ mang thai hộ mới
có sức sống lâu dài và ổn định, đồng thời nâng cao niềm tin của người dân vào pháp
luật.

2.3 Xác định cha mẹ con trong mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Xác định cha mẹ con là thủ tục nhằm xác định người cha người mẹ hoặc một trong
hai người cha hoặc mẹ trên cơ sở quy định của pháp luật. Việc xác định cha mẹ con
không chỉ nhằm xác định thân phận mà còn ảnh hưởng đến các quyền lợi nhân thân
hay yêu cầu thực hiện việc cấp dưỡng, thừa kế sau này. Chính vì vậy việc xác định cha
mẹ con có ý nghĩa vơ cùng quan trọng và có tính quyết định đến tương lại con cái, việc
xác định phải thực hiện hết sức thận trọng để tránh những tranh chấp khơng đáng có.
Trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, xác định cha mẹ con có tính quyết
định đến thân phận của đứa trẻ. Xét về sinh học, việc mang thai hộ là quá trình lấy
noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó
cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và
sinh con, vì người mẹ khơng có khả năng mang thai hoặc nhiều lý do khác. Con sinh ra
sẽ có đặc điểm, hình dạng cũng như các yếu tố sinh học giống với cha mẹ nhờ mang
thai hộ. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hi vọng cho những vợ chồng hiếm
muộn, tuy nhiên trên thực tế việc mang thai hộ trong nhiều trường hợp xảy ra những
tình huống khơng mong muốn như đứa trẻ sinh ra không được lành lặn về thể chất hay
kém phát triển về tư duy, nhiều đứa trẻ ấy sinh ra thường bị những người cha mẹ thực
sự là cha mẹ nhờ mang thai hộ của chúng bỏ rơi, nếu như vậy việc mang thai hộ này
khơng vì mục đích nhân đạo mà là vì mục đích thương mại bởi người nhờ mang thai
hộ xem việc nhờ mang thai là một “hợp đồng” có tính ràng buộc về đứa trẻ, nếu đứa
trẻ sinh ra lành lặn thì họ nhận và nuôi dưỡng chúng nhưng nếu không may việc những
đứa trẻ bị khuyến khuyết về trí tuệ hay thân thể thì họ sẽ ruồng bỏ, khơng nhận những
đứa trẻ ấy, phó mặc hoặc đưa ra điều kiện cho người mang thai hộ xử lý tình huống
này như một dạng bồi thường hợp đồng. Chính vì vậy, nhằm đảm bảo được quyền lợi
18


được sống, quyền được phát triển của trẻ, pháp luật nước ta đã quy định rõ ràng về
việc xác định cha mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và áp dụng
trong mọi trường hợp dù trẻ sinh ra không được lành lặn hay phát triển bình

thường. Tại Điều 94 Luật HNGĐ 2014 đã quy định rõ về xác định cha mẹ trong
trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đứa con sinh ra là con chung của vợ
chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm được sinh ra. Pháp luật thừa nhận khi đứa trẻ
sinh là sẽ là con của cha mẹ nhờ mang thai hộ chứ không phải con của người mang
thai hộ.
Việc ghi nhận cha mẹ con do mang thai hộ vì mục đích nhận đạo thể hiện tại giấy
khai sinh của em bé, vậy để có được giấy khai sinh đó thì thủ tục như thế nào? Về cơ
bản, thủ tục đăng ký khai sinh em bé do mang thai hộ cũng tương tự như đăng ký khai
sinh cho em bé bình thường, điểm khác biệt và đáng lưu ý là việc yêu cầu có giấy
chứng sinh của em bé sinh ra. Theo khoản 1 Điều 16 Luật Hộ tịch 2014 người đi đăng
ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký
hộ tịch. Trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản
chứng minh việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật.
Về thủ tục cấp giấy chứng sinh quy định tại điểm c khoản 2 Điều 2 Thông
tư số 17/2012/TT-BYT quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh và được sửa đổi bổ
sung bởi Thông tư số 34/2015/TT-BYT, đầu tiên thủ tục gồm bên vợ chồng nhờ mang
thai hộ hoặc bên mang thai hộ chuẩn bị hồ sơ Bản xác nhận về việc sinh con bằng kỹ
thuật mang thai hộ12 và bản sao có chứng thực hoặc bản chụp có kèm theo bản chính
để đối chiếu Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ
mang thai hộ và bên mang thai hộ. Sau đó nộp giấy tờ kể trên đến cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh nơi trẻ sinh ra. Sau khi hồ sơ hợp lệ, phía cơ sở khám chữa bệnh nơi trẻ sinh
ra sẽ cấp Giấy chứng sinh13. Từ đây khi đã có được Giấy chứng sinh thì tiến hành thủ
tục xin cấp Giấy khai sinh theo Luật Hộ tịch 2014. Cha hoặc mẹ của trẻ được sinh nhờ
mang thai hộ nộp kèm tờ khai đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của người cha hoặc người mẹ. Cán bộ tư pháp nhận, kiểm tra và xét thấy thông tin khai
sinh đầy đủ, phù hợp sẽ ghi vào Sổ hộ tịch, trình Chủ tịch ký và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.
Tóm lại, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc làm nhân văn, trao cơ hội cho
những gia đình hiếm muộn mong muốn có con cái, những đứa trẻ sinh ra bằng hình
thức này có quyền được sống và phát triển như những đứa trẻ khác, đứa trẻ được sinh

ra bằng hình thức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con của cha mẹ người nhờ
mang thai hộ quyền lợi của trẻ được đặt ở trung tâm, là ưu tiên phát triển hàng đầu và
12 Phụ lục 05 ban hành kèm theo Thông tư 34/2015/TT-BYT
13 Phụ lục 01A ban hành kèm theo Thông tư 34/2015/TT-BYT

19


cha mẹ những đứa trẻ ấy chính là tiền đề cho sự trưởng thành của chúng sau trong
tương lai, đó là trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ, họ có nghĩa vụ đăng ký
khai sinh, chăm sóc, ni dạy theo đúng pháp luật như những đứa trẻ bình thường.

20


Chương 3: Thực trạng mang thai hộ tại Việt Nam hiện nay và một số kiến
nghị về việc mang thai hộ
3.1 Thực trạng hiện tại về mang thai hộ ở Việt Nam.
Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28-01-2015 của Chính Phủ: Quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo có hiệu lực từ ngày 15-3-2015. Sau một năm từ ngày Nghị định 10/2015/NĐ-CP
có hiệu lực cả nước có hơn 100 hồ sơ đủ điều kiện cho phép mang thai hộ. Riêng bệnh
viện Từ Dũ (TP.HCM) tiếp nhận 56 trường hợp được chỉ định mang thai hộ. Ngày
22/01/2016, em bé đầu tiên mang thai hộ đã chào đời tại Bênh viện Phụ sản Trung
ương. Em bé là con của vợ chồng anh chị Nguyễn Thị Hà ở Hà Nam. Sau nhiều năm
chạy chữa khơng có kết quả, được biết Luật HNGĐ 2014 cho phép mang thai hộ, vợ
chồng chị Hà đã nhờ người cô họ thụ thai. Và kết quả bé ra đời trong sự hân hoan của
gia đình14.
Trước khi có quy định cụ thể của pháp luật về mang thai hộ thì ở Việt Nam cũng
có rất nhiều hoạt động mà thông thường được gọi bằng cái tên “dịch vụ đẻ thuê”. Mặc

dù chưa có điều tra hay số liệu chính thức nào về số cặp vợ chồng có nguyện vọng nhờ
mang thai hộ nhưng nếu lên Internet và gõ từ “dịch vụ đẻ thuê” thì sẽ thấy hàng loạt
các phóng sự nói về chủ đề này như: Dịch vụ đẻ thuê: 50 triệu đồng/ca (VietBao.vn
thứ hai, ngày 17 tháng 12 năm 2007) với nội dung là “cò” đẻ và đường dây “thuê
bụng” “hợp đồng” thuê đẻ; Bác sĩ tiếp tay đường dây đẻ thuê giá trăm triệu ở Sài Gòn
(Xzing.vn) với nội dung: quảng bá đẻ thuê, mức giá trọn gói 400 triệu đồng, thực hiện
ở Hà Nội hoặc Thái Lan, tuyển mộ gái đẻ thuê, bác sĩ tiếp tay; Đường dây đẻ thuê
“khủng” ở Hà Nội (ngôi sao.net ngày 01/5/2013); Âm thầm “đẻ thuê chui” giữa lòng
Hà Nội (VietNam.net ngày 01/6/2012) viết về cò đẻ thuê ở cổng bệnh viện, dịch vụ
tìm người đẻ thuê trên mạng; Bi kịch đẻ thuê (Thanh niên online)… Hay chỉ cần Click
chuột vào “tìm người đẻ thuê ở Hà Nội” trên Google trong 0,44 giây lập tức hiện lên
khoảng 468 kết quả. Hay gõ “dịch vụ đẻ thuê” trên google sẽ thấy hàng triệu kết quả
trong đó khơng thiếu những phụ nữ vơ sinh cần tìm một người mang thai hộ.
Nickmame hoa hong… @ yahoo đăng tải với nội dung “Mình ở Hà Nội, cần tìm người
đẻ thuê, giá cả thoả thuận. u cầu khơng bệnh tật, đã có con hoặc chưa có con. Ai biết
ở đâu có dịch vụ đẻ thuê thì nhắn tin giúp mình nhé. Mình rất đang mong có em
bé…”; Bộ Tư pháp cũng đã giải quyết vụ việc 14 cô gái Việt Nam tham gia đường dây
đẻ thuê tại Thái Lan… Nhu cầu mang thai hộ là phổ biến, việc pháp luật không cho
phép đẻ thuê sẽ dẫn đến tình trạng bác sĩ tại Việt Nam khơng dám thực hiện vì sợ vi
phạm pháp luật, những người có nhu cầu thì đi nước ngồi để thực hiện mang thai hộ,
14 Linh Nga, Bài viết “Em bé được mang thai hộ đầu tiên ở Việt Nam chào đời”. />
21


vừa tốn kém, vừa thất thoát ngoại tệ; quyền và lợi ích của người mang thai hộ, người
nhờ mang thai hay đứa trẻ cũng không được bảo đảm.15
Như vậy, vấn nạn mang thai hộ vẫn còn tồn tại khi Luật HNGĐ 2014 cho phép
mang thai hộ. Các giao dịch mang thai hộ không những trái pháp luật mà các cặp vợ
chồng hiếm muộn cũng tự đặt mình vào sự mạo hiểm “tiền mất tật mang”. Và vì là làm
chui nên không được pháp luật bảo vệ.

3.2 Những sự kiện cụ thể của các tổ chức mang thai hộ nhằm mục đích thương mại.
3.2.1 Tổ chức mang thai hộ nhằm mục đích thương mại xuyên quốc gia
Ngày 10-4-2019, Cơ quan CSĐT Công an TP Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) cho hay
vừa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt khẩn cấp Phạm Thị Huế (35 tuổi;
trú tại xã Song Mai, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) và Ninh Thị Hải Yến, (31 tuổi; ở
số 13, Nguyễn Biểu, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, TP Hà Nội) về tội "Tổ
chức mang thai hộ nhằm mục đích thương mại". Qua khai thác, bước đầu Huế khai
nhận cuối năm 2017, đối tượng này đang bán hàng tại Trung Quốc có quen 1 người
đàn ông họ Dương (không rõ thông tin về lai lịch, địa chỉ) là giám đốc một bệnh viện
Trung Quốc. Huế thỏa thuận với giám đốc họ Dương nếu tìm người Việt Nam sang
Trung Quốc mang thai hộ sẽ được số tiền từ 50 đến 60 triệu đồng/người và tiền cơng
chăm sóc người mang thai hộ là 1.000 tệ (khoảng 3,4 triệu đồng/1 người/tháng). Sau
đó, Huế về Việt Nam, thơng qua mạng xã hội tìm người sang Trung Quốc mang thai
hộ. Huế đã tìm được 4 người đồng ý mang thai hộ, trong đó có Ninh Thị Hải Yến. Cả 3
người kia được Huế đưa sang Trung Quốc cấy phôi thành công, riêng Yến không đủ
điều kiện để mang thai nhưng Yếm đã giới thiệu cho Huế 5 người đủ điều kiện mang
thai hộ và số này đã cấy phôi thành công tại Trung Quốc.Trong khoảng thời gian từ
tháng 3 đến tháng 10-2018, Huế đưa toàn bộ số người trên sang 1 bệnh viện ở Quảng
Châu, Trung Quốc, đồng thời đối tượng này được giám đốc họ Dương thuê phiên dịch,
chăm sóc cho tổng số 17 người, trong đó có 15 người mang thai và Ninh Thị Hải Yến
và Phan Anh (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể).Đến cuối tháng 11-2018, giám đốc
họ Dương yêu cầu Huế về Việt Nam tìm thuê nhà để đưa một số phụ nữ đang mang
thai từ Trung Quốc về chăm sóc.Trở về Việt Nam, Huế đã thuê nhà số nhà 79 (ở tổ 2B,
khu 1A, phường Hồng Hải, TP Hạ Long) để chăm sóc cho những người đang mang
thai hộ từ ngày 4-12-2018. Khoảng thời gian này, có một người đã đẻ xong được Huế
nhờ đến nấu cơm và chăm sóc những thai phụ trên. Tổng số tiền Huế đã nhận được từ
việc giới thiệu và chăm sóc 15 người mang thai hộ là 260 triệu đồng. Ninh Thị Hải
Yến được số tiền môi giới người mang thai hộ do Huế trả là 30 triệu đồng. Những
người mang thai hộ sau khi giao con thành công sẽ được từ 300 triệu đồng đến 340
triệu đồng. Ngoài ra, khi ở tại nhà riêng tại số 13, Nguyễn Biểu, phường Quán Thánh,

15 Bài viết “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, Cổng thông tin điện tử Bộ Y Tế (MOH). />
22


quận Ba Đình (Hà Nội), Ninh Thị Hải Yến đã môi giới cho một đối tượng tên Thủy là
người Việt Nam đang ở Trung Quốc 5 người phụ nữ Việt Nam mang thai hộ. Số tiền
Yến hưởng lợi qua việc môi giới cho Thủy là 30 triệu đồng/người.Theo khai nhận của
Huế, còn 9 người Việt Nam mang thai hộ đang ở Trung Quốc.16
3.2.2 Tổ chức mang thai hộ nhằm mục đích thương mại trong nước
Chiều 8/7, TAND TP Hà Nội đưa vợ chồng Vũ Thị Liễu (SN 1990,) và Phạm
Thiên Thuấn (SN 1987, ở Hải Dương) ra xét xử tội “Tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại”. Liên quan đến vụ án, Hoàng Huy Quang (SN 1976, ở Hoàng Mai)
cũng bị đưa ra xét xử với cùng tội danh. Quang vốn không nghề nghiệp, gặp Liễu vào
khoảng đầu năm 2019 khi chị ta cũng không việc làm, phải bán trứng (noãn) cho bệnh
viện để kiếm tiền. Thấy nhiều người muốn có con nhưng khơng sinh đẻ tự nhiên,
Quang rủ Liễu lập đường dây mang thai hộ, nhằm thu lời bất chính. Rủ thêm chồng là
Thuấn tham gia, Liễu thống nhất sẽ chịu trách nhiệm tìm người mang thai hộ, mỗi
trường hợp nhận mang thai hộ sẽ được Quang trả 290- 310 triệu đồng. Ngồi ra, tồn
bộ chi phí tiền khám, xét nghiệm, cấy phôi do Quang chi trả. Về phần Quang, hàng
ngày anh ta sẽ lang thang ở các bệnh viện để săn tìm người có nhu cầu mang thai hộ,
rồi trực tiếp thỏa thuận chi phí với họ giá từ 400-550 triệu đồng cho một lần mang thai
hộ. Một trong số những người từng tìm đến các bị cáo để nhờ mang thai hộ phải kể
đến ông M. (SN 1958, ở Nam Từ Liêm). Ngày 15/9/2018, con trai ông là anh N. (SN
1992, nguyên cán bộ Công an) tử vong vì TNGT. Trước khi con mất, ơng M. gửi tinh
trùng của anh N. tại Bệnh viện Nam học để lưu giữ. Đến khoảng 4/2019, ông M. nhờ
Quang tìm người mang thai hộ để cấy tinh trùng của con trai. Quang thỏa thuận với
ông M. giá mang thai hộ là 420 triệu đồng. Ông đồng ý và đã đưa trước cho Quang
200 triệu đồng cùng tinh trùng của con. Nhận được “đơn đặt hàng”, Liễu đăng tin tìm
và thuê chị Định Thị Ng. (SN 1991, ở Sơn La) làm người mang thai hộ bằng tinh trùng
của anh N. 2/3/2019, 3 bị cáo đưa chị Ng. đến bệnh viện để thực hiện việc cấy tinh

trùng của anh N. vào tử cung. Sau khi nhận 18 triệu đồng, chị Ng. đi siêu âm cho kết
quả đã mang thai đôi. Cáo buộc cho rằng, từ 4/2019- 8/2019, các bị cáo đã tổ chức 5
vụ mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tổng số tiền Quang được hưởng lợi là hơn
1,2 tỷ đồng. Vợ chồng Liễu, Thuấn hưởng lợi hơn 189 triệu đồng. Sau khi xem xét,
HĐXX tuyên phạt Hoàng Huy Quang 2 năm tù; Vũ Thị Liễu: 15 tháng tù; Phạm Thiên
Thuấn: 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.17
3.3 Bất cập trong quy định của pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

16 Trọng Đức, Bài báo “Phát hiện đường dây tổ chức mang thai hộ xuyên quốc gia lớn chưa từng có”.
/>
23


Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một trong những quy định mới của Luật
HNGĐ 2014. Qua 05 năm thực hiện, quy định này đã và đang phát huy được những
giá trị tích cực trong việc ghi nhận và bảo vệ các quyền nhân thân của cá nhân, mang
lại hạnh phúc cho hàng trăm cặp vợ chồng bế tắc trong nỗ lực tìm kiếm cơ hội làm cha
mẹ của những đứa con có cùng huyết thống với chính họ. Điều này cho thấy, các quy
định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc trong
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong mục tiêu chung là xây dựng
pháp luật vì nhân dân, vì con người.
Những quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay vẫn còn bộc lộ
những bất cập, hạn chế trong q trình áp dụng, trong đó có một số quy định về thủ tục
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần thiết phải sớm hoàn thiện nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về chế định đầy tính nhân văn này.
Thứ nhất, về đối tượng được phép mang thai hộ. Theo điểm a khoản 3 Điều 95
Luật HNGĐ 2014 pháp luật quy định người mang thai hộ là người thân thích cùng
hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai. Việc giới hạn đối tượng mang thai hộ
đã làm giới hạn lại khả năng được nhờ mang thai hộ của các cặp vợ chồng hiếm muộn.

Trên thực tế, sẽ có khơng ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và
đều khơng có chị em gái hoặc có chị em gái nhưng những người này là người chưa
thành niên, hay đã thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Nếu các cặp
vợ chồng rơi vào trường hợp này thì sẽ khơng bao giờ có cơ hội có con nữa. Khi đó họ
sẽ tìm đến các dịch vụ “đẻ thuê” mà không thấy trước được các hậu quả, hệ lụy và các
rắc rối phát sinh từ việc “đẻ thuê” trái pháp luật.
Thứ hai, bất cập trong quy định điều kiện nhờ mang thai hộ là khi “vợ chồng đang
khơng có con chung” theo điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ 2014. Sẽ không hợp
lý khi trong trường hợp vợ chồng đã có con chung nhưng không may đứa con ấy lại bị
khuyết tật, di tật và người vợ khơng có khả năng sinh thêm con thứ hai. Họ muốn có
một người con khỏe mạnh để chăm sóc và ni dạy. Quy định này đã cản trở họ vì đã
có con chung.
Thứ ba, xét về hồ sơ đăng ký, các cặp vợ chồng áp dụng biện pháp mang thai hộ
và người mang thai hộ phải thực hiện rất nhiều giấy tờ nhưng lại khơng chặt chẽ.
Ví dụ như quy định người mang thai hộ đã từng sinh con một lần và chỉ được
mang thai hộ một lần theo điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HNGĐ 2014, khơng có gì để

17 T Nhung, Bài báo “9X đẻ mướn và đường dây mang thai hộ giá nửa tỷ đồng ở Hà Nội”.
/>
24


chứng minh người này đã từng sinh con và đã mang thai hộ một lần mà chỉ là lời cam
đoan thì khơng đủ chứng cứ để xác minh những lời cam đoan đó là đúng sự thật.
Thứ tư, về quyền quyết định số lượng bào thai và tiếp tục hay không tiếp tục
mang thai. Theo khoản 4 Điều 97 Luật HNGĐ 2014, có đề cập đến quyền của người
mang thai hộ “Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát
triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc
tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc
sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Tuy nhiên đối với người

nhờ mang thai hộ lại không đề cập đến vấn đề này như vậy có thể hiểu người nhờ
mang thai hộ khơng có quyền được quyết định có được tiếp tục mang thai hay không.

25


×